Monday, October 10, 2016

Tập 4: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Địa thứ hai mươi sáu: Thứ hai Ly Cấu địa

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định

TẬP 4







KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN BA MƯƠI LĂM

PHẨM THẬP ĐỊA THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ HAI LY CẤU ĐỊA

      Các Bồ Tát đã nghe
      Địa tối thắng vi diệu
      Tâm Ngài tối thanh tịnh
      Tất cả đều hoan hỉ.
      Đều từ toà đứng dậy
      Vọt trụ trong hư không
      Khắp rải hoa tốt đẹp
      Đồng thời cùng khen ngợi.
      Lành thay Kim Cang Tạng !
      Bậc đại trí vô uý
      Khéo nói về địa nầy
      Pháp hành của Bồ Tát.
      Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
      Biết tâm chúng thanh tịnh
      Thích nghe Địa thứ hai
      Hết thảy các hạnh tướng.
      Liền thỉnh Kim Cang Tạng
      Đại huệ xin diễn nói
      Phật tử đều thích nghe
      Chỗ trụ Địa thứ hai.

        Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng, bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát đã tu Sơ địa rồi, muốn vào Địa thứ hai, thì phải khởi mười thứ thâm tâm. Những gì là mười ?
Đó là : Tâm ngay thẳng, tâm mềm mại, tâm kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tĩnh, tâm thuần thiện, tâm không tạp, tâm không cố luyến, tâm rộng, tâm lớn. Bồ Tát nhờ mười thứ tâm, để vào Ly Cấu địa thứ hai.
      Phật tử ! Bồ Tát trụ Ly Cấu địa, tự tánh xa lìa tất cả sự sát sinh, không chứa đao gậy, không ôm lòng oán hận. Có sự hổ thẹn, đầy đủ lòng nhân từ tha thứ. Đối với tất cả chúng sinh có mạng sống, thường sinh tâm làm lợi ích. Bồ Tát đó còn không có ác tâm não hại các chúng sinh, hà huống là Ngài khởi tưởng chúng sinh cố ý giết hại.
        Tánh không trộm cắp, Bồ Tát đối với tài vật của mình, thường biết vừa đủ. Với người thì từ bi tha thứ không muốn làm tổn hại. Nếu vật thuộc người khác, thì nghĩ vật thuộc người khác, trọn không vì thế mà sinh tâm trộm cắp, cho đến cỏ, lá, họ không cho thì không lấy, hà huống là những đồ tư sanh khác !
        Tánh không tà dâm, Bồ Tát biết đủ với vợ của mình, không mong cầu vợ người. Đối với thê thiếp, con gái, thân tộc của người, Bồ Tát còn không sinh tâm tham nhiễm, hà huống là việc dâm dục, huống gì hành vi trái với đạo đức.
        Tánh không nói dối, Bồ Tát thường nói lời chân thật, nói đúng thời, cho đến trong mộng cũng không nói dối, nói lời che đậy, lời vô tâm, hà huống là cố ý phạm.
        Tánh không nói hai lưỡi, Bồ Tát đối với các chúng sinh không có tâm ly gián, không có tâm não hại. Không đem lời người nầy, vì phá người kia mà nói với họ. Không đem lời người kia, vì phá người nầy mà nói với họ. Người chưa phá thì không khiến cho phá, người đã phá rồi thì không tăng thêm. Không vui sự ly gián, không thích sự ly gián, không tạo ra lời ly gián, không nói lời ly gián, hoặc thật, hoặc không thật.
        Tánh không chưởi mắng, như là : Lời độc hại, lời thô ác, lời làm khổ họ, lời khiến cho họ sân hận, lời hiện tiền, lời không hiện tiền, lời xấu ác, lời dung tục đê tiện, lời không thích nghe, lời người nghe không vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt tâm, lời oán kết, lời nhiệt não, lời không đáng ưa, lời không vui thích, lời làm hại thân mình và thân người. Những lời như vậy, thảy đều xả lìa.
