Wednesday, October 5, 2016

Chú lăng nghiêm - Hoà thượng Tuyên Hoá giảng giải 21 - Từ câu 376 đến câu 400


 Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi


       376. Phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra.

          Dịch : Diệt trừ chúng ác, thu nhiếp bất tường.

Kệ :

Tốc năng thành tựu điều luyện pháp
Tồi toái khai thông diệu nan cùng
Ngũ phương ngũ bộ giác ngũ thừa
Tức tai như ý bảo liên hoa.

Nghĩa là:

Sớm được thành tựu pháp điều luyện
Đập tan khai thông diệu vô cùng
Năm phương năm bộ giác năm thừa
Tiêu tai như ý hoa sen báu.

Giảng giải : Câu Chú nầy có tới năm lần Phấn Tra. Phấn Tra nghĩa là « Đập tan » và « Khai thông ». Nghĩa là nếu bạn không nghe lời vẫy gọi, thì sẽ đập tan. Khai thông tức là nếu bạn nghe lời vẫy gọi, giữ gìn quy cụ, lại có thể khai phát trí huệ của bạn, tăng trưởng căn lành của bạn. Tại sao nói tới năm lần ? Vì đại biểu cho năm phương : Phương đông Kim Cang bộ, Phương nam Bảo Sinh bộ, Phương tây Liên Hoa bộ, Chính giữa Phật bộ, Phương bắc Yết Ma bộ, năm phương năm bộ nầy giác năm thừa.
« Sớm được thành tựu pháp điều luyện, Đập tan khai thông diệu vô cùng » : Đập tan và khai thông chỗ diệu vô cùng vô tận.
« Năm phương năm bộ giác năm thừa » : Năm thừa là Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Thiên thừa, nhân thừa. Chúng sinh năm thừa nầy đều được giác ngộ.
« Tiêu tai như ý hoa sen báu » : Tất cả tai nạn đều tiêu diệt, đắc được như ý. Tương lai ngồi hoa sen báu lớn, như như bất động, rõ ràng sáng suốt.
Hôm nay tôi vốn muốn giảng sự tích Lục Tổ, nhưng mỗi ngày tới Vạn Phật Thành, đều có sự an bài, có chương trình Chú Lăng Nghiêm, bằng không tất cả Thánh chúng của Chú Lăng Nghiêm đều đang đợi, nói : « Sao vẫn chưa giảng Chú Lăng Nghiêm của chúng tôi » ?

       377. Ta ha.

          Dịch : Gồm có ba nghĩa : Tai ác sớm tiêu. Cát tường mau thành. Công đức viên mãn thành tựu.

Kệ :

Tất cả tai nạn hoá cát tường
Ác chướng đốn tiêu phóng hào quang
Viên thành Bát Nhã Ba La Mật
Phước huệ trang nghiêm thọ vô cương.

Nghĩa là:

Tất cả tai nạn hoá cát tường
Ác chướng sớm tiêu phóng hào quang
Viên thành Bát Nhã Ba La Mật
Phước huệ trang nghiệm thọ miên trường.

