KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 4
KINHHOANGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN BA MƯƠI SÁU
PHẨM THẬP ĐỊA THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ NĂM NAN THẮNG ĐỊA
Bồ Tát nghe hạnh
thắng địa nầy
Nơi pháp hiểu ngộ
tâm hoan hỉ
Trong không mưa
hoa khen ngợi rằng:
Lành thay Đại sĩ
Kim Cang Tạng.
Tự Tại Thiên
Vương và Thiên chúng
Nghe pháp hớn hở
trụ hư không
Khắp phóng đủ thứ mây sáng đẹp
Cúng dường Như
Lai vui tràn đầy.
ChưThiên thể nữ
tấu âm nhạc
Cũng dùng lời lẽ
ca khen Phật
Đều nhờ oai thần
của Bồ Tát
Trong âm thanh
đó phát lời nầy:
Nguyện Phật xa
xưa nay mới mãn
Phật đạo lâu xa
nay mới được
Thích Ca Văn Phật
đến cung trời
Bậc lợi trời người
lâu mới thấy.
Biển cả lâu xa
nay mới động
Phật quang lâu
xa nay mới phóng
Chúng sinh lâu
xa mới an lạc
Âm thanh đại bi
lâu mới nghe.
Công đức bờ
kia đều đã đến
Kiêu mạn đen tối
đều đã diệt
Thanh tịnh cùng
cực như hư không
Không nhiễm thế
pháp như hoa sen.
Đấng Đại Mâu Ni
hiện ra đời
Ví như Tu Di hiện giữa biển
Cúng dường dứt sạch tất cả khổ
Cúng dường sẽ được trí chư Phật.
Chỗ nầy đáng cúng không gì bằng
Thế nên tâm vui cúng dường Phật
Như vậy vô lượng các Thiên nữ
Phát lời lẽ đó khen ngợi rồi.
Tất cả cung kính vui tràn đầy
Chiêm ngưỡng Như Lai đứng yên lặng
Lúc đó Đại sĩ Giải Thoát Nguyệt
Lại thỉnh vô uý Kim Cang Tạng
Các tướng hạnh trong Địa thứ năm
Xin đại Bồ Tát hãy tuyên nói.
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo Bồ Tát
Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát Địa thứ tư tu hành thiện đạo viên
mãn rồi, muốn vào Địa thứ năm Nan Thắng Địa, phải nhờ mười thứ tâm thanh tịnh
bình đẳng.
Những gì là mười ? Đó là : Tâm bình đẳng
thanh tịnh đối với Phật pháp trong quá khứ. Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật
pháp vị lại. Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện tại. Tâm bình đẳng
thanh tịnh đối với giới. Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với tâm. Tâm bình đẳng
thanh tịnh trừ thấy nghi hối. Tâm bình đẳng thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo. Tâm
bình đẳng thanh tịnh tu hành trí huệ kiến giải. Tâm bình đẳng thanh tịnh quán
sát tất cả pháp bồ đề phần. Tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hoá tất cả chúng
sinh.
Đại Bồ Tát dùng mười thứ tâm bình đẳng
thanh tịnh nầy, vào được Địa thứ năm của Bồ Tát.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ Địa thứ năm nầy
rồi, do khéo tu pháp bồ đề phần. Do khéo thanh tịnh thâm tâm. Lại do cầu đạo vô
thượng thù thắng. Do tuỳ thuận chân như. Do nguyện lực gia trì. Do từ bi
thương xót không bỏ tất cả chúng sinh. Do tích tập phước trí trợ đạo. Do tinh tấn
siêng năng tu tập không ngừng. Do sinh ra phương tiện khéo léo. Do quán sát chiếu
sáng các bậc trên. Do được Như Lai hộ niệm. Do niệm trí lực gia trì, nên được
tâm không thối chuyển.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát nầy, biết như thật, đây là khổ Thánh đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là
khổ diệt Thánh đế, đây là khổ diệt đạo Thánh đế. Khéo biết tục đế, khéo biết đệ
nhất nghĩa đế, khéo biết tướng đế, khéo biết sai biệt đế, khéo biết thành lập đế,
khéo biết sự đế, khéo biết sinh đế, khéo biết tận vô sinh đế, khéo biết nhập đạo
tri đế, khéo biết tất cả Bồ Tát địa thứ lớp thành tựu đế, cho đến khéo biết Như
Lai trí thành tựu đế.
