Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
351. Tỳ đà dạ xà(giống câu 278).
Kệ:
Đại minh chú tạng
diệu nan lường
Chánh giác oai đức tối thắng vương
Biến nhất thiết xứ quang phổ chiếu
Phật bảo thường trụ vĩnh cát tường.
Nghĩa là:
Chú tạng đại minh
diệu khó lường
Chánh giác oai đức tối thắng vương
Biến nhất thiết xứ quang chiếu khắp
Phật bảo thường trụ luôn các tường.
352. Sân đà dạ di(giống câu 279).
Kệ:
Y phụ tội giả trảm
kỳ tinh
Như ý bảo luân pháp vương tâm
Ngã kim thủ niệm đệ nhất nghĩa
Liên hoa pháp bộ trú dạ hành.
Nghĩa là:
Kẻ tội nương tựa chém
tinh thần
Tâm pháp như ý bảo luân vương
Con nay trước niệm đệ nhất nghĩa
Pháp bộ liên hoa ngày đêm tu.
353. Kê ra dạ di (giống câu 280).
Kệ:
Đồng chân nhập đạo Pháp vương tử
Bộ tróc Dạ Xoa đại tướng quân
Sở tác nhị lợi thiện hiện nghiệm
Tinh tấn thủ quy Chúng Trung Tôn.
Nghĩa là:
Pháp Vương tử đồng chân nhập đạo
Bắt giữ Dạ Xoa đại tướng quân
Sở tác nhị lợi thiện hiện nghiệm
Tinh tấn quy y chúng Tăng già.
354. Bạt xà ra ba nể.
Dịch: Kim Cang Thần Vương cầm kiếm
cùng với Mật Tích lực sĩ.
Kệ:
Kim Cang bộ chúng hàng quần tà
Thủ chấp bảo chủ
tốc nhi tiệp
Yêu ma quỷ quái
giai viễn ly
Chánh pháp cửu
trụ vĩnh hoà duyệt.
Nghĩa là:
Kim Cang bộ chúng hàng quần tà
Tay cầm chuỳ báu
nhanh mà nhẹn
Yêu ma quỷ quái
điều lìa xa
Chánh pháp trụ lâu mãi an vui.
Giảng giải: Câu Chú nầy là « Kim Cang bộ ». Chỉ ba chữ Bạt Xà Ra là
chúng Kim Cang bộ: Có Kim Cang vương, có Kim Cang tướng, có Kim Cang lực sĩ, lại
có Kim Cang chúng. Kim Cang thì hàng phục tà ma ngoại đạo. Bộ nầy chuyên môn lo
hàng phục, tức cũng là phương đông Dược Sư Lưu Ly Quang bộ. Phật A Súc là bộ chủ
Kim Cang bộ, cho nên nói "Kim Cang bộ chúng hàng quần tà": Bất cứ tà
ma ngoại đạo gì, gặp được Kim Cang bộ, thì "Tay cầm chuỳ báu nhanh mà nhẹn".
Kim Cang so với quỷ Da Xoa đi dưới đất, Dạ Xoa bay trên không, Dạ Xoa đi trên
trời, nhanh hơn nhiều. Quỷ Dạ Xoa gọi là quỷ mau chóng. Kim Cang so với quỷ mau
chóng nhanh hơn trăm ngàn vạn lần. Vì vậy cho nên tất cả quỷ Dạ Xoa, quỷ La
Sát, gặp được Kim Cang bộ chúng, thì đều đầu hàng. "Tay cầm chuỳ báu nhanh
mà nhẹn", rất nhanh vô cùng.
"Yêu ma quỷ quái đều lìa xa": Tất cả tà ma ngoại đạo, lị mị vọng
lượng, gặp được Kim Cang bộ chúng, thì đều mau chạy trốn.
"Chánh pháp trụ lâu mãi an
vui": Kim Cang bộ là hộ trì chánh pháp, đi khắp các nơi chủ trì công đạo,
tuyệt đối ủng hộ người tu đạo chánh pháp, khiến cho người tu đạo giúp đỡ lẫn
nhau, tu hành với nhau, không hại nhau, không phá hoà hợp Tăng. Cho nên nói, hộ
pháp Kim Cang bộ là bảo hộ người tu chánh pháp chân chánh, ai chân chánh tu
chánh pháp, thì Kim Cang bộ chúng sẽ thường thường bảo hộ họ. Ai thường tụng
Chú Lăng Nghiêm, thì tà ma ngoại đạo không dám tìm bạn gây phiền phức.
Tại sao có tà ma ngoại đạo tìm bạn gây phiền
phức? Vì do chính bạn làm sai, đi trên con đường không hợp pháp, cho nên hộ
pháp Kim Cang bộ chúng, không hộ trì bạn, tà ma ngoại đạo sẽ đến tìm bạn gây
phiền phức, hoặc ở trong sự ngồi nằm, hoặc trong giấc mộng, gặp ma đến nhiễu loạn
bạn, tức là do bạn chẳng tu hành tốt, làm việc gì cũng đều trái với đạo đức,
cho nên mới có thứ ma chướng nầy phát sinh. Có thứ ma chướng nầy, thì phải mau
sinh tâm hổ thẹn để sám hối, sửa lỗi làm mới.
355. Cu hê dạ cu hê dạ.
Kệ:
Thập phương vân tập chúng Thánh hiền
Vạn Phật Thành trung khai pháp diên
Như Lai tự lý đồng tụ hội
Vô Ngôn Đường thượng ngộ chân thường.
Nghĩa là:
Chúng Thánh hiền mười phương vân tập
Mở pháp hội trong Vạn Phật Thành
Cùng tụ hội trong Như Lai tự
Nơi Vô Ngôn Đường ngộ chân thường.
Giảng giải: Ý nghĩa câu Chú nầy là « Tụ hội », khắp chúng hội. Tụ hội tức
là mọi người cùng nhau tụ hội lại, khắp chúng hội là các Thánh hiền mười phương
thế giới, đều tụ hội lại với nhau, cho nên bài kệ nói "Chúng Thánh hiền mười
phương vân tập, Mở pháp hội trong Vạn Phật Thành". Mười phương tức là thế
giới nầy, thế giới kia, vô lượng các thế giới, đông, tây, nam, bắc, tức là bốn
phương, thêm đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên, phương dưới, cộng
lại là mười phương. Mười phương chư Phật Bồ Tát Thánh hiền đều vân tập lại với
nhau, vân tập tại đâu? Đều vân tập tại Vạn Phật Thành.
"Mở pháp hội trong Vạn Phật Thành": Ở tại đó có đại pháp hội,
đả mười thiền thất, đại pháp hội nầy, chẳng phải là nhân duyên nhỏ. Trong Vạn
Phật Thành mở đại pháp hội, dùng pháp làm thức ăn, giống như mọi người thỉnh mời
người khác dùng cơm, chúng ta thỉnh mời mọi người ăn pháp vị, Vạn Phật Thành
cũng rất lớn, tụ hội tại chỗ nào?
"Cùng tụ hội trong Như Lai tự": Bạn thấy mười phương chư Phật,
chư Bồ Tát, chư hiền Thánh, các vị A La Hán, đều tụ hội tại đạo tràng Như Lai Tự
trong Vạn Phật Thành, sau đó từ Như Lai Tự mọi người niệm Phật, đánh mõ tiếp dẫn
đi đến Vô Ngôn Đường.
"Nơi Vô Ngôn Đường ngộ chân thường": Nơi Vô Ngôn Đường có thuyết
pháp không lời, mỗi người đều phản văn văn tự tánh (nghe ngược lại tánh nghe của
mình), tánh thành vô thượng đạo, thể ngộ chân thường. Vô Ngôn Đường là nơi việc
vô vi, thực hành lời dạy không lời, chúng ta ở trong đó diễn nói pháp nầy, vậy
có gì để chứng minh? Có, tại sao gọi là Vô Ngôn Đường? Vì everything's Ok, tôi
cũng không nói, các vị cũng không nghe. Tôi ở đó nói pháp, các vị có ngủ cũng
được, đi cũng được, ngồi cũng được, đứng cũng được, nằm cũng được, cho nên nói
everything's Ok, chỉ cần bạn ngộ chân thường là tốt rồi, đây là câu Chú nầy.
Các vị thấy đây chẳng phải là tin tức mới
chăng? Chẳng phải tôi tìm câu văn trích ra từ bộ kinh sách nào, vì trong đó
cũng chẳng có Vạn Phật Thành, cũng chẳng có Như Lai Tự và Vô Ngôn Đường, đây đều
là tin tức mới, chẳng phải là cơm nguội chiên lại, chẳng phải mọi người đã nói
rồi, tôi lại đem ra nói lại, tôi chỉ là mình hiểu được bao nhiêu thì nói bấy
nhiêu.
356. Ca địa bát đế.
Kệ:
Siêng hành giải
thoát Vô Động tôn
Bát Nhã diệu cú chiếu quang minh
Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chúng
Tam Bảo chư Thiên bát bộ thần.
Nghĩa là:
Đấng Bất Động
siêng tu giải thoát
Bát Nhã vi diệu chiếu quang minh
Chúng Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương
Tam Bảo chư Thiên Long bát bộ.
Giảng giải: Ca Địa dịch ra có ba nghĩa:
1. Siêng hành: Đừng lười biếng, lúc nào cũng tu giới định huệ, diệt trừ
tham sân si, ngày đêm đều phải dụng công tu hành.
2. Giải thoát: Tức là tự do tự tại, vô câu vô thúc, vô quái vô ngại,
viên dung vô ngại, chẳng có tơ hào chấp trước và chướng ngại.
3. Vô động: Tức là bất động, ai có thể như như bất động, rõ ràng sáng suốt?
Phật mới có thể. Như như bất động, rõ ràng sáng suốt, thì không bị tất cả cảnh
giới làm lay động, mà chuyển được tất cả cảnh giới, cho nên nói "Đấng Bất
Động siêng tu giải thoát".
