KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 4
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN BA MƯƠI LĂM
PHẨM THẬP ĐỊA THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ HAI LY CẤU ĐỊA
Các Bồ Tát đã
nghe
Địa tối thắng vi
diệu
Tâm Ngài tối
thanh tịnh
Tất cả đều hoan hỉ.
Đều từ toà đứng
dậy
Vọt trụ trong hư
không
Khắp rải hoa tốt
đẹp
Đồng thời cùng
khen ngợi.
Lành thay Kim
Cang Tạng !
Bậc đại trí vô
uý
Khéo nói về địa
nầy
Pháp hành của Bồ
Tát.
Bồ Tát Giải
Thoát Nguyệt
Biết tâm chúng
thanh tịnh
Thích nghe Địa
thứ hai
Hết thảy các hạnh
tướng.
Liền thỉnh Kim
Cang Tạng
Đại huệ xin diễn
nói
Phật tử đều
thích nghe
Chỗ trụ Địa thứ
hai.
Bấy giờ, Bồ
Tát Kim Cang Tạng, bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát đã
tu Sơ địa rồi, muốn vào Địa thứ hai, thì phải khởi mười thứ thâm tâm. Những gì
là mười ?
Đó là : Tâm ngay thẳng, tâm mềm mại, tâm kham năng, tâm điều
phục, tâm tịch tĩnh, tâm thuần thiện, tâm không tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng,
tâm lớn. Bồ Tát nhờ mười thứ tâm, để vào Ly Cấu địa thứ hai.
Phật tử ! Bồ Tát
trụ Ly Cấu địa, tự tánh xa lìa tất cả sự sát sinh, không chứa đao gậy, không ôm
lòng oán hận. Có sự hổ thẹn, đầy đủ lòng nhân từ tha thứ. Đối với tất cả chúng
sinh có mạng sống, thường sinh tâm làm lợi ích. Bồ Tát đó còn không có ác tâm
não hại các chúng sinh, hà huống là Ngài khởi tưởng chúng sinh cố ý giết hại.
Tánh không trộm
cắp, Bồ Tát đối với tài vật của mình, thường biết vừa đủ. Với người thì từ bi
tha thứ không muốn làm tổn hại. Nếu vật thuộc người khác, thì nghĩ vật thuộc
người khác, trọn không vì thế mà sinh tâm trộm cắp, cho đến cỏ, lá, họ không
cho thì không lấy, hà huống là những đồ tư sanh khác !
Tánh không tà dâm, Bồ Tát biết đủ với vợ của
mình, không mong cầu vợ người. Đối với thê thiếp, con gái, thân tộc của người,
Bồ Tát còn không sinh tâm tham nhiễm, hà huống là việc dâm dục, huống gì hành
vi trái với đạo đức.
Tánh không nói
dối, Bồ Tát thường nói lời chân thật, nói đúng thời, cho đến trong mộng cũng
không nói dối, nói lời che đậy, lời vô tâm, hà huống là cố ý phạm.
Tánh không nói
hai lưỡi, Bồ Tát đối với các chúng sinh không có tâm ly gián, không có tâm não
hại. Không đem lời người nầy, vì phá người kia mà nói với họ. Không đem lời người
kia, vì phá người nầy mà nói với họ. Người chưa phá thì không khiến cho phá,
người đã phá rồi thì không tăng thêm. Không vui sự ly gián, không thích sự ly
gián, không tạo ra lời ly gián, không nói lời ly gián, hoặc thật, hoặc không thật.
Tánh không chưởi
mắng, như là : Lời độc hại, lời thô ác, lời làm khổ họ, lời khiến cho họ sân hận,
lời hiện tiền, lời không hiện tiền, lời xấu ác, lời dung tục đê tiện, lời không
thích nghe, lời người nghe không vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt tâm, lời oán
kết, lời nhiệt não, lời không đáng ưa, lời không vui thích, lời làm hại thân
mình và thân người. Những lời như vậy, thảy đều xả lìa.
