KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 4
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG
PHẬT
QUYỂN BA MƯƠI TÁM
PHẨM THẬP ĐỊA THỨ
HAI MƯƠI SÁU
THỨ BẢY VIỄN HÀNH
ĐỊA
Bấy giờ Thiên chúng lòng hoan hỉ
Rải báu thành mây trụ trong không
Khắp phát đủ thứ âm thanh hay
Nói với bậc tối thắng thanh tịnh.
Thấu đạt thắng nghĩa trí tự tại
Thành tựu công đức trăm ngàn ức
Hoa sen trong đời không chấp trước
Vì lợi quần sinh
nói hạnh sâu.
Tự Tại Thiên
Vương ở trong không
Phóng đại quang
minh chiếu thân Phật
Cũng rải mây
hương thơm tối thượng
Khắp cúng bậc dứt
ưu phiền não.
Bấy giờ Thiên
chúng đều hoan hỉ
Đều phát tiếng
hay cùng khen ngợi
Chúng tôi nghe
công đức địa nầy
Thời là đã được
lợi lành lớn.
Thiên nữ lúc
đó tâm vui mừng
Cùng tấu âm nhạc
trăm ngàn thứ
Đều do thần lực
của Như Lai
Trong âm cùng
vang lời như vầy:
Oai nghi tịch
tĩnh không ai bằng
Điều phục hết thảy
đời đáng cúng
Đã vượt tất cả
các thế gian
Mà vào thế gian
xiển đạo mầu.
Tuy hiện đủ thứ
vô lượng thân
Biết mỗi mỗi
thân không chỗ có
Khéo dùng lời lẽ
nói các pháp
Không chấp tướng
văn tự âm thanh.
Qua đến trăm
ngàn các cõi nước
Dùng đồ thượng
hạng cúng dường Phật
Trí huệ tự tại
không chấp trước
Không sinh khởi
tưởng cõi Phật ta.
Tuy siêng
giáo hoá các chúng sinh
Mà không có các
tâm đó đây
Tuy đã tu thành
thiện rộng lớn
Mà nơi pháp lành
không chấp trước.
Vì thấy tất cả
các thế gian
Lửa tham sân si
thường thiêu đốt
Nơi các tưởng niệm thảy đều lìa
Phát khởi đại bi
sức tinh tấn.
Tất cả chư
Thiên và Thiên nữ
Cúng dường đủ thứ
khen ngợi rồi
Đồng thời đều
cùng đứng yên lặng
Chiêm ngưỡng
Nhân Tôn nguyện nghe pháp.
Giờ Giải Thoát
Nguyệt lại thỉnh rằng
Các đại chúng
đây tâm thanh tịnh
Các hạnh tướng
trong Địa thứ bảy
Xin mong Phật tử
hãy tuyên nói.
Bấy giờ, Bồ
Tát Kim Cang Tạng bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng: Phật tử! Đại Bồ Tát đầy đủ
hạnh Địa thứ sáu rồi, muốn vào Viễn Hành Địa thứ bảy, phải tu mười thứ phương
tiện huệ, phát khởi đạo thù thắng.
Những gì là mười?
Đó là: Tuy khéo tu tam muội, không, vô tướng, vô nguyện, mà từ bi chẳng bỏ
chúng sinh.
Tuy được pháp
bình đẳng của chư Phật, mà thường ưa thích cúng dường Phật.
Tuy vào môn quán
không trí, mà siêng tích tập phước đức.
Tuy xa lìa ba
cõi, mà trang nghiêm ba cõi.
Tuy rốt ráo vắng
lặng các lửa phiền não, mà hay vì tất cả chúng sinh khởi diệt lửa phiền não
tham sân si.
Tuy biết các
pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như lửa ngọn, như biến hoá, như trăng
dưới nước, như hình trong gương, tự tánh không hai, mà tuỳ tâm tạo vô lượng
nghiệp thiện khác biệt.
Tuy biết tất cả
cõi nước giống như hư không, mà hay dùng diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi
Phật.
Tuy biết pháp
thân chư Phật bổn tánh không thân, mà dùng tướng tốt để trang nghiêm thân Phật.
Tuy biết âm
thanh chư Phật, tánh không vắng lặng không thể nói, mà hay tuỳ tất cả chúng
sinh, phát ra đủ thứ âm thanh tịnh khác nhau.