Vì Bồ Tát này tuỳ
tâm ưa thích của chúng sinh, khiến cho họ hoan hỉ, nên biết tục đế. Vì thông đạt
một thật tướng, nên biết đệ nhất nghĩa đế. Vì giác ngộ pháp tự tướng cộng tướng,
nên biết tướng đế. Vì biết rõ các pháp phân vị sai biệt, nên biết sai biệt đế.
Vì khéo phân biệt uẩn giới xứ, nên biết thành lập đế. Vì giác ngộ thân tâm khổ
não, nên biết sự đế. Vì giác ngộ các cõi sinh tương tục, nên biết sinh đế. Vì tất
cả nhiệt não rốt ráo diệt, nên biết hết vô sinh trí đế. Vì sinh ra không hai,
nên biết nhập đạo trí đế. Vì chánh giác tất cả hạnh tướng, nên khéo biết tất cả
Bồ Tát địa. Thứ lớp tiếp tục thành tựu, cho đến Như Lai trí thành tựu đế, dùng
trí lực tin hiểu mà biết, chứ chẳng phải dùng rốt ráo trí lực mà biết được.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát này đắc được các đế trí như vậy rồi, biết như thật tất cả pháp hữu vi hư
vọng trá nguỵ, lừa dối mê hoặc phàm phu ngu si.
Bấy giờ, Bồ
Tát tăng thêm đại bi, sinh đại từ quang minh, đối với các chúng sinh.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát này được trí lực như vậy, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, thường cầu trí
huệ của Phật. Quán tất cả hạnh hữu vi, tiền tế, hậu tế như thật. Biết từ vô minh
tiền tế, hữu, ái, nên sinh. Sinh tử lưu chuyển, ở trong nhà các uẩn không thể
thoát ra, tăng trưởng nhiều sự khổ tụ tập.
Không cái ta,
không kẻ thọ, không kẻ dưỡng dục, càng không kẻ thủ lấy số thân đời sau. Lìa
cái ta, của ta, như quá khứ, vị lai, cũng như vậy, đều không chỗ có. Hư vọng
tham trước, dứt sạch thoát khỏi. Hoặc có, hoặc không, đều biết như thật.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát này lại nghĩ như vầy : Các phàm phu này ngu si không trí huệ, rất đáng
thương xót. Có vô số thân, đã diệt, nay diệt và sẽ diệt, diệt hết như vậy, mà
không thể nghĩ nhàm chán về thân. Lại càng tăng thêm biết bao việc khổ, theo
dòng sinh tử, không thể quay trở lại được. Nơi nhà các uẩn, không cầu thoát khỏi.
Không biết lo
sợ bốn rắn độc lớn, không nhổ được mũi tên kiêu mạn kiến chấp, không diệt được
lửa tham sân si, không phá tan được vô minh đen tối, không cạn khô được biển lớn
ái dục, không cầu đại Thánh đạo sư mười lực, mà nhập vào rừng rậm ma ý, ở trong
biển sanh tử, bị sóng giác quán cuốn trôi nhận chìm.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát này lại nghĩ như vầy : Chúng sinh này thọ khổ như vậy, cô cùng khốn đốn,
không ai cứu, không chỗ nương, không đất, không nhà, không mắt, không người dẫn
dắt, vô minh che đậy, ràng buộc trong đen tối.