Thường nói lời thấm nhuần, lời mềm mại, lời vừa ý, lời đáng thích nghe, lời người nghe hoan hỉ, lời khéo vào tâm người, lời phong nhã điển tắc, lời nhiều người ưa thích, lời nhiều người vui thích, lời thân tâm hớn hở.
Tánh không thêu dệt, Bồ Tát thường nói lời chánh đáng, lời phải thời, lời chân thật, lời có ý nghĩa, lời đúng pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo điều phục, lời tuỳ thời trù tính quyết định. Bồ Tát nầy cho đến cười đùa còn luôn suy nghĩ kỹ, hà huống nói ra lời tán loạn.
Tánh không tham dục, Bồ Tát đối với tài vật của người khác, vật dùng của người khác, không sinh tâm tham, không muốn, không mong cầu.
Tánh lìa sân hận, Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh, luôn khởi tâm từ, tâm lợi ích, tâm thương xót, tâm hoan hỉ, tâm hoà thuận, tâm nhiếp thọ, vĩnh viễn xả bỏ sự sân hận oán hại nhiệt não, thường nghĩ tuỳ thuận thực hành nhân từ lợi ích.
Lại lìa tà kiến, Bồ Tát trụ nơi chánh đạo, không làm việc chiêm bói, không thủ ác giới. Tâm thấy chánh trực, không siểm nịnh. Đối với Phật Pháp Tăng khởi niềm tin quyết định.
Phật tử ! Đại Bồ Tát hộ trì thập thiện nghiệp đạo như vậy, thường không gián đoạn. Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh đoạ vào đường ác, đều do mười điều nghiệp ác. Cho nên tôi phải tự tu chánh hạnh, cũng khuyên họ khiến cho họ tu chánh hạnh. Tại sao ? Vì nếu tự mình không tu chánh hạnh, mà khiến họ tu thì không thể nào được.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác là nhân thọ sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Mười điều lành là nhân sinh về cõi người, cõi trời, cho đến cõi trời Hữu Đảnh.
Lại thượng phẩm mười điều lành, dùng trí huệ tu tập, vì tâm hẹp kém, vì sợ ba cõi, vì thiếu đại bi, vì theo người khác nghe âm thanh mà hiểu ngộ, nên thành Thanh Văn thừa.
Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, không theo người khác dạy, nên tự giác ngộ, vì đại bi phương tiện, không đầy đủ, vì ngộ hiểu thâm sâu pháp nhân duyên, nên thành Độc Giác thừa.
Lại thượng phẩm mười điều lành nầy, tu trị thanh tịnh, vì tâm rộng vô lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp lấy, vì phát sinh nguyện lớn, vì không xả bỏ chúng sinh, vì cầu đại trí của chư Phật, vì tịnh trị các địa Bồ Tát, vì tịnh tu tất cả các độ, mà thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ Tát.
Lại thượng phẩm mười điều lành, vì nhất thiết chủng trí thanh tịnh, cho đến vì chứng thập lực, bốn vô sở uý, tất cả Phật pháp, đều được thành tựu. Do vậy, nay tôi bình đẳng thực hành mười điều lành, phải khiến cho tất cả đầy đủ thanh tịnh, phương tiện như vậy, Bồ Tát sẽ học.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Mười điều ác, bậc thượng là nhân địa ngục, bậc trung là nhân súc sinh, bậc hạ là nhân ngạ quỷ.
Tội sát sinh, hay khiến cho chúng sinh đoạ vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là mạng sống ngắn ngủi, hai là nhiều bệnh tật.
Tội trộm cắp, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh vào trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bần cùng, hai là tài sản chung không được tự tại.
Tội tà dâm, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là vợ không trinh lương, hai là quyến thuộc không được tuỳ ý.
Tội nói dối, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào trong ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng, hai là bị họ lừa dối.