Tuy tuỳ chư Phật
rõ biết ba đời chỉ là một niệm, mà tuỳ chúng sinh ý hiểu phân biệt, dùng đủ thứ
tướng, đủ thứ thời, đủ thứ kiếp số, mà tu các hạnh.
Bồ Tát dùng mười
thứ phương tiện huệ như vậy, phát khởi hạnh thù thắng. Từ Địa thứ sáu vào Địa
thứ bảy, khi vào rồi, hạnh nầy thường hiện ra ở trước, tên là trụ Viễn Hành địa
thứ bảy.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát trụ Địa thứ bảy nầy rồi, vào vô lượng cõi chúng sinh, vào vô lượng thiện
nghiệp giáo hoá chúng sinh của chư Phật, vào vô lượng lưới thế giới, vào vô lượng
cõi nước thanh tịnh của chư Phật, vào vô lượng đủ thứ pháp khác biệt, vào vô lượng
hiện giác trí của chư Phật, vào vô lượng kiếp số, vào vô lượng giác ngộ trí ba
đời của chư Phật, vào vô lượng tin hiểu khác nhau của chúng sinh, vào vô lượng
đủ thứ thân danh sắc của chư Phật thị hiện, vào vô lượng ưa muốn, các căn khác
nhau của chúng sinh, vào vô lượng lời nói âm thanh của chư Phật, khiến cho
chúng sinh hoan hỉ. Vào vô lượng đủ thứ tâm hành của chúng sinh, vào vô lượng
trí huệ hiểu biết rộng lớn của chư Phật, vào vô lượng tin hiểu của Thanh Văn thừa,
vào vô lượng trí đạo của chư Phật nói, khiến cho tin hiểu. Vào vô lượng sự
thành tựu của Bích Chi Phật. Vào vô lượng môn trí huệ thâm sâu của chư Phật nói,
khiến cho thú nhập. Vào vô lượng phương tiện hạnh của các Bồ Tát. Vào vô lượng
đại thừa tập thành sự của chư Phật nói, khiến cho Bồ Tát được vào.
Bồ Tát nầy
nghĩ như vầy: Vô lượng cảnh giới Như Lai như vậy, cho đến trăm ngàn ức Na do
tha kiếp cũng không biết hết được. Tôi phải dùng tâm không phân biệt, không
công dụng, để thành tựu viên mãn.
Phật tử! Bồ Tát
nầy dùng trí huệ thâm sâu quán sát như vậy, thường siêng tu tập phương tiện huệ,
khởi đạo thù thắng, an trụ bất động, không một niệm ngừng nghỉ phế bỏ. Đi, đứng,
nằm, ngồi, cho đến ngủ nghỉ, chưa từng tạm tương ưng với cái chướng, thường
không hề bỏ tưởng niệm như vậy.
Bồ Tát nầy ở
trong niệm niệm, thường đầy đủ mười Ba La Mật. Tại sao? Vì niệm niệm đều dùng đại
bi làm đầu, tu hành Phật pháp, hướng về trí huệ của Phật.
Hết thảy căn lành, vì cầu trí huệ của Phật, mà bố thí cho
chúng sinh, đó gọi là Đàn na Ba la mật. Hay diệt tất cả các phiền não nóng bức,
đó gọi là Thi la Ba La Mật. Từ bi làm đầu, không tổn hại chúng sinh, đó gọi là Sàn
đề Ba La Mật. Cầu thiện pháp thù thắng, không nhàm đủ, đó gọi là Tỳ lê gia Ba
La Mật. Nhất thiết trí đạo thường hiện ra ở trước, chưa từng tán loạn, đó gọi
là Thiền na Ba La Mật. Hay nhẫn các pháp không sinh, không diệt, đó gọi là Bát
nhã Ba La Mật. Hay sinh ra vô lượng trí, đó gọi là phương tiện Ba La Mật. Hay cầu
trí huệ vô thượng, đó gọi là nguyện Ba La Mật. Tất cả dị luận và các chúng ma
không thể trở ngại phá hoại được, đó gọi là lực Ba La Mật. Như thật biết rõ tất
cả pháp, đó gọi là trí Ba La Mật.
Phật tử! Mười
Ba La Mật nầy, Bồ Tát ở trong niệm niệm, đều được đầy đủ. Như vậy bốn pháp nhiếp,
bốn pháp trì, ba mươi bảy phẩm, ba môn giải thoát, lược nói cho đến tất cả pháp
bồ đề phần, ở trong niệm niệm thảy đều viên mãn.
