Monday, October 10, 2016

Tập 4: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa thứ hai mươi sáu: Thứ chín Thiện Huệ địa

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định

TẬP 4





KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN BA MƯƠI CHÍN

PHẨM THẬP ĐỊA THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ CHÍN THIỆN HUỆ ĐỊA

        Khi nói Bồ Tát Bát địa nầy    
      Như Lai hiện sức đại thần thông
      Chấn động mười phương các cõi nước
      Vô lượng ức số khó nghĩ bàn.
        Tất cả tri kiến của chư Phật
      Thân đều khắp phóng đại quang minh
      Chiếu sáng vô lượng cõi nước đó
      Đều khiến chúng sinh được an lạc.
      Bồ Tát vô lượng trăm ngàn ức
      Đồng thời vọt thân lên hư không  
      Dùng đồ cúng hơn hẳn chư Thiên
       Cúng dường bậc thuyết pháp tối thắng.
      Đại Tự Tại Vương Trời Tự Tại
      Cùng nhau đồng tâm vui vô lượng
      Đều đem đủ thứ đồ cúng dường
      Cúng Phật biển công đức thâm sâu.
        Lại có Thiên nữ ngàn vạn ức
      Thân tâm hoan hỉ đều đầy khắp
      Đều tấu âm nhạc vô lượng thứ
      Cúng dường đại Tôn Sư trời người.
      Bấy giờ âm nhạc đồng thời tấu
      Trăm ngàn vạn ức vô lượng thứ
      Đều nhờ sức oai thần của Phật
      Vang ra diệu âm để tán thán.
      Tịch tĩnh điều nhu không dơ hại
      Tuỳ bậc nhập vào khéo tu tập
      Tâm như hư không đến mười phương
      Rộng nói Phật đạo ngộ quần sinh.
        Trên trời nhân gian khắp mọi nơi
      Đều hiện trang nghiêm không gì bằng
      Do công đức Như Lai sinh ra
      Khiến người thấy được thích Phật trí.
        Không rời một cõi đến các cõi
      Như trăng hiện khắp chiếu thế gian
      Âm thanh tâm niệm thảy đều diệt
      Ví như hang núi dội tiếng vang.
        Nếu có chúng sinh tâm hạ liệt
      Vì họ diễn nói hạnh Thanh Văn
      Nếu tâm lanh lợi thích Bích Chi
      Liền vì họ nói đạo trung thừa.
        Nếu người từ bi thích lợi ích
      Vì họ nói đạo Bồ Tát tu
      Nếu người tâm trí huệ tối thắng
      Liền bày pháp vô thượng của Phật.
        Ví như huyễn sư làm các việc
      Đủ thứ hình tướng đều chẳng thật
      Bồ Tát trí huyễn cũng như vậy    
      Chỉ hiện tất cả lìa có không.
        Tiếng hay ngàn vạn thứ như vậy
      Ca ngợi Phật rồi đứng im lặng
      Giải Thoát Nguyệt nói nay chúng tịnh
      Xin nói hành đạo của Cửu địa.

        Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng vô lượng trí như vậy, tư duy quán sát. Càng muốn cầu tịch tĩnh giải thoát thù thắng hơn, lại tu tập trí huệ Như Lai. Vào pháp bí mật của Như Lai, quán sát tánh đại trí không nghĩ bàn, tịnh các môn tam muội Đà la ni, đầy đủ đại thần thông. Vào thế giới khác nhau, tu lực vô uý pháp bất cộng. Theo chư Phật chuyển pháp luân, chẳng bỏ đại bi nguyện lực xưa, vào được Thiện Huệ địa thứ chín của Bồ Tát.
        Phật tử! Đại Bồ Tát trụ Thiện Huệ địa nầy, biết như thật về: Pháp hành thiện, bất thiện, vô ký. Pháp hành hữu lậu, vô lậu. Pháp hành thế gian, xuất thế gian. Pháp hành nghĩ bàn, không nghĩ bàn. Pháp hành định, bất định. Pháp hành Thanh Văn, Độc Giác. Pháp hành Bồ Tát hạnh. Pháp hành Như Lai địa. Pháp hành hữu vi. Pháp hành vô vi.