"Bát Nhã vi diệu chiếu quang minh": Bát Đế tức là Bát Nhã diệu
cú, tức cũng là kinh điển trí huệ, câu chú trí huệ. Đây là nói câu Chú nầy bao
quát vô lượng vô biên Bát Nhã trí huệ, bao quát vô lượng vô biên môn đại Bát
Nhã. Biểu hiện của trí huệ tức cũng là đại quang minh tạng, chiếu khắp mười
phương, khiến cho mười phương chúng sinh đều hết ngu si, đắc được đại trí huệ
Bát Nhã.
"Chúng Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương": Đây là một chúng hội của
Kim Cang Tạng Vương, Kim Cang Tạng Vương suất lãnh tất cả chúng Bồ Tát.
"Tam Bảo chư Thiên Long bát bộ": Có thường trụ thập phương Phật,
có thường trụ thập phương Pháp, lại có thường trụ thập phương Tăng. Mười phương
vô tận vô tận thường trụ Tam Bảo và thêm tất cả trời dục giới, trời sắc giới,
trời vô sắc giới, còn có tám bộ thần, tức Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn
Na La, Ma Hầu La Già, người chẳng phải người, tám loại quỷ thần vương. Câu Chú
nầy bao quát có vô lượng đạo lý.
357. Hất rị đởm(giống câu 282).
Kệ:
Tâm pháp sắc pháp phàm Thánh thông
Nhục đoàn kiên thật giác linh minh
Tam Như Lai tạng đệ nhất nghĩa
Quang chiếu đại thiên tổng viên dung.
Nghĩa là:
Tâm pháp sắc pháp phàm Thánh thông
Cục thịt kiên thực giác linh minh
Ba Như Lai tạng đệ nhất nghĩa
Quang chiếu đại thiên tổng viên dung.
358. Tỳ đà dạ xà(giống câu 278).
Kệ:
Đại minh chú tạng
diệu nan lường
Chánh giác oai đức tối thắng vương
Biến nhất thiết xứ quang phổ chiếu
Phật bảo thường trụ vĩnh cát tường.
Nghĩa là:
Chú tạng đại minh
diệu khó lường
Chánh giác oai đức tối thắng vương
Biến nhất thiết xứ quang chiếu khắp
Phật bảo thường trụ luôn các tường.
359. Sân đà dạ di(giống câu 279).
Kệ:
Y phụ tội giả trảm
kỳ tinh
Như ý bảo luân pháp vương tâm
Ngã kim thủ niệm đệ nhất nghĩa
Liên hoa pháp bộ trú dạ hành.
Nghĩa là:
Kẻ tội nương tựa
chém tinh thần
Tâm pháp như ý bảo luân vương
Con nay trước niệm đệ nhất nghĩa
Pháp bộ liên hoa ngày đêm tu.
360. Kê ra dạ di(giống câu 280).
Kệ:
Đồng chân nhập đạo Pháp vương tử
Bộ tróc Dạ Xoa đại tướng quân
Sở tác nhị lợi thiện hiện nghiệm
Tinh tấn thủ quy Chúng Trung Tôn.
Nghĩa là:
Pháp Vương tử đồng chân nhập đạo
Bắt giữ Dạ Xoa đại tướng quân
Sở tác nhị lợi thiện hiện nghiệm
Tinh tấn quy y chúng Tăng già.
361. Ra xoa võng.
Kệ: 1.
Dung thứ ngã tội
Từ Thị nhẫn
Nguyên lượng tha phi đại bi tâm
Bình đẳng nguyện lực tinh tấn hành
Trí huệ thiền định giới châu minh.
Nghĩa là:
Tha thứ tội mình
nhẫn Từ Thị
Thứ tha lỗi họ tâm đại bi
Bình đẳng nguyện lực tu tinh tấn
Trí huệ thiền định giới trong sáng.
Giảng giải: Ra Xoa Võng tức cũng là "Sám hối". Thật là kỳ lạ,
Chú Lăng Nghiêm giảng đến đây, đến chỗ nầy mọi người đều sám hối. Sám hối tức
là một sự nhẫn, nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn, nhường điều mà người
khác không thể nhường, ăn cái mà người khác không thể ăn, chịu cái mà người
khác không thể chịu được, như vậy mới là bổn phận của người tu đạo. Ra Xoa Võng
nầy rất là diệu, diệu không thể tả.
"Tha thứ tội mình nhẫn Từ Thị": Bất cứ người nào có tội lỗi
gì, đều tha thứ được hết. Tha thứ ở đây không cần người khác đến cầu xin mới
tha thứ, tức là không có ai cầu xin, cũng tha thứ như nhau. "Tha thứ tội
mình", là nói bất cứ tội của ai đều tha thứ hết, nghĩa là bất cứ tội của
người nào, đều giống như tội của mình. Từ Thị tức là Bồ Tát Di Lặc, độ lượng của
Ngài lớn vô cùng, ai có lỗi lầm gì, Ngài cũng đều tha thứ hết, Ngài đều cười
vui vẻ, cho nên nói: "Bụng to hay chứa, chứa việc thiên hạ khó chứa":
Độ lượng của Ngài rất lớn, dung chứa những việc thiên hạ khó chứa. Việc mà người
khác không thể nhẫn chịu, Ngài đều nhẫn chịu được hết, Ngài mở miệng ra liền cười,
chẳng có chút nóng giận nào hết. "Mở miệng liền cười, cười người thế gian
đáng cười": Ngài thấy người thế gian đều ham danh háo lợi, ham tài, sắc,
danh, ăn, ngủ, thật là đáng cười! Vị Bồ Tát đã từng nói mấy câu rằng:
Lão quê mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che nóng lạnh
Vạn sự hãy tuỳ duyên.
Có người mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra
Khạt nhổ vào mặt lão
Để nó khô tự nhiên
Ta cũng không nhọc sức
Họ cũng không phiền não
Đây là Ba La Mật
Cũng là báu
trong diệu
Nếu bạn biết
tin nầy
Lo gì đạo chẳng
thành.
Bạn thấy Ngài nói thật là hay! Mấy
câu nầy Bồ Tát Di Lặc nói rất là đơn giản, mà hình dung ra sự độ lượng của
Ngài. Lão quê tức là con người tôi chẳng có trí huệ, rất là ngu si, mặc toàn là
áo rách rồi vá lại, ăn thì ăn cơm hẩm, chẳng có mùi vị gì, ăn no là tốt rồi. Quần
áo rách thì vá lại, mặc để che nóng, che lạnh là được rồi. Việc gì cũng đều tuỳ
duyên, thì chẳng có vấn đề gì. "Có người mắng lão quê", kỳ thật vốn
chẳng có ai mắng Ngài, Ngài chỉ là người đa sự, cố ý không bệnh mà than thở rằng:
"Chao ôi! Tôi thật là chịu hết nổi, khổ quá đi thôi, làm sao bây giờ"?
Bạn xem, Ngài mở
miệng ra liền cười, thì có ai mà mắng chửi Ngài? Tự nhiên Ngài nói tốt. Bất quá
nếu có người mắng chửi Ngài, thì Ngài cũng nói tốt, không thể không nói tốt, vì
bụng của Ngài rất to. Nếu như có người muốn đến đánh Ngài, thì Ngài nằm lăn ra.
Nếu có ai khạt nhổ vào mặt của Ngài, thì Ngài để nó khô tự nhiên, giống như chẳng
có chuyện gì. Nếu bạn nhổ thêm vài cái nữa, thì Ngài dùng để rửa mặt luôn, rửa
sạch hết bụi bặm cho sạch sẽ, bạn thấy có diệu chăng! Ngài cũng chẳng dùng sức
phun nước miếng lại, Ngài cũng chẳng có vấn đề gì, phiền não cũng chạy đâu mất,
không còn vết tích. Đây là Ba La Mật, phương pháp đến bờ bên kia, là pháp bảo ở
trong diệu. Nếu biết được tin nầy, thì còn lo gì đạo chẳng thành! Đây là dùng mấy
câu kệ để nói rõ "Từ Thị nhẫn", nhẫn của Bồ Tát Di Lặc.
"Thứ tha lỗi họ tâm đại
bi": Đại bi là gì? Tức là tha thứ cho người, bất cứ người khác có lỗi lầm
gì không đúng, đều cảm thấy giống như chính mình không đúng, không thấy lỗi của
chúng sinh, để họ sửa lỗi làm mới, đây là tâm đại bi.
"Bình đẳng nguyện lực tu tinh tấn":
Bạn có thứ nguyện lực đại từ bình đẳng nầy, đây tức là pháp môn tinh tấn của Bồ
Tát Đại Hạnh Phổ Hiền.
"Trí huệ thiền định giới trong
sáng": Được như thế thì sẽ có trí huệ, cũng có thiền định, giới luật cũng
giữ được rất viên mãn, thì giới châu sẽ phóng đại quang minh, chiếu sáng thế giới.
Kệ pháp giới: Pháp là quy tắc, phương
pháp.
Kệ: 2.
Dung nhẫn ngã tội hứa tự tân
Đại từ hoá vật
cảm ứng chân
Phổ độ hữu tình
thành chánh quả
Trí quang thường
diệu chiếu cổ kim.
Nghĩa là:
Nhẫn chịu tội mình sửa làm mới
Đại từ hoá độ sẽ
cảm ứng
Độ khắp hữu
tình thành chánh quả
Trí quang thường
sáng chiếu cổ kim.
Giảng giải: "Nhẫn chịu tội mình
sửa làm mới": Chư Phật Bồ Tát đều từ bi, chẳng thấy lỗi của chúng sinh, bất
cứ chúng sinh có lỗi lầm gì, chỉ cần sửa đổi, thì các Ngài sẽ tha thứ cho họ,
bao dung họ, bỏ qua cho họ. Nếu không sửa đổi lỗi lầm, thì Phật Bồ Tát cũng chẳng
có biện pháp gì. "Sửa làm mới": Tức là mình phải sửa đổi lỗi lầm, làm
lại con người mới.