Tội nói hai lưỡi, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là quyến thuộc trái lìa, hai là thân tộc tệ ác.
Tội chửi mắng, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường nghe tiếng ác, hai là lời nói ra nhiều sự tranh tụng.
Tội nói thêu dệt, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là nói ra không có ai tin, hai là nói không rõ ràng.
Tội tham dục, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là tâm không biết đủ, hai là nhiều dục không chán.
Tội sân hận, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là thường bị người khác tìm chỗ hay dở, hai là luôn bị người khác não hại.
Tội tà kiến, cũng khiến cho chúng sinh đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người, thì được hai thứ quả báo: Một là sinh vào nhà tà kiến, hai là tâm dua vạy.
      Phật tử ! Mười điều ác, hay sinh vào vô lượng vô biên những nơi khổ sở như vậy.
        Do đó, Bồ Tát nghĩ như vầy: Tôi sẽ xa lìa mười điều ác. Dùng mười điều lành để làm vườn pháp, vui thích an trụ. Tự mình trụ ở trong đó, cũng khuyên người khác, khiến cho họ trụ ở trong đó.
        Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại đối với tất cả chúng sinh: Sinh tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm từ, tâm bi, tâm thương xót, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm sư, tâm đại sư.
      Nghĩ như vậy nói : Chúng sinh đáng thương, đoạ vào tà kiến, ác huệ, ác dục, rừng rậm đường ác. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi chánh kiến, thực hành đạo chân thật.
        Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh phân biệt ta, người, phá hoại lẫn nhau, đấu tranh sân hận, thiêu đốt không ngừng. Tôi phải khiến cho họ trụ ở nơi vô thượng đại từ.
      Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh tham lấy không chán, chỉ cầu tài lợi, tà mạng tự sống. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi nghiệp thân miệng ý thanh tịnh, ở trong pháp chánh mạng.
      Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh thường theo ba độc, đủ thứ phiền não, do đó mà bị thiêu đốt. Không hiểu chí cầu phương tiện thoát khỏi. Tôi phải khiến cho họ trừ diệt tất cả lửa lớn phiền não, an trí nơi Niết Bàn mát mẻ.
      Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh vì ngu si mờ tối nặng nề, màng dày vọng kiến che đậy, vào rừng rậm tối loà, mất đi ánh sáng trí huệ, đi con đường hiểm hoang dã, khởi các ác kiến. Tôi phải khiến cho họ được con mắt trí huệ thanh tịnh không chướng ngại, biết tất cả pháp như thật tướng, không theo sự chỉ dạy của người khác.
Lại nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh ở trong đường hiểm sanh tử, sẽ đoạ vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Vào trong lưới ác kiến, do rừng rậm ngu si làm mê. Theo đuổi tà đạo, làm hạnh điên đảo. Ví như người mù, không có người dẫn đường, thì không thể ra khỏi yếu đạo. Vào cảnh giới ma, bị ác tặc nhiếp lấy, tuỳ thuận tâm ma, xa lìa tâm Phật. Tôi phải cứu họ ra khỏi hiểm nạn như vậy, khiến cho họ trụ nơi thành Nhất thiết trí không sợ hãi.
        Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh, bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm vào dòng dục, dòng hữu lậu, dòng vô minh, dòng tà kiến, xoay lăn trong sinh tử, trôi nổi trong sông ái dục, mãi bị dồi dập không rảnh để quán sát.