        Bồ Tát nầy dùng trí huệ như vậy, biết chúng sinh như thật về: Tâm rừng rậm, phiền não rừng rậm, nghiệp rừng rậm, căn rừng rậm, hiểu rừng rậm, tánh rừng rậm, ưa muốn rừng rậm, tuỳ miên rừng rậm, thọ sinh rừng rậm, tập khí liện tục rừng rậm, ba tụ khác biệt rừng rậm.
        Bồ Tát nầy biết đủ thứ tướng tâm chúng sinh như thật. Đó là: Tướng tạp khởi, tướng tốc chuyển, tướng hoại bất hoại, tướng không hình chất, tướng không bờ mé, tướng thanh tịnh, tướng dơ, không dơ, tướng ràng buộc, không ràng buộc, tướng huyễn làm ra, tướng tuỳ các cõi sinh. Trăm ngàn vạn ức như vậy cho đến vô lượng, đều biết như thật.
        Lại biết đủ thứ các tướng phiền não. Đó là: Tướng lâu xa tuỳ hành, tướng vô biên dẫn khởi, tướng câu sanh chẳng bỏ, tướng miên khởi một nghĩa, tướng với tâm tương ưng, không tương ưng, tướng tuỳ cõi thọ sinh mà trụ, tướng ba cõi khác biệt, tướng ái kiến si mạn lỗi lầm hoạn nạn như mũi tên cắm vào, tướng ba nghiệp nhân duyên chẳng dứt. Lược nói cho đến tám vạn bốn ngàn, đều biết như thật.
        Lại biết đủ thứ các tướng nghiệp. Đó là: Tướng thiện, bất thiện, vô ký. Tướng có biểu thị, không biểu thị. Tướng với tâm cùng sinh không lìa. Tướng nhân tự tánh sát na hoại, mà thứ lớp tập quả không mất. Tướng có báo, không báo. Tướng thọ các báo đen tối. Tướng như ruộng vô lượng. Tướng phàm Thánh khác biệt. Tướng hiện thọ sinh, thọ hậu thọ. Tướng thừa, phi thừa, định, bất định. Lược nói cho đến tám vạn bốn ngàn tướng, đều biết như thật.
        Lại biết tướng căn mềm trung thắng. Tướng thuở trước, thuở sau, khác biệt, chẳng khác biệt. Tướng thượng trung hạ. Tướng phiền não đều sinh không lìa nhau. Tướng thừa, phi thừa, định, bất định. Tướng thuần thục điều nhu. Tướng tuỳ lưới căn nhẹ chuyển thành hoại. Tướng tăng thượng không thể hoại. Tướng thối chuyển, bất thối chuyển khác biệt. Tướng xa tuỳ cùng sinh bất đồng. Lược nói cho đến tám vạn bốn ngàn tướng, đều biết như thật.
        Lại biết các sự hiểu biết hạ trung thượng, các tánh hạ trung thượng, sự ưa muốn hạ trung thượng, đều lược nói cho đến tám vạn bốn ngàn.
        Lại biết các tuỳ miên đủ thứ tướng. Đó là : Tướng cùng sinh với thâm tâm. Tướng cùng sinh với tâm. Tướng tâm tương ưng, chẳng tương ưng khác biệt. Tướng lâu xa tuỳ hành. Tướng vô thuỷ không ra khỏi. Tướng trái với tất cả thiền định giải thoát tam muội Tam ma bạt đề thần thông. Tướng tam giới tương tục thọ sinh trói buộc. Tướng khiến cho vô biên tâm tương tục hiện khởi. Tướng mở cửa các nơi. Tướng kiên thật khó trị. Tướng địa xứ thành tựu, không thành tựu. Tướng chỉ dùng Thánh đạo nhổ được sự khổ.