Bấy giờ, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng:
Phật tử! Bồ Tát chỉ ở trong Địa thứ bảy nầy, đầy đủ tất cả pháp bồ đề phần, hay
là ở trong các địa cũng được đầy đủ?
Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử! Bồ Tát ở trong Thập địa đều
đầy đủ pháp bồ đề phần. Riêng Địa thứ bảy thì thù thắng nhất. Tại sao? Vì Địa
thứ bảy nầy công dụng hạnh đã viên mãn, vào được hạnh trí huệ tự tại.
Phật tử! Bồ Tát ở tại Sơ địa, vì duyên tất cả Phật pháp nguyện
cầu, đầy đủ pháp bồ đề phần. Vì Địa thứ hai lìa tâm cấu. Vì Địa thứ ba nguyện lại
tăng trưởng được pháp quang minh. Vì Địa thứ tư nhập đạo. Vì Địa thứ năm thuận
việc làm thế gian. Vì Địa thứ sáu vào pháp môn thâm sâu. Vì Địa thứ bảy khởi tất
cả Phật pháp, cũng đều đầy đủ pháp phần bồ đề. Tại sao? Vì Bồ Tát từ Sơ địa cho
đến Địa thứ bảy, thành tựu phần trí công dụng. Do nhờ sức lực nầy, từ Địa thứ
tám cho đến Địa thứ mười, vô công dụng hạnh, thảy đều thành tựu.
Phật tử! Ví như có hai thế giới, một nơi tạp nhiễm, một nơi
thuần tịnh, ở giữa hai thế giới đó khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại phương
tiện thần thông nguyện lực.
Phật tử! Bồ Tát các địa cũng lại như vậy, có hạnh tạp nhiễm,
có hạnh thanh tịnh. Ở giữa hai thế giới đó khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại
nguyện lực, phương tiện trí huệ, mới vượt qua được.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Phật tử! Bồ Tát Thất địa nầy
là nhiễm hạnh, là tịnh hạnh?
Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử! Từ Sơ địa đến Thất địa,
thực hành các hạnh, đều xả lìa nghiệp phiền não, vì đem hồi hướng vô thượng bồ
đề. Vì được phần đạo bình đẳng, nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não.
Phật tử! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương cỡi voi trời báu, du
hành bốn thiên hạ, biết có người bần cùng khốn khổ, mà không bị hoạn nạn của những
người đó làm nhiễm, nhưng chưa gọi là bậc siêu nhân. Nếu bỏ thân vua sinh về trời
Phạm Thế, ngự cung điện trời, thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện
Phạm Thiên, quang minh oai đức, như vậy mới gọi là bậc siêu nhân.
Phật tử! Bồ Tát cũng lại như vậy. Ban đầu từ Sơ địa đến Thất
địa, ngồi Ba La Mật thừa, du hành thế gian. Biết các thế gian phiền não lỗi lầm
hoạn nạn, do ngồi thừa chánh đạo, nên không bị phiền não lỗi lầm làm nhiễm,
nhưng chưa gọi là siêu hạnh phiền não. Nếu bỏ tất cả hữu công dụng hạnh, từ Địa
thứ bảy vào Địa thứ tám, ngồi thừa Bồ Tát thanh tịnh, du hành thế gian, biết
phiền não lỗi lầm, mà chẳng bị nhiễm. Đó mới gọi là siêu hạnh phiền não, vì vượt
qua được hết tất cả.
Phật tử! Bồ Tát Địa thứ bảy nầy, đã vượt qua hết nhiều tham
dục và các thứ phiền não, trụ ở địa nầy, không gọi là bậc có phiền não, không gọi
là bậc không phiền não. Tại sao ? Vì tất cả phiền não không hiện hành, nên chẳng
gọi là có. Vì tâm cầu trí Như Lai chưa viên mãn, nên chẳng gọi là không.
Phật tử! Bồ Tát trụ tại Địa thứ bảy, dùng tâm thanh tịnh
thành tựu nghiệp thân, thành tựu nghiệp lời, thành tựu nghiệp ý. Hết thảy tất cả
nghiệp đạo bất thiện mà Như Lai quở trách đều đã bỏ lìa. Tất cả nghiệp thiện mà
Như Lai khen ngợi thường khéo tu hành.