"Đại từ hoá độ sẽ cảm ứng":
Tâm thật thì việc thật, nếu tâm thật sửa đổi, thì Phật tự nhiên sẽ biết. Phật
thì đại từ đại bi giáo hoá tất cả chúng sinh, ai đem chân tâm ra, thì người đó
sẽ có cảnh giới hiện tiền cảm ứng đạo giao. Nếu cảnh giới đến, thì trước hết bạn
hãy nghĩ xem cảnh giới đó là chánh hay tà. Nếu là chánh, thì Phật Bồ Tát thị hiện
ra, nếu là tà thì bàn môn ngoại đạo thiên ma đến nhiễu loạn mình, khiến cho
mình tu hành không đắc được tam muội. Nếu đầy đủ con mắt chọn pháp, có trí huệ
chân chánh, thì biết rõ thị phi, kén chọn chánh tà.
Thế nào là
chánh? Thế nào là tà? Nếu đại công vô tư tức là chánh pháp, nếu ích kỷ lợi mình
tức là tà pháp. Nếu do tâm tham mà đắc được cảnh giới, thì đó là ma vương đến
nhiễu loạn bạn, khiến cho bạn tu hành chẳng được thành tựu, khiến cho bạn đoạ lạc.
Vì khi bạn đoạ lạc rồi, thì làm quyến thuộc của ma vương. Bạn tu hành thành
công, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, sẽ làm quyến thuộc của Phật.
Chúng ta người tu đạo, phải nhận thức
cảnh giới, nhận thức được cảnh giới, thì sẽ không bị ma vương đến lừa gạt. Ở
trước đã nói qua, Phật Bồ Tát thì từ bi độ chúng sinh, nếu bạn có tâm chân thật,
thì sẽ đắc được cảm ứng đạo giao. Nếu bạn tu hành chẳng có tâm chân thật, thì sẽ
chẳng được sự cảm ứng, cho nên phải đem tâm chân thật ra. Tâm chân thật thì
không tham, không tranh, không cầu, không ích kỷ, không lợi mình. Phải tự nhiên
mà đắc được, tự nhiên đắc được nầy, chẳng phải do bên ngoài mà được, là do
trong tự tánh sinh ra trí huệ, cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói:
Biết tự tánh mình vốn thanh tịnh
Biết tự tánh
mình vốn không lay động
Biết tự tánh
mình vốn tự đầy đủ
Biết tự tánh
mình thường sinh trí huệ".
Tự tánh vốn thanh tịnh, chẳng có một
chút nhiễm ô nào, cũng chẳng có tham, tranh, ích kỷ, lợi mình, mong cầu. Tự
tánh vốn chẳng giao động, không đến, không đi, không quái, không ngại, không
hình, không tướng. Tự tánh vốn tự đầy đủ tất cả vạn pháp, trong tự tánh sinh ra
trí huệ. Người có trí huệ thì không cảm thấy mình tốt hơn người khác, hoặc giỏi
hơn người khác.
Phàm là cho rằng
mình giỏi hơn người khác, đều là ma vương đến nhiễu loạn bạn, cho bạn một chút
ma khí, cho bạn một chút tà tri tà kiến. Ma vương lợi dụng pháp dụ để nhiễu loạn
bạn, biết bạn tham chút tiện nghi. Nếu bạn sửa đổi: Không tham, không tranh,
không ích kỷ, không lợi mình, thì ma vương cũng không có cách gì hại được bạn.
Bằng không, chúng biết bạn thích thần thông, quỷ thông, bất thông, yêu thông,
thất thông, bát thông, chúng liền nói: "Tốt! Cho bạn thông thông thông, để
cho bạn tha hồ mà thông"!
Tu đạo tuyệt đối
đừng tham tiện nghi, tham lợi nhỏ, hoặc tham sữa bò, tham phó mát, những thứ nầy
thật chẳng có giá trị gì, nếu tu hành mà vì những thứ nầy, thì thật chẳng có ý
nghĩa gì, cho nên tại sao người tu hành đêm ngủ dưới gốc cây, ngày ăn một bữa
trưa, không tham người đời cúng dường, ai cúng dường cho mình cũng không cần.
Người hành cước đi tham phương các nơi, ở một chỗ không quá ba đêm, tại sao vậy?
Vì quá ba đêm thì sợ mọi người biết mình mà đến cúng dường. Không thể nói người
ta cúng dường cho mình, thì mình vui mà thọ nhận: "Bạn xem nhiều người
cúng dường cho tôi"! Đâu biết rằng nhiều người cúng dường cho bạn như vậy,
cướp hết phước báu của bạn đi mất, thì nguy hiểm của bạn sẽ đến. Không có phước
báu mà thọ nhận người cúng dường, là một sự việc có vấn đề. Cho nên xưa nay đại
đức cao Tăng, không có chút tâm tham nào hết, tuyệt đối thanh tịnh, tuyệt đối
không nhiễm ô. Không giảng nói bậy bạ, mình cầm nắm một chút cũng không nói bậy
bạ, sai nhân quả, đây là không thể được. Thật là mình có tạo tội nghiệp còn
không biết, cho nên cảm ứng đạo giao phải dùng tâm chân thật để tu đạo.
"Độ khắp hữu tình thành chánh quả":
Phật muốn độ tất cả hữu tình, có huyết, có khí, đều thành chánh quả, chẳng phải
tà quả, hoặc ma quả.
"Trí quang thường sáng chiếu xưa
nay": Người có đại trí huệ, lúc nào trí huệ cũng đều hiện tiền, không bị cảnh
giới yêu ma quỷ quái làm lay động, tại sao không bị lay động? Vì chẳng có tâm
tham, dù trên đường đạo nghiệp cũng không sinh tâm tham.
Nếu họ cho bạn
một hòn đá quý rất đắt tiền, một đời thọ dụng không hết. Thọ dụng không hết lại
như thế nào? Đây là gạt người. Tu đạo phải triệt để minh bạch, đừng vì tham đồ
cúng dường của người. Tu đạo là vì khai mở trí huệ chân chánh, muốn phá tà hiển
chánh, phá tà ma ngoại đạo, hiển ra chánh pháp chánh giáo, khiến cho chánh pháp
vĩnh viễn trụ thế. Không thể nói nghe người ta viết một cuốn sách nói đắc được
thần thông như thế nào, liền mê cuốn sách đó. Nếu bạn tìm không được Phật pháp
trên cuốn sách đó, thì nói một cách đơn giản là chẳng có Phật pháp. Trong cuốn
sách nói chỉ là một đạo lý, bạn đừng có mê vào cuốn sách đó. Cho nên nói người
chẳng có trí huệ thì mê vào sách, người có trí huệ thì giác nơi sách, nhìn thấy
gì thì giác ngộ cái đó, minh bạch cái đó, chẳng bị sách mê hoặc. Vì sao chẳng bị
sách mê hoặc? Vì có ánh sáng trí huệ, ánh sáng trí huệ chiếu soi thế gian, chiếu
soi cổ kim.
362. Bà già
phạm.
Dịch: Bà Già Phạm, cũng là tổng quản,
tức cũng là Thế Tôn, nguyện nương thần lực, khắp khiến cho tất cả chúng sinh
thường được gia hộ.
Kệ:
Tổng quản pháp
giới Vô Thượng tôn
Tứ sinh lục đạo
độ trầm luân
Nhiếp khiến hàm
linh tu chư thiện
Ma Ha Bát Nhã tự
nhiên thành.
Nghĩa là:
Đấng Vô Thượng
tổng quản pháp giới
Độ trầm luân bốn
sinh sáu đường
Nhiếp khiến
chúng sinh tu điều lành
Ma Ha Bát Nhã tự
nhiên thành.
Giảng giải: Bà Già Phạm đầy đủ có sáu
nghĩa, ở đây nói là Thế Tôn. Thế Tôn thì tổng quản tự tánh của tất cả chúng
sinh, tận hư không khắp pháp giới, vì Phật và chúng sinh đồng thể, chẳng có
phân khai, cho nên chúng ta chỉ cần phải hợp với Phật mà làm một, chúng ta phải
tu hành cho tốt, thì sẽ có thể thành công, cho nên nói "Đấng Vô Thượng tổng
quản pháp giới", tổng quản tất cả vấn đề pháp giới, đấng Vô Thượng tức là
Thế Tôn.
"Độ trầm luân bốn sinh sáu loài":
Bốn sinh tức là: Sinh bằng thai, sinh bằng trứng, sinh ẩm ướt và hoá sinh. Sáu
loài tức là: Trời, người, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Chúng sinh ở
trong sáu đường luân hồi trầm luân, Phật độ tất cả chúng sinh đoạ lạc nầy. Nếu
chưa đoạ lạc thì đương nhiên cũng không cần phải độ, tự mình biết con đường tu
hành, bạn chỉ cần những phương pháp tu hành mà Ngài nói là được. Giống như Phật
nói Kinh điển, đều là kêu mọi người tu hành như vậy, trừ bỏ tham, trừ bỏ sân,
trừ bỏ mong cầu, trừ bỏ ích kỷ, trừ bỏ lợi mình, trừ bỏ đủ thứ những thứ nầy, đều
là kêu mọi người đi trên con đường bồ đề.
"Nhiếp khiến chúng sinh tu điều
lành": Phật muốn giáo hoá chúng sinh, tự mình phát tâm bồ đề, tự mình tài
bồi căn lành, Phật chỉ cho bạn một con đường, đi hay không là do bạn lựa chọn.
Chúng ta phải bỏ ác tu thiện, phàm là điều có lợi thì phải siêng làm, cử chỉ
hành động phải lợi ích người khác, phải làm cho những người khác vừa lòng, hoan
hỉ, nhưng không phải là nịnh bợ họ, cứ nói những lời ngon ngọt, khiến cho họ mê
hoặc. Chúng ta phải dùng chân tâm để đối đãi với mọi người, không có chút tơ
hào hư nguỵ nào.
"Ma Ha Bát Nhã tự nhiên
thành": Đại trí đại huệ là tự nhiên, khi bạn có công đức rồi, thì tự nhiên
sẽ thành tựu, tự nhiên sẽ khai ngộ. Người khai ngộ tuyệt đối không có ích kỷ,
không có lợi mình, dù có tan xương nát thịt, đều vì chúng sinh mà làm.