       Lại biết tướng đủ thứ thọ sinh. Đó là : Tướng tuỳ nghiệp thọ sinh. Tướng sáu cõi khác biệt. Tướng hữu sắc, vô sắc khác biệt. Tướng hữu tưởng, vô tưởng khác biệt. Tướng nghiệp làm ruộng, nước ái thấm nhuần, tối vô minh che, thức là hạt giống, sinh mầm đời sau. Tướng danh sắc đều sinh không lìa nhau. Tướng si ái mong cầu nối thân sau. Tướng muốn thọ, muốn sinh vô thuỷ ưa chấp. Tướng tham cầu hy vọng rằng thoát tam giới.
        Lại biết đủ thứ tướng tập khí. Đó là : Tướng tu hành, chẳng tu hành khác biệt. Tướng tuỳ cõi huân tập. Tướng tuỳ chúng sinh hạnh huân tập. Tướng tuỳ nghiệp phiền não huân tập. Tướng thiện, bất thiện, vô ký huân tập. Tướng tuỳ nhập thân sau huân tập. Tướng thứ lớp huân tập. Tướng chẳng đoạn phiền não viễn hành không bỏ huân tập. Tướng thật, chẳng thật huân tập. Tướng thấy nghe gần gũi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai huân tập.
        Lại biết tướng chánh định, tà định, bất định của chúng sinh. Đó là : Tướng chánh kiến, chánh định. Tướng tà kiến, tà định. Tướng cả hai bất định. Tướng ngũ nghịch tà định. Tướng năm căn chánh định. Tướng cả hai bất định. Tướng bát tà tà định. Tướng chánh tánh, chánh định. Tướng càng không làm cả hai lìa bất định. Tướng sâu chấp tà pháp, tà định. Tướng tập hành Thánh đạo chánh định. Tướng cả hai xả bất định.
Phật tử ! Bồ Tát tuỳ thuận trí huệ như vậy, gọi là trụ bậc Thiện Huệ địa. Trụ địa nầy rồi, biết rõ các việc làm khác biệt của chúng sinh, để giáo hoá điều phục, khiến cho họ được giải thoát.
Phật tử ! Bồ Tát nầy khéo diễn nói pháp Thanh Văn thừa, pháp Độc Giác thừa, pháp Bồ Tát thừa, pháp Như Lai thừa. Vì tất cả hành xứ tuỳ trí huệ hành, hay tuỳ theo căn tánh ham muốn hiểu biết của chúng sinh, sở hành có khác, các tụ khác biệt. Cũng tuỳ thọ sinh phiền não miên ràng buộc các nghiệp tập khí, mà vì họ thuyết pháp, khiến cho họ tin hiểu, tăng trưởng trí huệ, theo thừa của họ mà được giải thoát.
Phật tử ! Bồ Tát trụ bậc Thiện Huệ địa nầy, làm đại pháp sư, đủ hạnh pháp sư, khéo giữ gìn pháp tạng của Như Lai. Dùng trí vô lượng khéo léo, khởi bốn biện vô ngại. Dùng lời lẽ Bồ Tát mà diễn nói pháp. Bồ Tát nầy thường chuyển theo bốn trí vô ngại, không tạm xả lìa. Những gì là bốn ? Đó là : Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí, nhạo thuyết vô ngại trí.
        Bồ Tát nầy dùng pháp vô ngại trí, biết tự tướng của các pháp. Nghĩa vô ngại trí, biết biệt tướng của các pháp. Từ vô ngại trí, nói không sai lầm. Lạc thuyết vô ngại trí, nói không dứt tận.
        Lại nữa ! Dùng pháp vô ngại trí, biết tự tánh của các pháp. Nghĩa vô ngại trí, biết sinh diệt của các pháp. Từ vô ngại trí, an lập tất cả pháp nói không dứt. Nhạo thuyết vô ngại trí, tuỳ sự an lập không thể hoại nói vô biên.
Lại nữa, dùng pháp vô ngại trí, biết pháp hiện tại khác biệt. Nghĩa vô ngại trí, biết pháp quá khứ, vị lai khác biệt. Từ vô ngại trí, nơi pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, nói không sai lầm. Nhạo thuyết vô ngại trí, nơi mỗi mỗi đời, nói vô biên pháp tỏ rõ.