Hết thảy kinh thư kỹ thuật của thế gian, như nói trong Địa
thứ năm, đều tự nhiên mà thực hành, không cần dụng công. Bồ Tát nầy ở trong ba
ngàn đại thiên thế giới làm minh sư, chỉ trừ Như Lai và bậc Bát địa trở lên,
ngoài ra các Bồ Tát khác, thâm tâm diệu hạnh không ai bằng được.
Các thiền tam muội, tam ma bát đề, thần thông giải thoát, đều
được hiện tiền. Nhưng do tu thành, chẳng phải như Bát địa, quả báo được thành tựu.
Bồ Tát tại địa nầy ở trong niệm niệm, tu tập đầy đủ phương tiện trí lực, và tất
cả pháp bồ đề phần, càng thù thắng viên mãn.
Phật tử ! Bồ Tát trụ địa nầy, nhập vào Bồ Tát khéo quán chọn
tam muội, khéo chọn nghĩa tam muội, tối thắng huệ tam muội, phân biệt nghĩa tạng
tam muội, như thật phân biệt nghĩa tam muội, khéo trụ kiên cố căn tam muội, môn
trí huệ thần thông tam muội, pháp giới nghiệp tam muội, Như Lai thắng lợi tam
muội, đủ thứ môn nghĩa tạng sinh tử Niết bàn tam muội.
Nhập vào đầy đủ trăm ngàn môn tam muội đại trí thần thông
như vậy, tịnh trị địa nầy. Bồ Tát đó được tam muội nầy, vì khéo tịnh trị phương
tiện huệ, vì sức đại bi, vượt qua bậc nhị thừa, được bậc quán sát trí huệ.
Phật tử! Bồ Tát trụ địa nầy, khéo tịnh vô lượng thân nghiệp
vô tướng hạnh, khéo tịnh vô lượng lời nghiệp vô tướng hạnh, khéo tịnh vô lượng
ý nghiệp vô tướng hạnh, nên được vô sinh pháp nhẫn quang minh.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Phật tử! Bồ Tát từ Sơ địa đến
bậc nầy, hết thảy vô lượng thân lời ý nghiệp, đã vượt qua hàng nhị thừa chưa?
Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử! Các bậc nầy đều đã vượt
qua, nhưng vì nhờ nguyện cầu các Phật pháp, chứ chẳng phải là tự trí lực quán
sát. Nay Địa thứ bảy do tự trí lực, nên tất cả hàng nhị thừa không sao bằng được.
Ví như vương tử sinh vào trong nhà vua, do hoàng hậu sinh ra
đầy đủ vương tướng. Sinh ra rồi, liền hơn hẳn tất cả chúng thần, nhưng nhờ sức
lực của vua, chứ chẳng phải tự lực. Nếu thân trưởng thành lớn lên, nghề nghiệp
thành tựu, thì mới nhờ vào tự lực hơn hẳn tất cả.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế. Lúc ban đầu phát tâm, vì nhờ
chí cầu đại pháp, nên vượt qua tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác. Nay trụ ở địa
nầy, nhờ tự mình tu hành trí huệ lực, nên vượt lên trên tất cả hàng nhị thừa.
Phật tử! Bồ Tát ở địa nầy, được cảnh giới thâm sâu xa lìa vô
hành, thường hành thân lời ý nghiệp, siêng cầu thượng đạo mà không xả lìa, cho
nên Bồ Tát tuy hành thật tế mà không tác chứng.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Phật tử! Bồ Tát từ Địa nào chứng
nhập được diệt tận định?
Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Phật tử! Bồ Tát từ Địa thứ sáu trở
lên, có thể nhập diệt tận định. Nay trụ địa nầy có thể niệm niệm nhập, cũng niệm
niệm khởi, mà chẳng tác chứng. Nên Bồ Tát nầy gọi là thành tựu thân lời ý nghiệp
không thể nghĩ bàn, tu hành nơi thật tế mà chẳng tác chứng.
Ví như có người ngồi thuyền đi vào biển, nhờ sức khéo léo chẳng
gặp tai nạn, Bồ Tát địa nầy cũng lại như vậy, ngồi thuyền Ba La Mật đi vào biển
thật tế, vì nhờ nguyện lực nên chẳng chứng diệt.