Người tu hành, cử chỉ hành động, lời
nói việc làm, đều không thể tuỳ tiện, không khi nào nói lời đùa giỡn, đi đứng nằm
ngồi, bốn oai nghi lớn phải đặc biệt chú ý. "Đi như gió", đây chẳng
phải như là gió bão, mà là như gió thoảng, nước không nổi sóng, thân thể cũng
không lắc lư động đậy, cũng không cuối đầu khom mình. "Ngồi như
chung", phải ngồi vững bất động, giống như đại hồng chung, đầu cũng không
cúi về trước ngã về sau, thân thể không nghiên bên trái bên phải, ngồi ngay thẳng,
một chút mao bệnh cũng không có. "Đứng như tùng", đứng thẳng giống
như cây tùng. "Nằm như cung": Khi nằm thì giống như cây cung, tay
chân không để bừa bãi, nằm theo tư thế cát tường là tốt nhất, tức là nằm nghiên
về bên phải, tay trái dũi thẳng để trên đùi, tay phải kê dưới đầu. Nếu là một
người oai nghi không tốt, thì sẽ có nhiều chướng ngại, ngồi đứng không chánh
đáng, thì tất cả đều theo đó không chánh đáng, tâm cũng sẽ không chánh đáng.
363. Ấn thố
na mạ mạ tỏa.
Kệ:
Khẩn chứng tác
pháp diệu giác viên
Thập phương tán
thán thông địa thiên
Thượng đồng Phật
từ hạ hợp bi
Quy mạng Tam Bảo
chí tâm kiền.
Nghĩa là:
Khẩn chứng tác
pháp diệu giác tròn
Mười phương
khen ngợi thông trời đất
Trên đồng Phật
từ dưới hợp bi
Quy mạng Tam Bảo
tâm chí thành.
Giảng giải: Đây là câu cuối cùng hội
thứ ba của Chú Lăng Nghiêm. Ấn Thố dịch ra là "Khẩn chứng". Na Mạ Mạ
Toả dịch ra là "Tác pháp đắc được cứu kính viên mãn".
"Khẩn chứng tác pháp diệu giác
tròn": Khẩn chứng tức là khẩn cầu mười phương chư Phật đến ấn chứng cho,
tu pháp Chú Lăng Nghiêm nầy đã được viên mãn rồi.
"Mười phương khen ngợi thông trời
đất, Trên đồng Phật từ dưới hợp bi": Lúc nầy mười phương chư Phật đều khác
miệng cùng lời, hoan hỉ khen ngợi nói "Công đức của bạn viên mãn, thành tựu
quả vị Phật". Cho nên nói pháp môn học Chú là tức thân thành Phật, tu cho
tốt, tu viên mãn, thì thân nầy có thể chứng được Thánh quả, trở thành Thánh hiền.
Lúc nầy thông trời thông đất, mười phương chư Phật cùng nhau khen ngợi, ba cõi
chúng sinh đều lễ bái cúng dường, sau đó lại hành Bồ Tát đạo, trên thì đồng với
từ bi của Phật, dưới thì thương xót chúng sinh giống như Phật.
"Quy mạng Tam Bảo tâm chí
thành": Từ từ giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ quy y Tam Bảo, kiền thành
chí thành khẩn thiết, phải có tâm chân thành như vậy, thì mới có thể đạt được
Phật quả cứu kính. Cho nên chúng ta người tu hành, lúc nào cũng đừng có lười biếng,
càng không thể mình không đạt đến trình độ nào đó, mà nói là mình đã đạt được,
đây là đại nói dối, ngàn vạn đừng như thế.
Hết hội thứ 3
HỘI THỨ TƯ
HỘI KIM CANG TẠNG
TRIẾT NHIẾP
Bạch quang toàn
chuyển chiếu vô gián
Tôn thắng thiên
Chú độ đại thiên
Không bất không
tạng mật tích ấn
Ngũ phương ngũ
bộ ngũ tâm truyền.
Nghĩa là:
Quang trắng uốn
lượn chiếu vô biên
Chú Tôn Thắng
Thiên độ các cõi
Không Bất Không
Tạng ấn Mật Tích
Năm phương năm
bộ năm tâm truyền.
364. Bà già
phạm.
Dịch: Lại nương Phật lực lọng hoa.
Kệ:
Tái ngưỡng Phật
lực hoa cái quang
Tỳ Lô Kim Cang
chiếu vạn phương
Hàng phục chúng
ma y chánh giáo
Phổ hoá quần
luân xuất hoả thang.
Nghĩa là:
Lại nương Phật
lực hoa lọng quang
Tỳ Lô Kim Cang
chiếu vạn phương
Hàng phục chúng ma theo chánh giáo
Khắp hoá quần sinh thoát hầm lửa.
Giảng giải: Đây là câu đầu tiên Hội Thứ Tư. Hội thứ tư đa số là pháp
hàng phục, chư Phật phóng quang động địa, đại địa sáu thứ chấn động, trời mưa
hoa báu, rơi xuống rực rỡ. Ý nghĩa câu nầy là “Quy mạng Bạt Già Phạm, Tỳ Lô Giá
Na Phật Kim Cang Thượng Sư”, cho nên nói:
"Lại nương Phật lực hoa lọng quang": Lại nương tựa Phật lực,
trong đó có hoa báu, lọng báu, châu báu, mây báu và đủ thứ quang minh, có hào
quang trắng xoay vòng, hào quang tía quấn vòng quanh, hào quang đỏ chiếu sáng
ba thứ quang minh, cho nên nói hoa lọng quang. Còn có châu quang minh, tất cả
châu báu cũng phóng quang minh, lại có mây quang minh, mây báu cũng phóng quang
minh.
"Tỳ Lô Kim Cang chiếu vạn phương": Tỳ Lô Giá Na Phật Kim Cang,
chẳng có chỗ nào mà không chiếu, chẳng có chỗ nào mà chẳng minh bạch.
"Hàng phục chúng ma theo chánh giáo": Ngài hàng phục tất cả
chúng ma, đều quy y Tam Bảo, quy y Chánh Đẳng Chánh Giác Phật Pháp Tăng.
"Khắp hoá quần sinh thoát hầm lửa": Chúng ta tất cả chúng sinh
đều gọi là quần sinh, mọi người đều giống nhau. Nhưng mà có những chúng sinh bị
đoạ ở địa ngục, có những chúng sinh làm ngạ quỷ, có những chúng sinh chuyển làm
súc sinh. Tuy họ đoạ vào ba đường ác, nhưng vốn là đồng loại với chúng ta, cho
nên phải độ họ thoát khỏi hầm lửa, khôi phục lại bổn lai diện mục thường lạc
ngã tịnh.
Chúng ta tu hành, tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật, trước hết phải chỉnh đốn
bốn đại oai nghi của chính mình. Ngồi thì như đại hồng chung, đi thì như gió
thoảng, nằm thì như cây cung, đứng thì như cây tùng, đây đều có thứ tự nhất định,
không thể cứ tuỳ tiện, vì khi bạn cứ tuỳ tiện thì không thể tu hành. Lúc nào cũng
phải trang nghiêm chỉnh tề, không thể cẩu thả tuỳ tiện được. Một người ở trong
phòng thì cũng giống như ở trong đại chúng, chẳng có gì khác biệt. Không thể ở
trong đại chúng thì làm bộ tu hành, còn khi một mình ở trong phòng thì giải đãi
cẩu thả. Phải biết từ vô lượng kiếp đến nay chưa thành chánh quả, là do giải
đãi cẩu thả, du hí nhân gian. Phải thường thường quán sát chính mình, như ở trước
Phật, như ở trước Thầy tổ, không thể cẩu thả bừa bãi, để thời gian trôi qua
lãng phí.
365. Tát đát đa bác đát ra.
Kệ:
Không Như Lai Tạng
diệu vô cùng
Bất không tạng tánh siêu hoá công
Không bất không tạng ly ngôn thuyết
Trung đạo liễu nghĩa tổng viên dung.
Nghĩa là:
Không Như Lai tạng
diệu vô cùng
Bất không tạng tánh vượt hoá công
Không bất không tạng lìa lời nói
Trung đạo liễu nghĩa tổng viên dung.
Giảng giải: Tu hành như đi trên cây sào trăm thước, xuống thì dễ lên thì
khó, khó như lên trời. Bất cứ gặp cảnh giới gì, mà không phá được cảnh giới,
thì rất dễ gặp ma chướng, chỉ cần một niệm sai lầm, một niệm tà, thì thiên ma
ngoại đạo biết, liền nhập vào trong tâm của bạn. Nếu là chánh niệm, thì bạn sẽ
hợp với Phật mà làm một. Cho nên trong Lục Tổ Đàn Kinh có nói: "Khi chánh
niệm thì Phật tại nhà", là đạo lý nầy. Chỉ cần có một chút tâm tranh, tâm
tham, có sự mong cầu, ích kỷ, lợi mình, thì ma sẽ ngồi ở tại điện.
Nếu bạn không tranh, không tham, không mong
cầu, không ích kỷ lợi mình, thì yêu ma quỷ quái gì cũng không làm gì được bạn,
không cách gì nhiễu loạn bạn được. Nếu bạn không đấu tranh với người, thì ma chẳng
có cách gì hết. Bạn không tham tiện nghi, không tham thần thông, hoặc lợi ích
gì đó, thì dù ma có sử dụng cảnh giới hư nguỵ để dụ dỗ bạn, cũng dụ dỗ không được.