Nay tôi vì tất cả chúng sinh đó, mà tu hành pháp phước trí
trợ đạo, độc nhất phát tâm, không cầu bạn bè. Đem công đức nầy, khiến cho các
chúng sinh rốt ráo được thanh tịnh, cho đến đắc được mười lực trí huệ vô ngại.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát dùng trí huệ quán sát căn lành tu tập như vậy, đều vì cứu hộ tất cả
chúng sinh, lợi ích tất cả chúng sinh, an lạc tất cả chúng sinh, thương xót tất
cả chúng sinh, thành tựu tất cả chúng sinh, giải thoát tất cả chúng sinh, nhiếp
thọ tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các khổ não, khiến cho tất
cả chúng sinh khắp được thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được điều
phục, khiến cho tất cả chúng sinh vào Bát Niết Bàn.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát trụ Nan Thắng địa thứ năm, gọi là nhớ, vì không quên các pháp. Gọi là
trí, vì hay khéo quyết định. Gọi là có thú hướng, vì biết trải qua ý thú, lần
lượt liên hợp. Gọi là tàm quý, vì tự hộ, hộ người. Gọi là kiên cố, vì không bỏ
giới hạnh. Gọi là giác, vì hay quán thị xứ phi xứ. Gọi là tuỳ trí, vì không tuỳ
theo họ. Gọi là tuỳ huệ, vì khéo biết câu nghĩa phi nghĩa khác nhau. Gọi là thần
thông, vì khéo tu thiền định. Gọi là phương tiện khéo léo, vì hay tuỳ thế gian
tu hành. Gọi là không nhàm đủ, vì khéo tích tập phước đức. Gọi là không ngừng
nghỉ, vì thường cầu trí huệ. Gọi là không mỏi mệt, vì tập đại từ bi. Gọi là vì
họ siêng tu, vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh vào Niết Bàn. Gọi là siêng cầu
không giải đãi, vì cầu lực vô uý pháp bất cộng của Như Lai. Gọi là phát tâm
năng hành, vì thành tựu trang nghiêm cõi Phật. Gọi là siêng tu đủ thứ nghiệp
lành, vì hay đầy đủ tướng tốt. Gọi là thường siêng tu tập, vì cầu trang nghiêm
thân lời ý của Phật. Gọi là đại tôn trọng cung kính pháp, vì ở nơi tất cả Bồ
Tát pháp sư, theo lời dạy mà tu hành. Gọi là tâm không chướng ngại, vì dùng đại
phương tiện, thường hành thế gian. Gọi là ngày đêm xa lìa những tâm khác, vì
thường thích giáo hoá tất cả chúng sinh.
Phật tử ! Khi
đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy, dùng bố thí để giáo hoá chúng sinh. Dùng ái
ngữ, lợi hành, đồng sự, để giáo hoá chúng sinh. Thị hiện sắc thân để giáo hoá
chúng sinh. Diễn nói các pháp để giáo hoá chúng sinh. Khai thị Bồ Tát hạnh để
giáo hoá chúng sinh. Hiển hiện đại oai lực của Như Lai để giáo hoá chúng sinh.
Thị hiện lỗi lầm hoạn nạn của sinh tử để giáo hoá chúng sinh. Khen ngợi lợi ích
trí huệ của Như Lai để giáo hoá chúng sinh. Hiện sức đại thần thông để giáo hoá
chúng sinh. Dùng đủ thứ hạnh phương tiện để giáo hoá chúng sinh.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát nầy siêng năng dùng phương tiện giáo hoá chúng sinh như vậy, tâm luôn
liên tục hướng về trí huệ của Phật, khiến cho các căn lành không thối chuyển,
thường khuyên tu học pháp thù thắng hạnh.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát nầy, vì lợi ích chúng sinh, nên học tập tất cả kỹ nghệ thế gian, như văn
học, toán số, đồ thư, ấn tỉ, địa thuỷ hoả phong, đủ các thứ luận, thảy đều
thông đạt.
Lại giỏi phương thuốc chữa lành các bệnh, như điên cuồng,
càn tiêu, quỷ mị, cổ độc, đều trừ dứt được. Văn bút tán vịnh, ca múa, kỹ nhạc,
diễu cười, đàm luận, thảy đều khéo giỏi. Quốc thành, thôn ấp, nhà cửa, vườn tược,
suối chảy, ao hồ, cỏ cây, hoa thuốc, những thứ giăng bày, thảy đều biết rõ.
Vàng bạc, ma ni, chân châu, lưu ly, ngọc bích, san hô, các bảo tàng, đều biết
nơi chốn, bày chỉ cho người. Đều giỏi quán sát mặt trời, mặt trăng, tinh tú,
chim kêu, địa chấn, đêm mộng cát hung, thân tướng sang hèn, không một chút sai
lầm.