Bị quan niệm tham dục, quan niệm sân hận, quan niệm độc hại theo đuổi không bỏ được. Thân thấy La Sát chấp lấy ở trong đó, đưa họ vĩnh viễn vào trong rừng rậm ái dục. Do sự tham ái, mà sinh ra nhiễm trước sâu nặng. Trụ nơi gò ngã mạn, ở nơi tụ lạc sáu căn. Nếu không có người cứu giỏi, thì không thể độ được họ. Tôi sẽ ở nơi đó khởi tâm đại bi, dùng các căn lành cứu độ họ, khiến cho không có tai hoạn lìa nhiễm tịch tĩnh, trụ nơi thành báu nhất thiết trí huệ.
        Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh ở trong lao ngục thế gian, chịu nhiều khổ não. Thường ôm lấy sự thương ghét, tự sinh lo sợ. Bị tham dục sâu nặng trói buộc, che đậy trong rừng rậm vô minh. Ở trong ba cõi, không thể nào tự ra được. Tôi phải khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi ba cõi, trụ ở trong đại Niết Bàn không chướng ngại.
        Lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh chấp trước về cái ta, nơi nhà tù năm uẩn, không cầu thoát khỏi. Nương tựa vào tụ lạc sáu căn trống rỗng, khởi lên bốn hạnh điên đảo. Bị rắn độc bốn đại xâm phạm não hại, oán tặc năm uẩn giết hại, thọ vô lượng khổ. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi tối thắng không có sự chấp trước, đó là vô thượng Niết Bàn diệt tất cả sự chướng ngại.
      Lại nghĩ như vầy : Tâm của họ thấp kém, không thực hành đạo nhất thiết trí tối thượng. Tuy muốn giải thoát, nhưng thích Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa. Tôi phải khiến cho họ trụ nơi Phật pháp rộng lớn, trí huệ rộng lớn.
        Phật tử ! Bồ Tát hộ trì giới như vậy, khéo tăng trưởng tâm từ bi.
Phật tử ! Bồ Tát trụ Ly cấu địa, do nhờ nguyện lực, nên gặp được nhiều vị Phật : Gặp được nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều trăm ngàn vị Phật, nhiều ức vị Phật, nhiều trăm ức vị Phật, nhiều ngàn ức vị Phật, nhiều trăm ngàn ức vị Phật. Như vậy cho đến gặp nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật.
      Ở chỗ các Đức Phật, dùng tâm rộng lớn, tâm thâm sâu, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường : Y phục, thức ăn uống, toà ngồi, thuốc men, tất cả đồ tư sanh, thảy đều dâng cúng. Cũng cúng dường cho tất cả chúng Tăng, đem căn lành nầy, hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở chỗ các Đức Phật, dùng tâm tôn trọng, lại thực hành pháp mười điều lành, tuỳ theo sự thọ trì, cho đến bồ đề, trọn không quên mất.
        Bồ Tát đó, ở trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị phá giới, nên bố thí trì giới thanh tịnh đầy đủ. Ví như vàng thật để trong phàn thạch, theo như pháp luyện rồi, lìa khỏi tất cả dơ bẩn, lại được sáng sạch.
Bồ Tát trụ Ly Cấu địa nầy, cũng lại như thế. Trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vì xa lìa cấu bẩn tham lam đố kị phá giới, nên bố thí trì giới thanh tịnh đầy đủ.
      Phật tử ! Bồ Tát nầy ở trong bốn pháp nhiếp, thiên nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba La Mật, thiên nhiều về trì giới, còn các pháp kia, chỉ tuỳ phần tuỳ sức.
      Phật tử ! Đó là lược nói về Ly Cấu địa thứ hai của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ ở địa nầy, phần nhiều làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm đại pháp chủ. Đầy đủ bảy báu, có sức tự tại, trừ được tất cả chúng sinh cấu bẩn tham lam phá giới. Dùng phương tiện khéo léo, khiến cho họ an trụ trong mười điều lành. Làm đại pháp chủ chu cấp vô tận. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không lìa niệm Phật, không lìa niệm pháp, không lìa niệm Tăng, cho đến không lìa niệm đầy đủ nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.