Hơn nữa trong ngoài đều không có sự mong cầu, tất cả đều quên hết, quên người
không còn cái ta nữa, người cũng quên mất, cái ta cũng quên mất, pháp cũng quên
mất. Hơn nữa không ích kỷ, đối với việc gì cũng không có tâm ích kỷ, chẳng phải
nói tôi muốn được nhiều lợi ích một chút, còn người khác thì không. Nếu như thế,
thì ma vương cũng chẳng có cách gì. Trong tâm cũng đừng có nghĩ tưởng những gì
có lợi ích đối với mình, được như vậy thì chú gì của yêu ma quỷ quái cũng không
linh. Đây là Chú đối phó với ngoại đạo tốt nhất. Nếu ứng dụng được năm điều nầy
cho thật tốt, thì ma gì cũng chẳng có, cũng chẳng có cách gì. Tại sao chúng có
cơ hội nhập vào? Là vì bạn có sự mong cầu, có tâm tham, có tâm tranh, có tâm
ích kỷ, có tâm lợi mình, cho nên chúng bèn nương theo đó mà nhập, khiến cho bạn
đầu óc không thanh tịnh, mất đi trí huệ.
Câu Chú Tát Đát Đa Bác Đát Ra, hay hàng phục thiên ma ngoại đạo, cũng
hay khiến cho bạn có chánh tri chánh kiến. Sức lực của Chú nầy là đường lời lẽ
đã bặc, nơi tâm hành đã diệt, diệu không thể tả. Chỗ diệu hội thứ tư của Chú Lăng
Nghiêm nầy, sức lực và nghĩa lý, có một bài kệ có thể hình dung:
"Tam quang
phổ chiếu thấu tam tài
Diêm Phù thế giới trảo bất lai
Đại đức đại thiện tài năng đắc
Vô đức vô thiện bất minh bạch".
Nghĩa là:
Ba quang chiếu khắp
thấu ba tài
Thế giới Diêm Phù tìm chẳng được
Đức lớn thiện nhiều mới gặp được
Không đức không thiện chẳng hiểu được.
Cho nên hội Chú nầy rất là quan trọng, câu Chú nầy có hai chữ
"Đát", chữ trước đọc "đãn", chữ sau đọc "đáp".
"Tát" là “Không Như Lai tạng”, "Bác" là “Bất không
Như Lai tạng”, "Đát Ra" tức là “Không bất không Như Lai tạng”, vì câu
nầy bao hàm không Như Lai tạng, bất không Như Lai tạng, không bất không Như Lai
tạng. Thế nào gọi là không Như Lai tạng? Tức là tất cả đều không. Bất không Như
Lai tạng tức là có, không bất không Như Lai tạng, tức là trung đạo, tức cũng là
không rơi về không, không chấp vào có, trung đạo liễu nghĩa.
"Không Như Lai tạng diệu vô cùng": Diệu nghĩa trong không Như
Lai tạng vô cùng vô tận, không cách gì có thể nói hết được.
"Bất không tạng tánh vượt hoá công": Bất không Như Lai tạng
tánh vượt thoát công năng của tạo hoá không thể nghĩ bàn.
"Không bất không tạng lìa lời nói": Trung đạo liễu nghĩa lìa lời
nói, chẳng có gì để nói.
"Trung đạo liễu nghĩa tổng
viên dung": Đây là nơi cứu kính trung đạo liễu nghĩa. Tóm lại, đây là tổng
trì pháp lớn, là linh văn viên dung vô ngại, thường thường niệm câu Chú nầy,
thì sẽ minh tâm, sẽ thấy tánh, cũng hàng phục được thiên ma, chế các ngoại đạo,
xem bạn có dùng được hay không!
Hỏi: Sư Phụ nói câu Chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra nầy, có thể minh tâm kiến
tánh, có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo, nhưng phải hiểu, đáo để là dùng như
thế nào?
Đáp: Ví như học võ thuật, trước hết phải học công phu cho tốt, thì mới
có thể dùng đao, dùng thương, đối địch với người. Không thể chỉ thấy người múa
mấy chiêu thiếu lâm quyền, thì cho rằng rất giỏi, có thể đánh khắp thiên hạ vô
địch thủ, chính mình chẳng có học một ngày nào, thì muốn múa rồi. Bạn chẳng có
cơ sở gì hết! Chú Lăng Nghiêm cũng như thế, chưa tụng niệm mà đã muốn dùng rồi,
dùng như thế nào đây? Và cũng giống như bạn chưa đi học, chưa đi học một ngày
nào hết, mà muốn viết văn chương, viết như thế nào đây? Học xong rồi thì tự
nhiên sẽ biết. Đừng có tham đi tắc cho nhanh, giống như hút á phiện, trì Chú chẳng
phải là hút độc. Hiện tại bạn chẳng có một cơ sở nào, không thể hỏi là cách
dùng như thế nào? Tôi nói cho bạn biết, bạn chưa thể dùng được. Tu pháp nầy phải
tụng niệm tu từ từ, lâu dần rồi thì không được mà được, lúc đó tự nhiên sẽ biết
dùng. Không cần nhất định phải dạy bạn, đến được chỗ diệu, thì bạn tự nhiên sẽ
biết dùng, đây chẳng phải là nói suông. Do đó, dùng được hay không, thì tuỳ bạn
có công phu hay không.
Nếu bạn tu pháp nầy đắc được tam muội, thì
dùng như thế nào cũng đều linh nghiệm. Nếu bạn chẳng đắc được tam muội, thì
dùng như thế nào cũng chẳng linh nghiệm. Cũng giống như gạo nấu thành cơm,
nhưng gạo có được như thế nào? Trước hết phải gieo mạ xuống đất, sau đó nhổ cỏ,
bón phân chăm sóc, từ từ cây lúa lớn dần trổ hoa, rồi mới cho hạt lúa chín, thu
hoạch, xay ra thành gạo, rồi mới nấu thành cơm, trải qua một quá trình công
phu. Sự việc thế gian chẳng có chuyện không mệt nhọc mà thu hoạch, không dùng một
chút sức mà được hiện thành thọ dụng, không có lý nào.
Ở trong Vạn Phật Thành gì cũng đều có, tận hư không khắp pháp giới các
loài chúng sinh đều có đủ. Đủ thứ hoa cỏ cây cối toàn nước Mỹ, ở Vạn Phật Thành
đều có. Do đó rồng rắn hỗn tạp, Thánh phàm hỗn tạp. Kẻ phàm thì là phàm, bậc
Thánh thì là Thánh, rồng thì là rồng, rắn thì là rắn. Tuy như vậy, phàm phu dụng
công tu hành cũng sẽ thành Thánh nhân, nguyên lai là rắn, cứ làm lợi ích người
khác, thì cũng sẽ biến thành rồng, không có pháp nhất định.
Cho nên người nào muốn tu hành, thì từ phàm
phu tu đến quả vị Thánh nhân. Ở đây cũng có Phật, cũng có ma. Ma rất nhiều, Phật
cũng không ít. Vì sự việc thế gian là đối đãi, có ngày thì có đêm, có âm thì có
dương, có thị thì có phi; có thiện thì có ác, lìa không khỏi. Tuy là nói như thế,
tôi hy vọng ma vương cũng quy y Tam Bảo, phát tâm bồ đề, đừng nhiễu loạn người
tu hành, bằng không, tương lai khi phước ma hưởng hết, thì khổ báo không thể tưởng
tượng được.
366. Nam mô tuý đô đế.
Dịch: Con nay kính lễ.
Kệ:
Ngã kim quy kính
lễ Pháp Vương
Chí thành khẩn thiết canh trai trang
Duy vọng gia hộ đăng bất thối
Chư Phật tiếp dẫn phóng hào quang.
Nghĩa là:
Con nay quy kính
lễ Pháp Vương
Chí thành khẩn thiết càng thanh tịnh
Chỉ mong gia hộ chứng bất thối
Chư Phật tiếp dẫn phóng hào quang.
Giảng giải: Chú hội thứ tư nầy quan trọng vô cùng, hy vọng các vị đặc biệt
lưu tâm nghiên cứu.
"Con nay quy kính lễ Pháp Vương": Câu "Nam Mô" nầy
nghĩa là “Quy mạng đảnh lễ”. Tuý Đô Đế tức là “Phật”.
"Chí thành khẩn thiết càng thanh tịnh": Tâm của con chí thành
khẩn thiết, ý niệm chuyên nhất không loạn, trai giới thanh tịnh, đoan trang
cung kính, một chút cẩu thả tuỳ tiện cũng không có.
"Chỉ mong gia hộ chứng bất thối": Nguyện mười phương chư Phật
gia hộ cho con, khiến cho con sớm chứng được vị bất thối, niệm bất thối, hành bất
thối, ba quả vị bất thối nầy.
"Chư Phật tiếp dẫn phóng hào quang": Mười phương chư Phật đều
đến tiếp dẫn con. Chư Phật phóng đại quang minh chiếu đến con, khiến cho con
tai tiêu tội diệt, nghiệp diệt phước sinh, sớm chứng được quả bồ đề.
Hỏi: Thế nào là bất thối?
Đáp: Trên quả vị Bồ Tát đại thừa, không thối lùi xuống nhị thừa học pháp
tiểu thừa, gọi là vị bất thối. Bồ đề tâm niệm cũng không thối lùi, vĩnh viễn giữ
tâm bồ đề xưa kia mình đã phát, thệ nguyện phát ra tu hành, gọi là niệm bất thối.
Vĩnh viễn dũng mãnh tinh tấn hướng về trước tu hành, không thối lùi về sau, chẳng
phải tu hành một chút rồi giải đãi lười biếng, hoặc tu được hai ngày rưỡi bèn
nói: "Sao vẫn chưa thành Phật"? bèn thối lùi. Bất cứ lúc nào cũng
không giải đãi, thì gọi là hành bất thối.
367. A tất đa na ra lặc ca.
Dịch: Quang đỏ quay vòng.
Kệ:
Vô Năng Thắng giả
đại lực vương
Xích quang liễu nhiễu chiếu vạn phương
Kim cang kiên cố
tồi ma chúng
Đức thiện tài bồi
thọ vĩnh xương.
Nghĩa là:
Bậc Vô Năng Thắng đại lực vương
Quang đỏ quay
vòng chiếu vạn phương
Kim cang kiên cố
diệt chúng ma
Đức thiện tài bồi
thọ mãi mãi.