Thường nói lời thấm nhuần, lời mềm mại, lời vừa ý, lời đáng
thích nghe, lời người nghe hoan hỉ, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển
tắc, lời nhiều người ưa thích, lời nhiều người vui thích, lời thân tâm hớn hở.
Tánh không thêu dệt, Bồ Tát thường nói lời chánh đáng, lời
phải thời, lời chân thật, lời có ý nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời
khéo điều phục, lời tuỳ thời trù tính quyết định. Bồ Tát nầy cho đến cười đùa
còn luôn suy nghĩ kỹ, hà huống nói ra lời tán loạn.
Tánh không tham dục, Bồ Tát đối với tài vật của người khác,
vật dùng của người khác, không sinh tâm tham, không muốn, không mong cầu.
Tánh lìa sân hận, Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh, luôn khởi
tâm từ, tâm lợi ích, tâm thương xót, tâm hoan hỉ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp thọ,
vĩnh viễn xả bỏ sự sân hận oán hại nhiệt não, thường nghĩ tuỳ thuận thực hành
nhân từ lợi ích.
Lại lìa tà kiến, Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, không làm việc
chiêm bói, không thủ ác giới. Tâm thấy chánh trực, không siểm nịnh. Đối với Phật
Pháp Tăng khởi niềm tin quyết định.
Phật tử ! Đại Bồ Tát hộ trì thập thiện nghiệp đạo như vậy,
thường không gián đoạn. Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh đoạ vào đường ác, đều
do mười điều nghiệp ác. Cho nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên họ khiến
cho họ tu chánh hạnh. Tại sao ? Vì nếu tự mình không tu chánh hạnh, mà khiến họ
tu thì không thể nào được.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác là
nhân thọ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Mười điều lành là nhân sinh về
cõi người, cõi trời, cho đến cõi trời Hữu Đảnh.
Lại thượng phẩm mười điều lành, dùng trí huệ tu tập, vì tâm
hẹp kém, vì sợ ba cõi, vì thiếu đại bi, vì theo người khác nghe âm thanh mà hiểu
ngộ, nên thành Thanh Văn thừa.
Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, không
theo người khác dạy, nên tự giác ngộ, vì đại bi phương tiện, không đầy đủ, vì
ngộ hiểu thâm sâu pháp nhân duyên, nên thành Độc Giác thừa.
Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, vì
tâm rộng vô lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp lấy, vì phát sinh
nguyện lớn, vì không xả bỏ chúng sinh, vì cầu đại trí của chư Phật, vì tịnh trị
các địa Bồ Tát, vì tịnh tu tất cả các độ, mà thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ
Tát.
Lại thượng phẩm mười điều lành, vì nhất thiết chủng trí
thanh tịnh, cho đến vì chứng thập lực, bốn vô sở uý, tất cả Phật pháp, đều được
thành tựu. Do vậy, nay tôi bình đẳng thực hành mười điều lành, phải khiến cho tất
cả đầy đủ thanh tịnh, phương tiện như vậy, Bồ Tát sẽ học.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác, bậc
thượng là nhân địa ngục, bậc trung là nhân súc sinh, bậc hạ là nhân ngạ quỷ.
Tội sát sinh, hay khiến cho chúng sinh đoạ vào địa ngục, súc
sinh, ngạ quỷ. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là mạng
sống ngắn ngủi, hai là nhiều bệnh tật.
Tội trộm cắp, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác.
Nếu sinh vào trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bần cùng, hai
là tài sản chung không được tự tại.
Tội tà dâm, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu
sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là vợ không trinh lương,
hai là quyến thuộc không được tuỳ ý.
Tội nói dối, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào trong ba đường
ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bị nhiều người
phỉ báng, hai là bị họ lừa dối.
Tội nói hai lưỡi, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường
ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là quyến thuộc
trái lìa, hai là thân tộc tệ ác.
Tội chửi mắng, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường
ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường nghe tiếng
ác, hai là lời nói ra nhiều sự tranh tụng.