Trì giới nhập định, thần thông vô lượng, bốn vô sắc, cùng với
tất cả việc thế gian khác, nhưng đối với chúng sinh chẳng tổn hại nhiệt não. Vì
lợi ích thảy đều khai thị, dần dần khiến cho họ an trụ vào Phật pháp vô thượng.
Phật tử ! Bồ
Tát trụ Nan Thắng địa nầy, do nguyện lực mà thấy được nhiều vị Phật. Như thấy
được nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều trăm ngàn vị Phật, cho đến
thấy nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật. Đều cung kính tôn trọng, thừa sự
cúng dường y phục, thức ăn uống, ngoạ cụ, thuốc thang, tất cả đồ tư sanh, thảy
đều dâng cúng. Cũng đem cúng dường tất cả chúng Tăng, đem căn lành nầy, hồi hướng
về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ở chỗ chư Phật
cung kính nghe pháp, nghe rồi thọ trì, tuỳ sức tu hành. Lại ở trong pháp của
chư Phật đó mà được xuất gia. Xuất gia rồi, lại càng nghe pháp, đắc được Đà la
ni, làm văn trì pháp sư. Trụ trong địa nầy, trải qua trăm kiếp, ngàn kiếp, cho
đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, hết thảy căn lành, dần dần càng trong
sáng thanh tịnh.
Phật tử ! Ví
như vàng thật, dùng xa cừ để đánh bóng, thì càng sáng tịnh. Hết thảy căn lành của
Bồ Tát ở địa nầy cũng lại như vậy. Dùng phương tiện huệ suy gẫm quán sát, thì
càng sáng tịnh.
Phật tử ! Bồ
Tát trụ tại Nan Thắng địa nầy, dùng phương tiện trí thành tựu công đức, căn
lành địa dưới không bằng được.
Phật tử ! Như mặt
trời, mặt trăng, tinh tú, cung điện, quang minh, do sức gió gia trì, không thể
trở hoại được, các gió khác cũng không thể khuynh động được. Hết thảy căn lành
của Bồ Tát địa nầy cũng lại như vậy. Dùng phương tiện trí tuỳ theo sự quán sát,
không thể trở hoại được, tất cả căn lành của bậc Thanh Văn, Độc Giác, thế gian
cũng không thể khuynh động được. Trong mười Ba la mật, Bồ Tát nầy thiên nhiều về
thiền Ba la mật, còn các Ba la mật kia, chỉ tuỳ sức tuỳ phần mà tu hành.
Phật tử ! Đó
là lược nói về Nan Thắng địa thứ năm của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ địa nầy, phần
nhiều làm Thiên Vương cõi trời Đâu Suất. Chỗ làm tự tại nơi các chúng sinh,
hàng phục được tất cả ngoại đạo tà kiến, hay khiến cho chúng sinh trụ trong thật
đế. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không
lìa niệm Phật, không lìa niệm Pháp, không lìa niệm Tăng, cho đến không lìa niệm
đầy đủ nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.
Lại nghĩ như vầy
: Tôi phải ở trong chúng sinh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng. Làm diệu,
làm vi diệu. Làm thượng, làm vô thượng. Cho đến làm bậc y chỉ của trí nhất thiết
trí.
Nếu Bồ Tát nầy
phát tâm siêng tinh tấn, trong khoảng một niệm, đắc được ngàn ức tam muội, thấy
được ngàn ức vị Phật, biết thần lực của ngàn ức vị Phật, có thể chấn động ngàn ức
thế giới của Phật, cho đến thị hiện ngàn ức thân, mỗi mỗi thân, thị hiện ngàn ức
Bồ Tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát, thì tự tại
thị hiện, hơn số trên đây. Trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến trăm ngàn ức Na do tha
kiếp, cũng không đếm biết được.
Bấy giờ, Bồ
Tát Kim Cang Tạng, muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:
Bồ Tát Tứ địa
thanh tịnh rồi
Suy gẫm ba đời
Phật bình đẳng
Giới tâm trừ
nghi đạo phi đạo
Quán sát như vậy
vào Ngũ địa.
Niệm xứ làm
cung, căn làm tên
Chánh cần làm ngựa,
thần túc: xe
Áo giáp năm lực
phá oán địch
Dũng mãnh không
lùi vào Ngũ Địa.