Giảng giải: "Bậc Vô Năng Thắng đại
lực vương": A Tất Đa tức là « A Dật Đa », dịch là Vô Năng Thắng, chẳng có
ai có thể chiến thắng được Ngài, do đó hướng đến vô địch, chiến đâu thắng đó,
Ngài là đại lực sĩ, đại lực vương.
"Quang đỏ quay vòng chiếu vạn
phương": Câu Chú nầy là « Quang minh đỏ quay vòng », quang minh đỏ quay
vòng ở trong hư không, không có chỗ nào mà chẳng chiếu đến, không có chỗ nào mà
chẳng sáng.
"Kim cang kiên cố diệt chúng
ma": Kiên cố giống như kim cang, hàng phục hết tất cả thiên ma ngoại đạo.
"Đức thiện tài bồi thọ mãi
mãi": Đây cần phải có đại đức, đại thiện, để tài bồi, đức thiện tăng trưởng
thì thọ mãi mãi, tất cả như ý cát tường, tất cả đều rất viên mãn.
368. Ba ra
bà.
Dịch: Quang tía uốn lượn.
Kệ:
Tử quang bàn thốc hộ hành nhân
Thiện tịnh oai
đức nhật dạ tuần
Phát bồ đề nhạ
kết diệu quả
Đồng phó Long Hoa Vạn Phật Thành.
Nghĩa là:
Quang tía uốn lượn hộ người tu
Thiện tịnh oai
đức ngày đêm tuần
Phát mầm bồ đề
kết diệu quả
Cùng phó Long Hoa Vạn Phật Thành.
Giảng giải: "Quang tía uốn lượn hộ người tu": Sức lực câu Chú
nầy rất lớn, một khi tụng lên thì có một thứ hào quang tía uốn lượn ở trong hư
không, uốn lượn và quay vòng, nghĩa hơi giống nhau. Tất cả yêu ma quỷ quái, đều
sợ thứ hào quang tía nầy, cho nên hay bảo hộ người tu hành.
"Thiện tịnh oai đức ngày đêm tuần": Hào quang tía nầy thiện tịnh
oai đức, ngày đêm uốn lượn tuần hành không gián đoạn.
"Phát mầm bồ đề kết diệu quả": Trợ giúp chúng sinh phát mầm bồ
đề, tương lai sẽ kết diệu quả không thể nghĩ bàn.
"Cùng phó Long Hoa Vạn Phật Thành": Pháp hội khi Bồ Tát Di Lặc
thành Phật, gọi là hội Long Hoa. Hiện tại chúng ta tu hành, tương lai đều có cơ
hội phó hội Long Hoa. Hội Long Hoa cũng có Vạn Phật Thành, đây là ở tại Thiên
Thành Tượng, tại địa thành hình, chẳng phải chỉ nhân gian có Vạn Phật Thành, mà
những thế giới của chư Phật khác cũng đều có Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành là
chỗ vạn Phật ở, cho nên chẳng phải chỉ có thế giới của chúng ta có, mà mỗi thế
giới cũng đều có, do đó có vô lượng vô số Vạn Phật Thành, tương lai chúng ta đều
đến đó tham gia pháp hội, cùng với Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
Khi đức Phật Thích Ca còn ở đời, thọ ký nói: “Tương lai hội pháp môn Bát
Nhã sẽ đặc biệt thịnh hành ở nước Chấn Đán”. Phật thọ ký nước Chấn Đán tức là
Trung Quốc. Khi Ngài Huyền Trang phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã, thì một năm hoa
đào nở sáu lần, đây là điềm lành khi phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã, những người
hoan nghinh thọ Kinh Đại Bát Nhã ở Trung Quốc rất thịnh hành, chánh phủ Phật
ký. Vì pháp môn Bát Nhã rất hưng thịnh, cho nên Phật pháp ở Trung Quốc phát
dương quang đại, thậm chí người tín ngưỡng còn nhiều hơn so với Ấn Độ. Cho nên
Trung Quốc có bốn đại danh sơn, Chùa chiền ở Ngũ Đài sơn có tới mấy trăm ngôi
Chùa. Nga Mi sơn, Cửu Hoa sơn, Phổ Đà sơn, cũng vậy. Ngũ Đài sơn, Nga Mi sơn, Cửu
Hoa sơn, tôi chỉ nghe tên mà thôi, chưa từng đi đến triều bái. Phổ Đà sơn có rất
nhiều chùa chiền tự viện, rất nhiều người xuất gia. Bồ Tát Quán Âm thường thường
hiển Thánh ở đây. Ngũ Đài sơn là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù, Nga Mi sơn là đạo
tràng của Bồ Tát Phổ Hiền, Cửu Hoa sơn là đạo tràng của Bồ Tát Địa Tạng. Bốn đại
danh sơn nầy là Thánh địa của Phật giáo, xưa kia đức Phật cũng đã từng thọ ký
nói qua. Ngũ Đài sơn có tuyết quanh năm, Nga Mi sơn núi non rất cao hiểm trở, từ
dưới chân núi mà leo lên tới đỉnh, cũng mất mấy ngày, thời xưa đều đi bộ, không
có nhiều phương tiện như bây giờ. Đi lên Ngũ Đài sơn cũng mất mấy ngày. Phổ Đà
sơn không cao, hòn đảo ở giữa biển. Cửu Hoa sơn cũng có rất nhiều núi. Trung Quốc
có một câu nói:
“Lời hay thế gian
Phật nói hết
Danh sơn thiên hạ Tăng chiếm nhiều”.
Những lời hay nhất trên thế gian, đức Phật đều đã nói hết. Danh sơn
trong thiên hạ, có phong thuỷ, cũng có thể nói là có long mạch, đa số là chỗ
chư Tăng ở. Phàm là danh sơn đều có long mạch, cho nên đạo tràng hưng thịnh, vì
ở đó có linh khí. Linh khí nầy khiến cho ai đến đó rồi, thì giống như nước mát
mẻ, cảm thấy vừa mát mẻ, vừa thoải mái, giống như mình bơi lội trong ao bảy
báu, nước có tám thứ công đức ở thế giới Cực Lạc.
Ở nước Mỹ nầy núi lớn rất nhiều, nhưng Tăng rất ít, cho nên danh sơn
không có Thánh địa của Phật giáo. Từ nay về sau, các vị hãy lưu ý, nếu thấy núi
lớn khí mạch rất thịnh, nhìn rất là hoan hỉ, thì đại khái nơi đó có linh khí, nếu
tìm được long mạch của mảnh đất tốt, thì tương lai sẽ kiến lập đạo tràng ở đó.
Hai tuần trước, tôi và hai vị đệ tử đến núi
Khoa La Lập Đa, xem rất nhiều nơi, chúng ta người xuất gia, phải làm việc của
người xuất gia, tông chỉ bổn phận của chúng ta là hoằng dương Phật pháp, làm
cho Phật giáo phát dương quang đại, đây là trách nhiệm của chúng ta. Nếu tìm được
núi lớn, thì Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Quan Âm đều
sẽ đến. Vì đạo tràng có rồi, thì các Ngài tự nhiên sẽ đến, giống như ở Trung Quốc,
khi tạo núi Thiên đài, thì Bồ Tát Quán Âm cũng hiển Thánh, năm trăm La Hán cũng
mau đi lập công, có rất nhiều kỳ tích xuất hiện.
Chúng ta ở nước tây phương, phải kiến lập đạo
tràng thế giới Cực Lạc. Có người nói với tôi rằng: “Vạn Phật Thánh Thành là
Thánh địa, Đài Loan có mấy người tại gia muốn đến đây mà không được, tức khiến
cho đến rồi cũng ở không được, thậm chí xe hơi cũng chạy không tới. Do đó có cư
sĩ bèn phát nguyện: “Nếu đời nầy không thể đến được Vạn Phật Thành tu đạo, thì
đời sau tôi nhất định sẽ đến đó tu hành”. Lời nầy không biết là thật hay giả?
Các vị nghĩ xem, có người muốn đến Vạn Phật Thành mà đến không được, mà các vị
đã đến được đây rồi, mà còn không chân thật tu hành, thì rất là lãng phí thời
gian! Thấy có người nguyện tái sinh đến Vạn Phật Thành, trẻ con sinh ra ở Vạn
Phật Thành đều có nhân duyên, các vị đừng giống như người say rượu, gì cũng đều
không biết, nói cho các vị biết rồi, các vị hãy nghĩ xem đáo để là thật hay giả?
369. Tất phổ tra.
Dịch: Hộ pháp Kim Cang phá tan thiên ma ngoại đạo.
Kệ:
Tồi toái Kim Cang
đại oai thần
Tam đầu lục tí đảm chiến kình
Vọng phong phi mĩ giai củng phục
Long bàn hổ ngoạ thế an ninh.
Nghĩa là:
Kim Cang đại oai
thần phá tan
Ba đầu sáu tay đều sợ hãi
Nghe gió thổi qua đều bái phục
Rồng khoanh hổ nằm đời an ninh.
Giảng giải: Câu Chú nầy ý nghĩa là “Hộ pháp
Kim Cang phá tan thiên ma ngoại đạo”, sức lực của Chú nầy hay phá thiên ma ngoại
đạo, cũng là một trong những tên của Hộ pháp Kim Cang, cho nên nói “Kim Cang đại
oai thần phá tan”: Vị đại Kim Cang nầy, không có gì kiên cố mà không phá được,
không có ma nào mà không phục, tất cả thiên ma ngoại đạo, lị mị vọng lượng, yêu
ma quỷ quái, Ngài đều hàng phục hết, Ngài có đại oai thần lực nầy.
“Ba đầu sáu tay đều sợ hãi”: Tuy yêu quái có
ba đầu, sáu tay, cũng rất lợi hại, nhưng một khi thấy vị Hộ pháp Kim Cang nầy,
thì sinh tâm sợ hãi.
“Nghe gió thổi qua đều bái phục”: Khi chúng
thấy hình bóng vị Hộ pháp Kim Cang nầy, thậm chí nghe một cơn gió thổi qua bên
thân, thì kinh hãi bò sát đất, năm thể bái phục.