Phật tử! Bồ Tát nầy được tam muội trí lực như vậy, dùng đại
phương tiện, tuy thị hiện sinh tử, mà luôn trụ Niết bàn. Tuy quyến thuộc vây
quanh, mà thường ưa thích xa lìa. Tuy dùng nguyện lực thọ sinh trong ba cõi, mà
chẳng bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Tuy dùng sức phương tiện thường tịch diệt,
mà vẫn cháy hực, tuy đốt mà chẳng cháy. Tuy tuỳ thuận trí Phật, mà thị hiện vào
bậc Thanh Văn Bích Chi Phật. Tuy được cảnh giới tạng của Phật, mà thị hiện trụ
cảnh giới ma. Tuy vượt khỏi đường ma, mà hiện thực hành pháp ma. Tuy thị hiện đồng
hành với ngoại đạo, mà chẳng xả bỏ Phật pháp. Tuy thị hiện tuỳ thuận tất cả thế
gian, mà thường tu hành tất cả pháp xuất thế gian.
Hết thảy tất cả việc trang nghiêm, vượt qua tất cả trời, rồng,
Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, và
chẳng phải người, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v... mà chẳng xả bỏ
tâm ưa thích Phật pháp.
Phật tử! Bồ
Tát thành tựu trí huệ như vậy, trụ Viễn Hành địa. Vì nhờ nguyện lực nên được thấy
nhiều vị Phật, thấy được nhiều trăm vị Phật, cho đến thấy được nhiều trăm ngàn ức
Na do tha vị Phật.
Ở chỗ các đức Phật đó, dùng tâm rộng lớn, tâm tăng thắng,
cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Y phục, thức ăn uống, toạ cụ, thuốc
thang, tất cả đồ tư sanh, đều dâng lên cúng dường, cũng cúng dường tất cả Tăng
chúng. Đem căn lành đó hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại ở chỗ các
đức Phật, cung kính nghe pháp, nghe rồi thọ trì. Đắc được như thật tam muội trí
huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành. Ở chỗ các đức Phật đó, thọ trì chánh pháp,
thường được Như Lai hoan hỉ khen ngợi. Hết thảy tất cả vấn nạn của hàng nhị thừa,
đều không thua khuất phục được.
Lợi ích chúng
sinh, pháp nhẫn thanh tịnh. Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp,
hết thảy căn lành càng thêm tăng trưởng thù thắng.
Ví như vàng thật,
dùng các thứ báu đẹp xen vào trang nghiêm, thì càng thêm thù thắng, càng thêm
sáng lạn. Các đồ trang nghiêm khác không thể bằng được.
Bồ Tát trụ Địa thứ bảy nầy, hết thảy căn lành cũng lại như vậy.
Dùng sức phương tiện huệ, càng thêm sáng tịnh, chẳng phải hàng nhị thừa bằng được.
Phật tử! Ví
như ánh sáng mặt trời, ánh sáng của mặt trăng, sao, đều không bằng được. Những
chỗ bùn lầy của mặt đất cõi Diêm phù đề, ánh sáng mặt trời đều làm cho khô ráo.
Bồ Tát Viễn Hành địa nầy cũng lại như vậy, tất cả hàng nhị
thừa không thể bằng được, Bồ Tát đều làm cho khô ráo bùn lầy các hoặc của tất cả
chúng sinh.
Bồ Tát nầy ở
trong mười Ba La Mật, thiên nhiều về phương tiện Ba La Mật, còn các Ba La Mật
kia, chỉ tuỳ sức tuỳ phần mà tu.
Phật tử! Đó là
lược nói về Địa thứ bảy Viễn Hành địa của đại Bồ Tát.
Bồ Tát trụ ở địa
nầy, phần nhiều làm Tự Tại Thiên Vương, khéo vì chúng sinh nói pháp chứng trí,
khiến cho họ chứng nhập. Làm tất cả các nghiệp bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự,
như vậy đều không lìa niệm Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ trí nhất thiết
chủng, nhất thiết trí.
Lại nghĩ như vầy:
Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh làm thượng thủ, làm thắng, cho đến làm bậc y
chỉ của nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy phát tâm chuyên cần tinh tấn, thì trong
khoảng một niệm, đắc được trăm ngàn ức Na do tha tam muội, cho đến thị hiện
trăm ngàn ức Na do tha Bồ Tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng
của Bồ Tát, thì tự tại thị hiện hơn số trên đây, cho đến trăm ngàn ức Na do tha
kiếp không thể đếm biết được.