Tội nói thêu dệt, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường
ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là nói ra không có
ai tin, hai là nói không rõ ràng.
Tội tham dục, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác.
Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là tâm không biết đủ,
hai là nhiều dục không chán.
Tội sân hận, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác.
Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường bị người
khác tìm chỗ hay dở, hai là luôn bị người khác não hại.
Tội tà kiến, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác.
Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là sinh vào nhà tà kiến,
hai là tâm dua vạy.
Phật tử ! Mười
điều ác, hay sinh vào vô lượng vô biên những nơi khổ sở như vậy.
Do đó, Bồ Tát
nghĩ như vầy: Tôi sẽ xa lìa mười điều ác. Dùng mười điều lành để làm vườn pháp,
vui thích an trụ. Tự mình trụ ở trong đó, cũng khuyên người khác, khiến cho họ
trụ ở trong đó.
Phật tử ! Đại
Bồ Tát nầy lại đối với tất cả chúng sinh: Sinh tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm từ,
tâm bi, tâm thương xót, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm sư, tâm đại
sư.
Nghĩ như vậy nói
: Chúng sinh đáng thương, đoạ vào tà kiến, ác huệ, ác dục, rừng rậm đường ác.
Tôi phải khiến cho họ trụ nơi chánh kiến, thực hành đạo chân thật.
Lại nghĩ như vầy:
Tất cả chúng sinh phân biệt ta, người, phá hoại lẫn nhau, đấu tranh sân hận,
thiêu đốt không ngừng. Tôi phải khiến cho họ trụ ở nơi vô thượng đại từ.
Lại nghĩ như vầy:
Tất cả chúng sinh tham lấy không chán, chỉ cầu tài lợi, tà mạng tự sống. Tôi phải
khiến cho họ trụ nơi nghiệp thân miệng ý thanh tịnh, ở trong pháp chánh mạng.
Lại nghĩ như vầy:
Tất cả chúng sinh thường theo ba độc, đủ thứ phiền não, do đó mà bị thiêu đốt.
Không hiểu chí cầu phương tiện thoát khỏi. Tôi phải khiến cho họ trừ diệt tất cả
lửa lớn phiền não, an trí nơi Niết Bàn mát mẻ.
Lại nghĩ như vầy:
Tất cả chúng sinh vì ngu si mờ tối nặng nề, màng dày vọng kiến che đậy, vào rừng
rậm tối loà, mất đi ánh sáng trí huệ, đi con đường hiểm hoang dã, khởi các ác
kiến. Tôi phải khiến cho họ được con mắt trí huệ thanh tịnh không chướng ngại,
biết tất cả pháp như thật tướng, không theo sự chỉ dạy của người khác.
Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh ở trong đường hiểm sanh
tử, sẽ đoạ vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Vào trong lưới ác kiến, do rừng rậm
ngu si làm mê. Theo đuổi tà đạo, làm hạnh điên đảo. Ví như người mù, không có
người dẫn đường, thì không thể ra khỏi yếu đạo. Vào cảnh giới ma, bị ác tặc nhiếp
lấy, tuỳ thuận tâm ma, xa lìa tâm Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi hiểm nạn như vậy,
khiến cho họ trụ nơi thành Nhất thiết trí không sợ hãi.
Lại nghĩ như vầy
: Tất cả chúng sinh, bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm vào dòng dục,
dòng hữu lậu, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong sinh tử, trôi nổi
trong sông ái dục, mãi bị dồi dập không rảnh để quán sát.
Bị quan niệm tham dục, quan niệm sân hận, quan niệm độc hại
theo đuổi không bỏ được. Thân thấy La Sát chấp lấy ở trong đó, đưa họ vĩnh viễn
vào trong rừng rậm ái dục. Do sự tham ái, mà sinh ra nhiễm trước sâu nặng. Trụ
nơi gò ngã mạn, ở nơi tụ lạc sáu căn. Nếu không có người cứu giỏi, thì không thể
độ được họ. Tôi sẽ ở nơi đó khởi tâm đại bi, dùng các căn lành cứu độ họ, khiến
cho không có tai hoạn lìa nhiễm tịch tĩnh, trụ nơi thành báu nhất thiết trí huệ.