“Rồng khoanh hổ nằm đời an ninh”: Một khi thấy
được đại oai thần tướng của vị Hộ pháp Kim Cang nầy, dù là rồng cũng phải
khoanh lại, cọp cũng phải nằm xuống, đều không thể không giữ quy cụ, bất cứ yêu
ma quỷ quái gì, cũng đều phải giữ quy cụ, không dám tác quái, như vậy thế giới
sẽ được bình an.
370. Tỳ ca tát đát đa bát đế rị.
Dịch: Quang trắng quay vòng.
Kệ:
Bạch quang toàn chuyển chiếu vô gián
Tôn Thắng Thiên Chú độ đại thiên
Không Bất Không Tạng Mật Tích ấn
Ngũ phương ngũ bộ ngũ tâm truyền.
Nghĩa là:
Quang trắng quay vòng chiếu vô gián
Chú Tôn Thắng Thiên độ đại thiên
Không Bất Không Tạng ấn Mật Tích
Năm phương năm bộ năm tâm truyền.
Giảng giải: “Quang trắng quay vòng chiếu vô
gián”: Câu Chú nầy dịch ra là “Quang trắng quay vòng”. Ở trước có quang đỏ rực
rỡ, quang tía uốn lượn, bây giờ là quang trắng quay vòng. Ba thứ quang nầy, người
có đức hạnh mới gặp được, người chẳng có đức hạnh, không thể gặp được thứ pháp
nầy. Quang trắng nầy quay vòng, chiếu đến địa ngục vô gián, chúng sinh trong đó
thọ khổ, được quang nầy chiếu đến, thì tội nghiệt sẽ tiêu trừ.
“Chú Tôn Thắng Thiên độ đại thiên”: Chú nầy
tên là Tôn Thắng, trên đỉnh hoá Phật của Phật nói, nhờ Tâm Chú của Chú Tôn Thắng
nầy để giáo hoá đại thiên thế giới, giáo hoá tất cả chúng sinh thế gian.
“Không Bất Không Tạng ấn Mật Tích”: Có Không
Tạng, Không Bất Không Tạng, ở trước đã nói qua, đây là tâm ấn của Mật Tích Kim
Cang.
“Năm phương năm bộ năm tâm truyền”: Năm
phương tức là: Đông, tây, nam, bắc, giữa. Phương đông Kim Cang bộ, Phương nam Bảo
Sinh bộ, Phương tây Liên Hoa bộ, Phương bắc Yết Ma bộ, chính giữa Phật bộ. Năm
phương năm bộ nầy, đều có Chú tâm ấn của năm vị Phật, còn gọi là Năm đại tâm
Chú. Câu Chú nầy nói xong rồi, thì Chú của năm bộ nầy, hướng về thế giới để lưu
thông tuyên bố, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích của sự tu hành.
Kim Cang bộ, pháp hàng phục, Phật Tiêu Tai
Diên Thọ làm giáo chủ, tức cũng là Phật A Súc, Phật A Súc làm bộ chủ của Kim
Cang bộ.
Phương nam là Bảo Sinh bộ, Phương nam Phật Bảo
Sinh làm bộ chủ, Ngài là pháp tăng ích. Ví như, bạn có một phần trí huệ, thì
Ngài khiến cho bạn tăng thêm đến một phần rưỡi; nếu bạn có hai phần trí huệ,
thì Ngài khiến cho bạn tăng thêm đến hai phần rưỡi.
Phương tây Liên Hoa bộ, Phật A Di Đà làm bộ
chủ, Ngài nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho chúng sinh đến thế giới Cực Lạc.
Phương bắc là Yết Ma bộ, Phật Thành Tựu làm
bộ chủ. Trong luật của Phật có ba lần yết ma, khiến cho việc thông qua. Vị Phật
nầy dùng pháp tiêu tai, tiệu diệt tai nạn.
Chính giữa Phật bộ, Phật Thích Ca Mâu Ni làm
bộ chủ, Ngài thành tựu các pháp, tất cả pháp Ngài đều thành tựu. Đây gọi là năm
phương, năm bộ, năm Phật, truyền Phật tâm ấn diệu pháp.
Chú Lăng Nghiêm nầy là mật trong mật, diệu
trong diệu. Thứ pháp nầy thế gian rất ít người hiểu biết được, cũng rất ít người
tu trì thứ pháp nầy. Đợi đến khi trên thế gian không còn một người nào tụng trì
Chú Lăng Nghiêm, thì lúc đó hết thảy thiên ma ngoại đạo, yêu ma quỷ quái đều xuất
hiện ra đời, vì nó không còn gì sợ hãi nữa.
Nếu trên thế gian còn có một người tụng trì
Chú Lăng Nghiêm, thì chúng không dám công nhiên xuất hiện ra đời. Có lúc cũng sẽ
xuất hiện, nhưng đều là âm thầm lén lút, không dám công khai hiện ra đời. Do
đó, Chú Lăng Nghiêm quan trọng nhất đối với Phật giáo. Còn có người hay tụng
trì Chú Lăng Nghiêm, thì chánh pháp sẽ trụ lâu dài, ma vương sẽ ẩn hình. Nếu
không còn ai tụng trì, thì ma vương sẽ hiện hình, chánh pháp sẽ diệt vong. Do
đó, chúng ta vì hộ trì chánh pháp, nên mỗi ngày phải tụng trì Chú Lăng Nghiêm,
mỗi ngày lại nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm nầy, đây tức là một bộ phận trụ trì
chánh pháp.
371. Thập phật ra thập phật ra.
Dịch: Quang diệm chiếu khắp.
Kệ:
Phật bảo phổ phóng vô lượng quang
Chiếu biến pháp giới hư không tạng
Khai thị ngộ nhập chánh tri kiến
Vô thượng bồ đề Đại Giác vương.
Nghĩa là:
Phật bảo khắp phóng vô lượng quang
Chiếu khắp pháp giới hư không tạng
Khai thị ngộ nhập chánh tri kiến
Vô thượng bồ đề vua Đại Giác.
Giảng giải: “Phật bảo khắp phóng vô lượng
quang”: Câu Chú nầy nghĩa là “Quang diệm”, tức là hoả diệm chiếu khắp vô yếm
túc, hoả diệm khắp tất cả mọi nơi.
“Chiếu khắp pháp giới hư không tạng”: Phật ở
cõi tịnh độ Thường Tịch Quang, phóng vô lượng quang minh, chiếu khắp pháp giới,
không có chỗ nào mà không chiếu đến, tận hư không khắp pháp giới, đều ở trong
quang minh của Phật chiếu đến. Vô chiếu vô bất chiếu, chẳng có một nơi nào mà
không chiếu, chẳng có một nơi nào chắc chắn chiếu. Là chiếu khắp, chẳng giống
như chúng ta một số người có tâm ích kỷ, nếu người nào đó đối với mình tốt, thì
mình đặc biệt đối với họ tốt; còn người nào đối với mình không tốt, thì mình sẽ
đối với họ không tốt. Phật thì chẳng như thế, quang minh của Ngài bất cứ đối với
người thiện, người ác, người tốt, người xấu, đều chiếu giống nhau. Chỉ là người
tội nghiệp quá nặng, tuy được quang minh của Phật gia bị, nhưng vẫn bị vô minh
che đậy, trí huệ chẳng hiện tiền.
“Khai thị ngộ nhập chánh tri kiến”: Phật
phóng quang động địa, khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về giác, khai tri kiến
của Phật, thị tri kiến của Phật, ngộ tri kiến của Phật, nhập tri kiến của Phật,
chánh tri kiến tức là tri kiến của Phật.
“Vô thượng bồ đề vua Đại Giác”: Đợi đến khi
bạn minh bạch chánh tri chánh kiến của Phật, thì bạn tu thành Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, tức là vua trong các pháp, lúc đó sẽ phổ độ tất cả chúng sinh.
372. Ðà ra đà ra.
Dịch: Lọng mây.
Kệ:
Ngũ sắc thuỵ vân
kết bảo cái
Vạn đạo hào quang chiếu đại thiên
Nhất thiết giới luật siêng năng trì
Trân trọng Long Hoa phó pháp diên.
Tạm dịch:
Vầng mây năm màu
kết lọng báu
Vạn luồng hào quang chiếu đại thiên
Tất cả giới luật siêng năng giữ
Trân trọng Long Hoa phó pháp hội.
Giảng giải: “Vầng mây năm màu kết lọng báu”:
Khi tụng niệm Chú nầy, thì ở trong hư không sẽ hiện ra đám mây năm màu, xanh
vàng đỏ trắng đen. Vầng mây kết lọng báu ở trong hư không.
“Vạn luồng hào quang chiếu đại thiên”: Vầng
mây năm màu kết lọng báu đó ở trong hư không, phóng ra vạn luồng hào quang, vô
lượng vô tận quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.
“Tất cả giới luật siêng năng giữ”: Tu pháp
Lăng Nghiêm nhất định phải giữ gìn giới luật, chỉ có giới luật thanh tịnh mới
tương ưng, bằng không tu pháp chẳng những không tương ưng, mà còn có tai hoạ.
Cho nên chúng ta những người xuất gia tu đạo, nhất định phải giữ gìn giới luật,
siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, đây mới là bổn phận của chúng ta
tu đạo.
“Trân trọng Long Hoa phó pháp hội”: Trân trọng
nghĩa là dặn dò, bảo trọng, tức cũng là quan tâm đến bạn, muốn bạn tu hành cho
tốt, đợi khi đức Phật Di Lặc ra đời, thì đi phó hội Long Hoa, gặp Phật Di Lặc.