Bấy giờ Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn tuyên lại nghĩa trên, mà
nói kệ rằng:
Đạo đệ nhất nghĩa trí tam muội
Lục địa tu hành tâm đầy đủ
Lập tức thành tựu phương tiện huệ
Bồ Tát nhờ đây vào Thất địa.
Tuy rõ ba thoát khởi từ bi
Tuy đồng Như Lai siêng cúng dường
Tuy quán nơi không tập phước đức
Bồ Tát nhờ đây lên Thất địa.
Xa lìa ba cõi mà
trang nghiêm
Diệt trừ lửa hoặc
mà khởi lửa
Biết pháp không
hai mà siêng tu
Biết cõi đều
không thích nghiêm độ.
Hiểu thân bất động
đủ các tướng
Thấu thanh tánh
lìa khéo diễn nói
Vào nơi một niệm
sự khác biệt
Bậc trí nhờ đây
lên Thất địa.
Quán sát pháp nầy
được thấu tỏ
Rộng vì quần mê
làm lợi ích
Vào cõi chúng
sinh không bờ mé
Phật giáo hoá
nghiệp cũng vô lượng.
Cõi nước các pháp
với kiếp số
Hiểu dục tâm hành
đều vào được
Nói pháp ba thừa
cũng vô hạn
Như vậy giáo hoá
các quần sanh.
Bồ Tát siêng cầu
đạo tối thắng
Động nghỉ không bỏ
phương tiện huệ
Mỗi mỗi hồi hướng
Phật bồ đề
Niệm niệm thành tựu
Ba la mật.
Phát tâm hồi hướng
là bố thí
Diệt hoặc là giới,
không hại: nhẫn
Cầu thiện không
nhàm là sách tấn
Nơi đạo không động
tức tu thiền.
Nhẫn thọ vô sinh
gọi Bát Nhã
Hồi hướng: phương
tiện, mong cầu: nguyện
Không thể phá: lực,
khéo rõ: trí
Như vậy tất cả đều
thành mãn.
Sơ địa phan duyên
công đức đầy
Nhị địa lìa cấu
Tam dứt tranh
Tứ địa nhập đạo
Ngũ thuận hành
Đệ lục vô sinh
trí quang chiếu.
Thất trụ bồ đề
công đức đầy
Đủ thứ đại nguyện
đều đầy đủ
Nhờ đó vào được
trong Bát địa
Tất cả việc làm đều
thanh tịnh.
Địa nầy khó qua
trí mới khởi
Ví như ở giữa hai
thế giới
Cũng như Thánh
Vương không nhiễm trước
Nhưng chưa gọi là
tổng siêu độ.
Nếu trụ trong trí
địa thứ tám
Mới vượt qua được
tâm cảnh giới
Như Phạm Thiên
Vương siêu nhân loại
Như sen trong nước không nhiễm bùn.
Địa nầy tuy vượt qua các hoặc
Chẳng gọi có hoặc, không có hoặc
Nhờ không phiền não ở trong hành
Mà cầu Phật trí tâm chưa đủ.
Hết thảy các kỹ
thuật thế gian
Kinh thư từ luận
đều thông hết
Thiền định tam
muội và thần thông
Như vậy tu hành
đều thành tựu.
Bồ Tát tu
thành đạo thất trụ
Vượt qua tất cả
hạnh nhị thừa
Sơ địa nguyện
thành đây do trí
Ví như vương tử
sức đầy đủ.
Thành tựu thâm
sâu mới tiến đạo
Tâm tâm tịch diệt
chẳng thủ chứng
Ví như ngồi
thuyền vào trong biển
Ở nước chẳng bị
nước đắm chìm.
Phương tiện huệ
hành công đức đủ
Tất cả thế gian
không rõ được
Cúng dường nhiều
Phật tâm ích sáng
Như dùng báu đẹp
trang nghiêm vàng.
Địa nầy trí Bồ
Tát sáng nhất
Như ánh mặt trời
khô nước ái
Lại làm chủ cõi
trời Tự Tại
Hoá đạo quần
sinh tu chánh trí.
Nếu dùng sức
dũng mãnh tinh cần
Được nhiều tam
muội thấy nhiều Phật
Trăm ngàn ức số
Na do tha
Nguyện lực tự tại
lại hơn trên.
Đây là Bồ Tát Viễn
Hành địa
Phương tiện trí
huệ thanh tịnh đạo
Tất cả thế gian
trời và người
Thanh Văn Độc
Giác không biết được.
No comments:
Post a Comment