Lại nữa, dùng pháp vô ngại trí, biết pháp khác biệt. Nghĩa vô ngại trí, biết nghĩa khác biệt. Từ vô ngại trí, tuỳ lời lẽ âm thanh mà nói. Nhạo thuyết vô ngại trí, tuỳ tâm họ thích mà nói.
Lại nữa, pháp vô ngại trí, dùng pháp trí biết sai biệt không khác. Nghĩa vô ngại trí, dùng trí nầy biết khác biệt như thật. Từ vô ngại trí, dùng thế trí nói khác biệt. Nhạo thuyết vô ngại trí, dùng đệ nhất nghĩa trí nói khéo léo.
Lại nữa, pháp vô ngại trí, biết các pháp một tướng bất hoại. Nghĩa vô ngại trí, biết khéo léo về duyên khởi uẩn giới xứ đế. Từ vô ngại trí, dùng tất cả âm thanh, văn tự, hay đẹp dễ hiểu của thế gian để nói. Nhạo thuyết vô ngại trí, dùng chuyển thắng vô biên pháp minh để nói.
        Lại nữa, pháp vô ngại trí, biết tánh nhứt thừa bình đẳng. Nghĩa vô ngại trí, biết tánh các thừa khác biệt. Từ vô ngại trí, nói tất cả thừa không khác biệt. Nhạo thuyết vô ngại trí, nói mỗi mỗi thừa vô biên pháp.
        Lại nữa, pháp vô ngại trí, biết tất cả Bồ Tát hạnh, trí hạnh, pháp hạnh, trí tuỳ chứng. Nghĩa vô ngại trí, biết Thập địa phân vị nghĩa khác biệt. Từ vô ngại trí, nói tướng địa đạo không khác biệt. Nhạo thuyết vô ngại trí, nói tướng mỗi địa vô biên hạnh.
        Lại nữa, pháp vô ngại trí, biết tất cả Như Lai một niệm thành Chánh Giác. Nghĩa vô ngại trí, biết đủ thứ thời, đủ thứ nơi, thảy đều khác biệt. Từ vô ngại trí, nói thành Chánh Giác khác biệt. Nhạo thuyết vô ngại trí, nơi mỗi câu pháp, vô lượng kiếp nói không hết.
        Lại nữa, pháp vô ngại trí, biết tất cả lời lẽ, lực, vô sở uý, Phật pháp bất cộng, đại từ, đại bi, biện tài, phương tiện, chuyển bánh xe pháp, trí nhất thiết trí tuỳ chứng của Như Lai. Nghĩa vô ngại trí, biết Như Lai tuỳ tám vạn bốn ngàn tâm hạnh căn cơ hiểu biết âm thanh khác biệt của chúng sinh. Từ vô ngại trí, tuỳ hạnh của tất cả chúng sinh, dùng âm thanh khác biệt của Như Lai để nói. Nhạo thuyết vô ngại trí, tuỳ tin hiểu của chúng sinh, dùng trí thanh tịnh hạnh viên mãn của Như Lai để nói.
        Phật tử ! Bồ Tát trụ Địa thứ chín, đắc được vô ngại trí thiện xảo như vậy. Đắc được diệu pháp tạng của Như Lai, mà làm đại pháp sư.
      Đắc được nghĩa Đà la ni, pháp Đà la ni, trí Đà la ni, quang chiếu Đà la ni, thiện huệ Đà la ni, chúng tài Đà la ni, oai đức Đà la ni, vô ngại môn Đà la ni, vô biên tế Đà la ni, đủ thứ nghĩa Đà la ni. Trăm vạn A tăng kỳ môn Đà la ni như vậy, đều được viên mãn. Dùng trăm vạn A tăng kỳ môn âm thanh biện tài thiện xảo, mà diễn nói pháp.
        Bồ Tát nầy đắc được trăm vạn A tăng kỳ môn Đà la ni như vậy rồi, ở nơi vô lượng chư Phật, ở trước mỗi đức Phật, đều dùng  trăm vạn A tăng kỳ môn Đà la ni như vậy, lắng nghe chánh pháp. Nghe rồi không quên, dùng vô lượng môn khác nhau, vì họ diễn nói.