Tàm quý làm y,
giác phần: man
Tịnh giới làm
hương, thiền: hương thoa
Trí huệ phương
tiện diệu trang nghiêm
Vào rừng tổng
trì vườn tam muội.
Như ý làm
chân, chánh niệm: cổ
Từ bi làm mắt,
trí huệ: răng
Sư tử vô ngã
trong loài người
Phá oán phiền
não vào Ngũ địa.
Bồ Tát trụ Địa
thứ năm nầy
Chuyển tu đạo
thanh tịnh thù thắng
Chí cầu Phật
pháp không thối chuyển
Tâm niệm từ bi
không nhàm mỏi.
Tích tập phước
trí thắng công đức
Tinh cần
phương tiện quán địa trên
Phật lực gia trì
đủ niệm huệ
Biết rõ bốn đế đều
như thật.
Khéo biết thế
đế thắng nghĩa đế
Tướng đế khác biệt
thành lập đế
Sự đế sinh tận
và đạo đế
Cho đến Như Lai
vô ngại đế.
Quán đế tuy vi
diệu như vậy
Chưa được vô ngại
thắng giải thoát
Nhờ đây hay sinh
đại công đức
Cho nên vượt qua
trí thế gian.
Bèn quán đế rồi
biết hữu vi
Thể tánh hư nguỵ
không thật bền
Được phần từ mẫn
quang của Phật
Vì lợi chúng
sinh cầu Phật trí.
Quán các hữu
vi trước và sau
Vô minh đen tối
ái ràng buộc
Lưu chuyển xoay
vòng trong sự khổ
Không ta không
người không thọ mạng.
Ái thủ là nhân
thọ khổ sau
Muốn tìm bờ mé
không thể được
Mê vọng trôi
chìm không kỳ về
Bọn nầy đáng
thương tôi phải độ.
Uẩn: nhà, rắn:
cõi, mũi tên: chấp
Lửa tâm cháy mạnh
si ám nặng
Sông ái trôi
chuyển không rảnh xem
Biển khổ dật dờ
không người dắt.
Biết như vậy rồi
siêng tinh tấn
Chỗ làm đều vì độ
chúng sinh
Gọi là bậc có niệm
có trí
Cho đến bậc giác
hiểu phương tiện.
Tu hạnh phước
trí không nhàm đủ
Cung kính đa văn
không mệt mỏi
Cõi nước tướng tốt
đều trang nghiêm
Tất cả như vậy
vì chúng sinh.
Vì muốn giáo
hoá các thế gian
Giỏi biết thư số
ấn các pháp
Cũng lại hiểu biết
các phương thuốc
Chữa trị các bệnh
khiến lành hẳn.
Văn tự ca múa
đều khéo giỏi
Nhà cửa vườn hồ
đều an ổn
Bảo tàng phát hiện
chỉ cho người
Vì lợi ích vô lượng
chúng sinh.
Nhật nguyệt
tinh tú đất chấn động
Cho đến thân tướng
cũng quán sát
Tứ thiền vô sắc
và thần thông
Vì lợi thế gian
đều hiển bày.
Bậc trí trụ
Nan Thắng địa nầy
Cúng Na do Phật
cũng nghe pháp
Như dùng báu đẹp
dũa vàng thật
Hết thảy căn
lành dần sáng tịnh.
Ví như tinh tú
trong hư không
Sức gió nhiếp
trì không tổn động
Cũng như hoa sen
không dính nước
Đại sĩ tu nơi đời
như vậy.
Trụ đây thường
làm vua Đâu Suất
Hàng phục dị đạo
các tà kiến
Tu các việc lành
vì Phật trí
Nguyện được mười
lực cứu chúng sinh.
Bồ Tát lại tu
đại tinh tấn
Tức thời cúng dường
ngàn ức Phật
Được định động
cõi cũng như thế
Nguyện lực mà
làm lại hơn trên.
NanThắng địa
thứ năm như vậy
Đạo chân thật tối
thượng trong người
Tôi dùng đủ thứ
sức phương tiện
Vì các Phật tử
diễn nói xong.
No comments:
Post a Comment