Lại nghĩ như vầy
: Tất cả chúng sinh ở trong lao ngục thế gian, chịu nhiều khổ não. Thường ôm lấy
sự thương ghét, tự sinh lo sợ. Bị tham dục sâu nặng trói buộc, che đậy trong rừng
rậm vô minh. Ở trong ba cõi, không thể nào tự ra được. Tôi phải khiến cho họ
vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi, trụ ở trong đại Niết Bàn không chướng ngại.
Lại nghĩ như vầy
: Tất cả chúng sinh chấp trước về cái ta, nơi nhà tù năm uẩn, không cầu thoát
khỏi. Nương tựa vào tụ lạc sáu căn trống rỗng, khởi lên bốn hạnh điên đảo. Bị rắn
độc bốn đại xâm phạm não hại, oán tặc năm uẩn giết hại, thọ vô lượng khổ. Tôi
phải khiến cho họ trụ nơi tối thắng không có sự chấp trước, đó là vô thượng Niết
Bàn diệt tất cả sự chướng ngại.
Lại nghĩ như vầy
: Tâm của họ thấp kém, không thực hành đạo nhất thiết trí tối thượng. Tuy muốn
giải thoát, nhưng thích Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa. Tôi phải khiến cho họ trụ
nơi Phật pháp rộng lớn, trí huệ rộng lớn.
Phật tử ! Bồ
Tát hộ trì giới như vậy, khéo tăng trưởng tâm từ bi.
Phật tử ! Bồ Tát trụ Ly cấu địa, do nhờ nguyện lực, nên gặp
được nhiều vị Phật : Gặp được nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều
trăm ngàn vị Phật, nhiều ức vị Phật, nhiều trăm ức vị Phật, nhiều ngàn ức vị Phật,
nhiều trăm ngàn ức vị Phật. Như vậy cho đến gặp nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị
Phật.
Ở chỗ các Đức Phật,
dùng tâm rộng lớn, tâm thâm sâu, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường : Y phục,
thức ăn uống, toà ngồi, thuốc men, tất cả đồ tư sanh, thảy đều dâng cúng. Cũng
cúng dường cho tất cả chúng Tăng, đem căn lành nầy, hồi hướng về Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ các Đức Phật, dùng tâm tôn trọng, lại thực hành
pháp mười điều lành, tuỳ theo sự thọ trì, cho đến bồ đề, trọn không quên mất.
Bồ Tát đó, ở
trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị
phá giới, nên bố thí trì giới thanh tịnh đầy đủ. Ví như vàng thật để trong phàn
thạch, theo như pháp luyện rồi, lìa khỏi tất cả dơ bẩn, lại được sáng sạch.
Bồ Tát trụ Ly Cấu địa nầy, cũng lại như thế. Trong vô lượng
trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị phá giới, nên bố
thí trì giới thanh tịnh đầy đủ.
Phật tử ! Bồ Tát
nầy ở trong bốn pháp nhiếp, thiên nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba La Mật, thiên
nhiều về trì giới, còn các pháp kia, chỉ tuỳ phần tuỳ sức.
Phật tử ! Đó là
lược nói về Ly Cấu địa thứ hai của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ ở địa nầy, phần nhiều
làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm đại pháp chủ. Đầy đủ bảy báu, có sức tự tại,
trừ được tất cả chúng sinh cấu bẩn tham lam phá giới. Dùng phương tiện khéo
léo, khiến cho họ an trụ trong mười điều lành. Làm đại pháp chủ chu cấp vô tận.
Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không lìa
niệm Phật, không lìa niệm pháp, không lìa niệm Tăng, cho đến không lìa niệm đầy
đủ nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.