        Bồ Tát nầy khi mới thấy Phật, cúi đầu đảnh lễ cung kính, bèn ở chỗ đức Phật, đắc được vô lượng pháp môn. Pháp môn đắc được đây, chẳng phải văn trì các đại Thanh Văn trong trăm ngàn kiếp lãnh thọ được.
        Bồ Tát nầy được Đà la ni như vậy, vô ngại trí như vậy, ngồi nơi pháp toà mà diễn nói pháp. Chúng sinh khắp trong đại thiên thế giới, tuỳ tâm ưa thích của họ, mà phân biệt diễn nói. Ngoài chư Phật và thọ chức Bồ Tát ra, trong các chúng hội, oai đức quang minh, không có ai bằng Ngài được.
        Bồ Tát nầy ngự tại pháp toà, muốn dùng một âm, khiến cho các đại chúng đều hiểu được, thì liền hiểu được. Hoặc có lúc tâm muốn dùng đủ thứ âm thanh, khiến cho đại chúng đều được khai ngộ. Hoặc có lúc tâm muốn phóng đại quang minh, diễn nói pháp môn.
Hoặc có lúc tâm muốn ở trên mỗi lỗ chân lông nơi thân họ, đều diễn nói pháp âm. Hoặc có lúc tâm muốn cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả vật hữu hình, vô hình, thảy đều vang ra tiếng diệu pháp. Hoặc có lúc tâm muốn phát ra tiếng nói, khắp cùng pháp giới, đều khiến cho họ hiểu được.
Hoặc có lúc tâm muốn tất cả tiếng nói, đều làm pháp âm, luôn trụ không diệt. Hoặc có lúc tâm muốn những ống tiêu, sáo, chuông, trống, và ca vịnh, tất cả âm nhạc của tất cả thế giới, đều diễn pháp âm. Hoặc có lúc tâm muốn ở trong một chữ, tất cả câu pháp, lời lẽ, tiếng nói khác biệt, thảy đều đầy đủ.
Hoặc có lúc tâm muốn khiến cho đất nước gió lửa bốn đại, hết thảy hạt bụi, tụ trong bất khả thuyết vô lượng thế giới, ở trong mỗi hạt bụi, thảy đều diễn nói ra bất khả thuyết pháp môn. Sở niệm như vậy, tất cả tuỳ tâm, thảy đều thành tựu.
        Phật tử ! Giả sử Bồ Tát nầy, khiến cho hết thảy chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều đến trước mặt Ngài, mỗi người đều dùng vô lượng tiếng nói mà vấn nạn Ngài, mỗi mỗi vấn nạn, thảy đều khác nhau, Bồ Tát trong khoảng một niệm, đều lãnh thọ được hết, bèn dùng một tiếng, giải thích khắp hết, khiến cho tuỳ tâm họ ưa thích, thảy đều hoan hỉ.
Như vậy cho đến hết thảy chúng sinh, trong bất khả thuyết thế giới, trong khoảng sát na, mỗi người đều dùng vô lượng tiếng nói mà vấn nạn, mỗi mỗi vấn nạn thảy đều khác nhau, Bồ Tát ở trong khoảng một niệm, đều lãnh thọ được hết, cũng dùng một tiếng giải thích khắp hết, đều tuỳ theo tâm ưa thích của mỗi người, thảy đều hoan hỉ.
Cho đến chúng sinh đầy trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, Bồ Tát đều có thể tuỳ tâm ưa thích của họ, tuỳ theo căn tánh, tuỳ theo sự hiểu biết, mà vì họ thuyết pháp. Nương thần lực của Phật, rộng làm Phật sự, khắp vì tất cả làm chỗ nương tựa cho họ.
        Phật tử ! Bồ Tát nầy càng tinh tấn hơn, thành tựu trí minh. Giả sử nơi đầu một sợi lông, có pháp hội chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết thế giới. Mỗi mỗi chúng hội, có chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết thế giới. Mỗi mỗi chúng sinh, có tánh dục nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết thế giới.
Chư Phật đó tuỳ tánh dục của họ, đều ban cho pháp môn. Như nơi đầu một sợi lông, tất cả nơi pháp giới cũng đều như vậy. Như vậy vô lượng pháp môn nói ra, Bồ Tát ở trong một niệm, đều lãnh thọ được hết, không có quên mất.