Hiện tại chúng ta người tu đạo, đợi đến lúc đó đều phải khai ngộ chứng quả. Cho
nên không thể tự mình lừa mình, cứ giải đãi lười biếng, tìm chút đồ ăn ngon,
như vậy thì sẽ lãng phí thời gian, sẽ không có sự thành tựu. Muốn có sự thành tựu,
thì phải cước đạp thật địa, chân thật tu hành, lúc nào cũng không thể tuỳ tiện
cẩu thả, không thể để cho tự tánh của mình tham đồ tự tại khoái lạc, như vậy là
không thể được. Chú không thể giúp chúng ta khôi phục lại thanh tịnh, Chú chỉ
là bạn trì Chú, thì trong tâm bạn đừng có nhiễm ô. Chú giúp bạn thanh tịnh, Chú
đó cũng có thể bạn niệm Chú thì có thể không ăn cơm cũng no, đó mới có thể giúp
bạn thanh tịnh. Nếu bạn trì Chú, không ăn cơm vẫn đói, thì chứng minh trì Chú
đó, nó chẳng phải là sức lực giúp bạn thanh tịnh, là bạn phải tự ở trong tâm
mình thường thường trì Chú, thường thường sám hối, thì bạn mới được thanh tịnh.
373. Tần đà ra tần đà ra.
Dịch: Lọng hương.
Kệ:
Hương cái biến
mãn thái hư không
Phổ huân hữu tình pháp tánh trung
Thắng lực năng trì thanh tịnh giới
Bắc phương Yết Ma bộ chủ công.
Nghĩa là:
Lọng hương đầy khắp trong hư không
Xông khắp hữu tình trong pháp giới
Thắng lực hay giữ giới thanh tịnh
Phương bắc Yết Ma bộ làm chủ.
Giảng giải: Mỗi câu Chú Lăng Nghiêm, đều có
công năng của nó, mỗi câu đều là pháp môn tâm ấn của chư Phật. Dù tụng niệm một
chữ, một câu, một hội, hoặc tụng niệm toàn bài Chú, đều kình thiên động địa, chấn
động trời đất, quỷ thần khóc, yêu ma chạy trốn, lị mị ẩn hình.
Ý nghĩa câu Chú nầy là “Lọng hương”. Lọng
hương nầy, chẳng những che phủ một nơi, một khi bạn niệm câu Chú nầy, thì tận
hư không khắp pháp giới, đều hiện ra lọng hương trang nghiêm. Yêu ma quỷ quái
thấy được cảnh giới oai đức trang nghiêm nầy, thì đều lão lão thật thật.
Bài kệ nầy chỉ lược nói giải thích mà thôi,
kỳ thật sức lực của câu Chú nầy, nói không hết được. Những gì tôi giảng nói chỉ
là một phần trong vạn phần, nhưng tôi cũng không giấu dím, vẫn muốn đem một phần
nầy giải thích nói, giới thiệu cho các vị.
Vạn Phật Thánh Thành hằng ngày giảng Kinh
thuyết pháp, vừa giảng Chú Lăng Nghiêm, vừa giảng Kinh Hoa Nghiêm, vừa giảng Lục
Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh, chẳng có một ngày nào không giảng. Chúng ta đều phải có bổn
phận trách nhiệm hoằng pháp, trước kia tuy tôi đã giảng Kinh Hoa Nghiêm rồi,
cũng là giảng một phần trong vạn phần, chứ không giảng tỉ mỉ. Không những Kinh
Hoa Nghiêm như thế, mà Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh A Di Đà, Kinh Địa
Tạng, Kinh Pháp Bảo Đàn, cũng đều như thế. Tôi đều giảng lời không rõ, từ không
đạt ý. Tại sao phải giảng? Tuy tôi giảng không được viên mãn lắm, tương lai các
vị có thể giảng giải nói cho rộng ra, vì các vị đều là người có đại căn lành, đại
trí huệ.
Lần nầy vị pháp sư tam bộ nhất bái nầy, khai
giảng Kinh Hoa Nghiêm, các vị phải chú ý nghe. Trước kia khi tôi giảng thì các
vị chẳng chú ý nghe, lần nầy đừng có bỏ lỡ cơ hội. Các vị phải biết, vị pháp sư
nầy từ Los Angeles, trải qua ngàn vạn khổ cực, chịu nắng mưa đói khát, rất nhiều
chướng ngại, bây giờ đã đến được Vạn Phật Thành, vẫn tiếp tục ba bước một lạy.
Anh ta không nói không cười, thanh niên thời đại nầy mà có người thanh niên
chân chánh tu trì Phật pháp, có thể nói là đi khắp thế giới cũng không dễ gì
tìm được. Anh ta giảng Kinh Hoa Nghiêm, tiếng Trung cũng giỏi, tiếng Anh thì khỏi
nói rồi, vì anh ta là người Mỹ, các vị đừng có bỏ lỡ cơ hội. Như Vạn Phật Thành
mỗi ngày giảng Kinh thuyết pháp, cũng có thể nói là đi khắp thế giới tìm cũng
không có nơi thứ hai. Đây chẳng phải là tôi tự mãn tự khen, mà thật là chân
chánh hoằng dương Phật pháp, chân chánh tu hành, mới được như thế. Cho nên chư
Phật Bồ Tát cũng không cô phụ khổ tâm của chúng ta, tạo Vạn Phật Thánh Thành
thành thế giới Cực Lạc, để cho chúng ta đến đây tu hành. Chúng ta còn không tu
hành cho tốt, lại bỏ lỡ cơ hội nầy, thật là đáng tiếc !
“Lọng hương đầy khắp trong hư không”: Ý
nghĩa câu Chú nầy là “Lọng hương”, khi bạn niệm Chú nầy, thì tận hư không khắp
pháp giới, đều có một thứ hương lạ, khi tụng Chú nầy, thì chẳng những nhân gian
toả hương thơm, mà trên trời cũng thơm, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, cũng đều đắc
được pháp cứu hộ.
“Khắp xông hữu tình trong pháp giới”: Lọng
hương nầy, chẳng những xông khắp nơi nào đó, người nào đó, mà là xông khắp pháp
giới.
“Thắng lực hay giữ giới thanh tịnh”: Sức lực
của Chú nầy, thù thắng hay giữ gìn giới luật.
“Phương bắc Yết Ma bộ làm chủ”: Câu Chú nầy
dùng phương bắc Yết Ma bộ làm chủ, tác Yết Ma chủ trì công đạo.
374. Sân đà sân đà.
Dịch: Lọng châu đầy khắp pháp giới.
Kệ:
Châu cái quang minh chiếu pháp giới
Xích tâm vô cấu như ý hà
Nhiếp hoá chúng sinh đăng bất thối
Tây phương Liên Hoa bộ chủ gia.
Nghĩa là:
Lọng châu quang minh chiếu pháp giới
Tâm tịnh không dơ châu như ý
Nhiếp hoá chúng sinh lên bất thối
Tây phương Liên Hoa bộ làm chủ.
Giảng giải: Chú nầy nếu mà giảng tỉ mỉ, thì vô cùng vô tận, e rằng thời
gian không đủ. Ở trước Đà Ra Đà Ra là lọng mây, Tần Đà Ra Tần Đà Ra là lọng
hương, bây giờ câu Sân Đà Sân Đà nầy là “Lọng châu”, là tất cả châu báu kết
thành lọng. Lọng châu nầy chẳng phải là một cái, mà là đầy khắp tận hư không để
trang nghiêm pháp giới, cho nên nói: “Lọng châu quang minh chiếu pháp giới”, lọng
châu phóng đại quang minh chiếu khắp pháp giới, khiến cho tất cả chỗ đen tối đều
được ánh sang.
“Tâm tịnh không dơ châu như ý”: Không dơ tức là lìa dơ, châu như ý vạn
luồng hào quang, điềm tốt lành đầy khắp vũ trụ.
“Nhiếp hoá chúng sinh lên bất thối”: Hiện ra đủ thứ lọng mây, lọng
hương, lọng châu, đủ thứ quang diệm, đều vì nhiếp hoá chúng sinh, khiến cho họ
lên được ba bất thối: Niệm bất thối, vị bất thối, hành bất thối.
“Tây phương Liên Hoa bộ làm chủ”: Đây là Tây phương A Di Đà Phật Liên
Hoa bộ, nghĩa là nói đây là Phật A Di Đà làm bộ chủ Liên Hoa bộ. Chú Lăng
Nghiêm bao quát năm phương, năm bộ, năm Phật, hàng phục ma năm phương thế giới,
rất là quan trọng, mọi người phải chân thật học tập, đừng để thời gian trôi qua
lãng phí. Kệ mà tôi tả ra, hiển cạn giống như ca từ của thế gian, nhưng ý nghĩa
rất là thâm sâu.
375. Hổ hồng hổ hồng.
Dịch: Sắc lệnh tất cả chúng trên trời dưới đất.
Kệ:
Sắc lệnh Thiên thượng địa hạ chúng
Hàng phục yêu ma quỷ quái tinh
Ủng hộ Tam Bảo lập công đức
Viên mãn giác đạo quả nhựt long.
Nghĩa là:
Ra lệnh chúng
trên trời dưới đất
Hàng phục yêu tinh ma quỷ quái
Ủng hộ Tam Bảo lập công đức
Viên mãn quả giác ngày càng cao.
Giảng giải: Hổ Hồng ý nghĩa là “Hàng phục”
và “Ủng hộ”. Hàng phục thiên ma ngoại đạo, yêu ma quỷ quái, lị mị vọng lượng. Ủng
hộ Tam Bảo, thì chánh pháp trụ lâu dài.
“Ra lệnh chúng trên trời dưới đất”: Phật ra
lệnh Hộ pháp thiện thần trên trời, và hộ pháp ở dưới đất. Chúng là bao quát tất
cả.
“Hàng phục yêu tinh ma quỷ quái”: Các Ngài một
mặt hàng phục tất cả yêu ma quỷ quái, lị mị vọng lượng, tận hư không khắp pháp
giới, khiến cho chúng không được tác quái, một mặt lại ủng hộ Tam Bảo, lập
công, lập đức, tương lai không lâu thì các Ngài cũng sẽ viên mãn giác đạo, quả
vị ngày càng cao, cho nên nói “Ủng hộ Tam Bảo lập công đức, Viên mãn quả giác
ngày càng cao”.
No comments:
Post a Comment