Lại nghĩ như vầy
: Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh, là thượng thủ, là thắng, là thù thắng. Là diệu, là vi diệu. Là thượng, là vô thượng.
Cho đến là chỗ y chỉ của trí nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy muốn từ bỏ nhà thế
tục, để vào trong Phật pháp, siêng thực hành tinh tấn, thì sẽ xả bỏ được nhà vợ
con năm dục.
Khi đã xuất già rồi, thì siêng năng
tinh tấn. Trong khoảng một niệm, đắc được ngàn tam muội, thấy được ngàn vị Phật,
biết thần lực của ngàn vị Phật, có thế chấn động ngàn thế giới, cho đến có thể
thị hiện ngàn thân. Nơi mỗi mỗi thân, có thể thị hiện ngàn Bồ Tát dùng làm quyến
thuộc. Nếu dùng thần lực tối thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì sẽ hơn số nầy.
Trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể nào đếm biết
được.
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật
lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng :
Chất trực nhu nhuyến và kham năng
Điều phục tịch tĩnh với thuần thiện
Tâm rộng lớn mau thoát sinh tử
Dùng mười tâm nầy vào Nhị địa.
Trụ thành tựu giới công đức nầy
Xa lìa sát sinh không não hại
Cũng lìa trộm cắp và dâm dục
Lìa hẳn vọng ác lời vô nghĩa.
Không tham tài vật thường từ mẫn
Chánh đạo tâm thẳng không xiểm nịnh
Lìa hiểm xả mạn rất điều nhu
Nương giáo mà hành không phóng dật.
Địa ngục súc sinh thọ các khổ
Ngạ quỷ thiêu đốt phun lửa mạnh
Tất
cả đều do tạo các tội
Tôi phải lìa xa trụ thật pháp.
Tuỳ ý thọ sinh trong loài người
Cho đến Hữu Đỉnh vui thiền định
Độc Giác Thanh Văn đạo Phật thừa
Đều do thập thiện mà thành tựu.
Suy gẫm như vậy
không phóng dật
Tự giữ tịnh giới
dạy họ giữ
Lại thấy quần
sinh thọ các khổ
Lại càng tăng
thêm tâm đại bi.
Phàm ngu tà
trí hiểu bất chánh
Thường khởi phẫn
hận nhiều tranh tụng
Tham cầu cảnh giới
không nhàm đủ
Tôi phải khiến họ
trừ ba độc.
Ngu si đen tối che trùm lấp
Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến
Sinh tử giam hãm oán bắt nhốt
Tôi phải khiến họ trừ ma tặc.
Bốn dòng trôi nổi tâm chìm đắm
Ba cõi thiêu đốt vô lượng khổ
Chấp uẩn là nhà ngã ở trong
Vì muốn độ họ siêng hành đạo.
Dù cầu thoát khỏi tâm thấp kém
Bỏ trí huệ tối thượng của Phật
Tôi muốn khiến họ trụ đại thừa
Chuyên cần tinh tấn không nhàm đủ.
Bồ Tát trụ đây tập công đức
Thấy vô lượng Phật đều cúng dường
Ức kiếp tu trị thiện thêm sáng
Như dùng thuốc tốt luyện vàng thật.
Phật tử trụ đây làm Luân Vương
Giáo hoá chúng sinh hành thập thiện
Hết thảy pháp lành đều tu tập
Sẽ thành Thập lực cứu thế gian.
Muốn
bỏ ngôi vua và tài báu
Liền bỏ nhà cửa nương Phật giáo
Dũng mãnh tinh tấn trong một niệm
Được ngàn tam muội
thấy ngàn Phật.
Hết thảy đủ thứ
sức thần thông
Địa nầy Bồ Tát đều
hiện được
Nguyện lực chỗ
làm lại hơn đây
Vô lượng tự tại
độ quần sinh.
Người lợi ích
tất cả thế gian
Tu hạnh tối thắng
của Bồ Tát
Công đức Địa thứ
hai như vậy
Vì các Phật tử
đã diễn nói.
No comments:
Post a Comment