      Lại nghĩ như vầy : Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh, là thượng thủ, là thắng, là thù thắng. Là diệu, là vi diệu. Là thượng, là vô thượng. Cho đến là chỗ y chỉ của trí nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy muốn từ bỏ nhà thế tục, để vào trong Phật pháp, siêng thực hành tinh tấn, thì sẽ xả bỏ được nhà vợ con năm dục.
        Khi đã xuất già rồi, thì siêng năng tinh tấn. Trong khoảng một niệm, đắc được ngàn tam muội, thấy được ngàn vị Phật, biết thần lực của ngàn vị Phật, có thế chấn động ngàn thế giới, cho đến có thể thị hiện ngàn thân. Nơi mỗi mỗi thân, có thể thị hiện ngàn Bồ Tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng thần lực tối thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì sẽ hơn số nầy. Trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể nào đếm biết được.
      Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng :
      Chất trực nhu nhuyến và kham năng
       Điều phục tịch tĩnh với thuần thiện
      Tâm rộng lớn mau thoát sinh tử
      Dùng mười tâm nầy vào Nhị địa.
        Trụ thành tựu giới công đức nầy
      Xa lìa sát sinh không não hại
      Cũng lìa trộm cắp và dâm dục
      Lìa hẳn vọng ác lời vô nghĩa.
      Không tham tài vật thường từ mẫn
       Chánh đạo tâm thẳng không xiểm nịnh
      Lìa hiểm xả mạn rất điều nhu
       Nương giáo mà hành không phóng dật.
      Địa ngục súc sinh thọ các khổ
      Ngạ quỷ thiêu đốt phun lửa mạnh
      Tất cả đều do tạo các tội
      Tôi phải lìa xa trụ thật pháp.
      Tuỳ ý thọ sinh trong loài người
      Cho đến Hữu Đỉnh vui thiền định
      Độc Giác Thanh Văn đạo Phật thừa
      Đều do thập thiện mà thành tựu.
      Suy gẫm như vậy không phóng dật
      Tự giữ tịnh giới dạy họ giữ
      Lại thấy quần sinh thọ các khổ
      Lại càng tăng thêm tâm đại bi.
        Phàm ngu tà trí hiểu bất chánh
       Thường khởi phẫn hận nhiều tranh tụng
      Tham cầu cảnh giới không nhàm đủ
      Tôi phải khiến họ trừ ba độc.
      Ngu si đen tối che trùm lấp
      Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến
      Sinh tử giam hãm oán bắt nhốt
      Tôi phải khiến họ trừ ma tặc.
        Bốn dòng trôi nổi tâm chìm đắm
      Ba cõi thiêu đốt vô lượng khổ
      Chấp uẩn là nhà ngã ở trong
      Vì muốn độ họ siêng hành đạo.
        Dù cầu thoát khỏi tâm thấp kém
      Bỏ trí huệ tối thượng của Phật
      Tôi muốn khiến họ trụ đại thừa
      Chuyên cần tinh tấn không nhàm đủ.
        Bồ Tát trụ đây tập công đức
      Thấy vô lượng Phật đều cúng dường
      Ức kiếp tu trị thiện thêm sáng
      Như dùng thuốc tốt luyện vàng thật.
        Phật tử trụ đây làm Luân Vương
      Giáo hoá chúng sinh hành thập thiện
      Hết thảy pháp lành đều tu tập
      Sẽ thành Thập lực cứu thế gian.
      Muốn bỏ ngôi vua và tài báu
      Liền bỏ nhà cửa nương Phật giáo
      Dũng mãnh tinh tấn trong một niệm
      Được ngàn tam muội thấy ngàn Phật.
        Hết thảy đủ thứ sức thần thông
      Địa nầy Bồ Tát đều hiện được
      Nguyện lực chỗ làm lại hơn đây
      Vô lượng tự tại độ quần sinh.
        Người lợi ích tất cả thế gian
      Tu hạnh tối thắng của Bồ Tát
      Công đức Địa thứ hai như vậy

      Vì các Phật tử đã diễn nói.

No comments:

Post a Comment