        Phật tử ! Bồ Tát trụ Địa thứ chín nầy, ngày đêm chuyên cần, không có niệm nào khác, chỉ nhập vào cảnh giới Phật, gần gũi Như Lai. Nhập vào giải thoát thâm sâu của Bồ Tát, thường ở trong tam muội. Luôn thấy chư Phật, chưa từng xả lìa. Ở trong mỗi kiếp, thấy vô lượng vị Phật, vô lượng trăm vị Phật, vô lượng ngàn vị Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha vị Phật, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường. Ở chỗ chư Phật, đủ thứ vấn nạn, đắc được thuyết pháp Đà la ni. Hết thảy căn lành, càng thêm sáng tịnh.
        Ví như vàng thật, thợ vàng khéo léo dùng làm mũ báu của Chuyển Luân Thánh Vương, để trang nghiêm trên đầu. Tất cả đồ trang nghiêm của những ông vua nhỏ trong bốn thiên hạ, và các thần dân, không ai bằng được.
        Căn lành của Bồ Tát Cửu địa nầy, cũng lại như vậy. Hết thảy căn lành của tất cả Thanh văn, Bích chi Phật, và Bồ Tát bậc dưới, không thể bằng được.
        Phật tử ! Ví như chủ Đại Phạm Thiên Vương hai ngàn thế giới, thân phóng quang minh. Có thể chiếu sáng đến những chỗ tối xa của hai ngàn thế giới, phá tan đen tối. Hết thảy căn lành của Bồ Tát địa nầy, cũng lại như vậy. Có thể phóng ra quang minh, chiếu đến tâm chúng sinh, thì phiền não đen tối, đều khiến tiêu diệt.
Bồ Tát nầy ở trong mười Ba La Mật, thì lực Ba la mật tối thắng nhất, còn các Ba La Mật kia, chỉ tuỳ sức tuỳ phần mà tu.
        Phật tử ! Đó là lược nói Địa thứ chín Thiện Huệ địa của đại Bồ Tát. Nếu nói rộng ra, thì vô lượng kiếp, nói cũng không hết được.
        Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ địa nầy, phần nhiều làm Đại Phạm Thiên Vương chủ hai ngàn thế giới. Khéo hay thống lý, tự tại làm lợi ích. Hay vì tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ Tát, phân biệt diễn nói hạnh Ba La Mật. Tuỳ tâm chúng sinh, hết thảy vấn nạn, không thể khuất phục được. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không lìa niệm Phật, cho đến không lìa niệm nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.
      Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, ở trong tất cả chúng sinh, cho đến là bậc y chỉ của nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy chuyên cần tinh tấn, thì trong khoảng một niệm, đắc được trăm vạn A tăng kỳ tam muội, nhiều như số hạt bụi cõi nước, cho đến thị hiện trăm vạn A tăng kỳ Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi nước, dùng làm quyến thuộc.
        Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì sẽ hơn số trên. Cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể đếm biết được.
        Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn tuyên lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:
      Vô lượng trí lực khéo quán sát
      Tối thượng vi diệu đời khó biết
      Khắp vào chỗ bí mật Như Lai
      Lợi ích chúng sinh vào Cửu địa.
        Tổng trì tam muội đều tự tại
      Được đại thần thông vào các cõi
      Lực trí vô uý pháp bất cộng
      Nguyện lực bi tâm vào Cửu địa.
        Trụ nơi địa nầy trì tạng pháp
      Rõ thiện bất thiện và vô ký
      Hữu lậu vô lậu thế xuất thế
      Nghĩ không nghĩ bàn đều khéo biết.
         Hoặc pháp quyết định chẳng quyết định
      Việc làm tam thừa đều quán sát
      Hữu vi vô vi hành sai biệt
      Biết rõ như vậy vào thế gian.
        Nếu muốn biết các tâm chúng sinh
      Thì hay dùng trí biết như thật
      Đủ thứ chuyển nhanh hoại chẳng hoại
      Các tướng vô chất vô biên thảy.
        Phiền não vô biên luôn bạn chung
      Miên khởi một nghĩa nối các cõi
      Tánh nghiệp đủ thứ đều khác biệt
      Nhân hoại quả tập đều biết rõ.
      Đủ thứ các căn hạ trung thượng
      Thuở trước thuở sau khác vô lượng
      Hiểu tánh ưa muốn cũng như vậy
      Tám vạn bốn ngàn đều biết hết.
         Chúng sinh hoặc kiến luôn chuyển theo
      Rừng rậm vô thuỷ chưa chặt trừ
      Với chí cùng chung tâm đều sinh
        Thường ràng buộc nhau chẳng đoạn tuyệt.
        Chỉ vọng tưởng chẳng phải vật thật
      Chẳng lìa nơi tâm không xứ sở
      Thiền định cảnh trừ vẫn thối chuyển
      Kim cang đạo diệt mới rốt ráo.
        Sáu cõi thọ sinh đều khác nhau
      Ruộng nghiệp, ái nhuận, vô minh che
      Thức là hạt giống, mầm danh sắc
      Ba cõi vô thuỷ luôn nối tiếp.
        Hoặc nghiệp tâm tập sinh các cõi
      Nếu lìa nơi đây không còn sinh
      Chúng sinh đều ở trong ba tụ
      Hoặc chìm kiến chấp hoặc hành đạo.
        Trụ nơi Địa nầy khéo quán sát
      Tuỳ tâm họ thích và căn tánh
      Đều dùng diệu biện tài vô ngại
      Tuỳ người đáng độ nói khác nhau.
        Ngồi nơi pháp toà như sư tử
      Cũng như ngưu vương bảo sơn vương
      Lại như long vương bủa mây dày
      Tuôn mưa cam lồ đầy biển lớn.
        Khéo biết pháp tánh và áo nghĩa
      Tuỳ thuận ngôn từ hay biện thuyết
      Tổng trì trăm vạn A tăng kỳ
      Ví như biển lớn thọ các mưa.
        Tổng trì tam muội đều thanh tịnh
      Trong một niệm thấy nhiều vị Phật
      Chỗ mỗi vị Phật đều nghe pháp
      Lại dùng diệu âm mà diễn xướng.
        Nếu muốn ba ngàn đại thiên giới
      Giáo hoá tất cả các quần sinh
      Như mây giăng bủa rộng lớn khắp
      Tuỳ căn dục họ khiến vui mừng.
      Đầu lông Phật chúng đông vô số
      Chúng sinh ưa thích cũng vô cực
      Ứng với tâm họ cho pháp môn
      Tất cả pháp giới đều như vậy.
        Bồ Tát siêng thêm sức tinh tấn
      Lại được công đức càng tăng thắng
      Văn trì đủ loại các pháp môn
      Như đất giữ được tất cả giống.
        Mười phương vô lượng các chúng sinh
      Đều đến gần gũi ngồi trong hội
      Một niệm tuỳ tâm đều vấn nạn
      Một âm đối khắp đều thoả mãn.
        Trụ nơi địa nầy làm Pháp Vương
      Tuỳ cơ giáo hoá không nhàm mỏi
      Ngày đêm thấy Phật chưa từng bỏ
      Vào sâu tịch diệt trí giải thoát.
      Cúng dường chư Phật thiện thêm sáng
      Như mũ báu đẹp trên đầu vua
      Lại khiến chúng sinh phiền não diệt
       Ví như Phạm Vương quang chiếu khắp.
      Trụ đây thường làm Đại Phạm Thiên
        Đem pháp tam thừa dạy chúng sinh
      Làm các thiện nghiệp ích lợi khắp
      Cho đến sẽ thành Nhất thiết trí.
      Một niệm nhập vào các tam muội
      A tăng kỳ cõi số hạt bụi
      Thấy Phật thuyết pháp cũng như thế
       Nguyện lực mà làm nhiều hơn trên.
        Đó là Thiện Huệ địa thứ chín
      Chỗ tu hành Bồ Tát đại trí
      Thâm sâu vi diệu khó thấy được

      Tôi vì Phật tử đã nói xong.

No comments:

Post a Comment