Giảng giải : Mỗi bài Chú có nhiều chữ Ta Ha, ý nghĩa là « Cát tường », « Tiêu tai », « Thành tựu ». Một khi tụng lên thì không cát tường sẽ biến thành cát tường, thay đổi được nghiệp chướng, thay đổi được tai nạn, thay đổi được cảnh giới của bạn. Câu Ta Ha nầy rất là hữu dụng, không những trừ được một thứ tai nạn, mà còn có thể tiêu trừ được tất cả tai nạn.
Có người nghĩ : « Tôi cũng thường niệm câu Ta Ha nầy, tại sao vẫn hay bị đụng xe »?
- Bạn bị đụng xe có chết không ?
- « Không » !
- Nếu bạn chết rồi, thì đâu có hỏi nữa. Bạn không chết, sao bạn không biết do nhờ sức lực bạn niệm Chú, khiến cho xe bạn bị tan nát mà bạn không bị thương ?
- « Khi tôi đụng xe cũng không niệm !"
- Khi bình thường thì bạn niệm, nên được sự cảm ứng.
- « Bình thường tôi cũng không niệm ».
- Hoặc nghe được người khác niệm cũng được sự cảm ứng, giải thoát tai nạn.
- « Nhưng tôi cũng không nghe người khác niệm » !
- Nói cho bạn biết, hoặc khi có người niệm Chú, nhờ sức lực công năng của Chú, khiến cho xe của bạn tan nát mà bạn chẳng bị thương, tiêu tai nạn trong vô hình, diệt tội khổ khi chưa trổ ra. Bạn còn không biết, trong sự yên lặng, nhờ sức lực của Chú khiến cho bạn tiêu tai khỏi tội, mới được mạnh khoẻ sống đến bây giờ, cho nên nói « Tất cả tai nạn hoá cát tường ».
« Ác chướng sớm tiêu phóng hào quang » : Có lúc người gặp chướng ngại, giống như có ma đến khiến cho bạn khóc, hoặc cười, nằm ngồi không yên, ngồi thiền, hoặc đi kinh hành, thì phiền não hôn trầm. Tóm lại, ngồi cũng không yên, đứng cũng không yên, đi cũng không yên, nằm cũng không yên, trong tâm giống như lửa đốt, kêu la. Người nằm trên giường giống như đầu lọt xuống đất, lật qua lật lại, lật lại lật qua, đều ngủ không được, đều khỏi vọng tưởng, đây là nghiệp chướng. Lúc nầy niệm Chú nầy, thì nhờ sức lực của Chú, khiến cho bạn ác chướng sớm được tiêu trừ, phóng đại quang minh.
« Viên thành Bát Nhã Ba La Mật » : Tu hành mau tu đạo quả bồ đề, thì sớm sẽ lên được bờ bên kia, viên mãn trí huệ Bát Nhã Ba La Mật, khai phát mỏ trí huệ, đắc được bảo tạng Bát Nhã chân chánh, thì mới có thể « Phước huệ trang nghiêm thọ miên trường », phước huệ đều viên mãn, được thọ mạng vô cùng vô tận.

       378. Hê hê phấn.

          Dịch : Giải thoát tất cả.

Kệ :

Không Như Lai tạng Phật bộ tâm
Giải thoát khai thông chỉ mê tân
Diệu nghĩa nan cùng vô nhai tế
Như ý bảo châu biến hoá thần.

Nghĩa là:

Không Như Lai tạng Phật bộ tâm
Giải thoát khai thông chỉ bờ mê
Diệu nghĩa khó hết không bờ mé
Như y bảo châu biến hoá thần.

Giảng giải : « Không Như Lai tạng Phật bộ tâm » : Khi bạn tụng câu Chú nầy, thì tất cả chướng ngại đều chẳng còn nữa. Câu Chú nầy dịch ra là « Không », là « Hư », là « Tận », nương theo ở trước Không Như Lai tạng, Bất Không Như Lai tạng, Không Bất Không Như Lai tạng, hợp lại là tánh Không Như Lai tạng, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, bất tại vô bất tại, vô tướng vô bất tướng, đây là tâm Chú chính giữa Phật bộ, bộ chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni. Bộ chủ Phương tây Liên Hoa bộ là Phật A Di Đà. Bộ chủ phương nam Bảo Sinh bộ là Phật Bảo Sinh. Bộ chủ phương bắc Yết Ba bộ là Phật Thành Tựu. Bộ chủ phương đông Kim Cang bộ là Phật A Súc. Năm bộ chủ, năm phương, năm vị Phật nầy, hàng phục năm đại ma quân của thế giới, từ năm phương đến quản chế thiên ma ngoại đạo.
« Giải thoát khai thông chỉ bờ mê » : Bờ giải thoát là tâm không có bờ mé, không bị trói buộc, giải trừ hết tất cả mọi sự chướng ngại, khai thông trí huệ của bạn, chỉ bày bờ mê cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.
« Diệu nghĩa khó hết không bờ mé » : Nghĩa lý Chú nầy diệu không thể nghĩ bàn, nói không hết được, không có bờ mé, dù có tìm cũng không được bờ mé.
« Như ý bảo châu biến hoá thần » : Giống như bảo châu như ý tuỳ tâm mãn nguyện, biến hoá vô cùng, chẳng phải trong sự tưởng tượng của bạn có thể biết được.

       379. A mâu ca da phấn.

          Dịch: Nguyện của con đều thành tựu.

Kệ:

Ngã nguyện thành Phật độ chúng sinh
Bất Không đức tánh khải mê mông
Bắc phương Yết Ma mãn giác đạo
Nam Mô Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh.

Nghĩa là:

Con nguyện thành Phật độ chúng sinh
Đức tánh chẳng không mở đường mê
Phương bắc Yết Ma mãn giác đạo
Nam Mô Đảnh Thủ Kinh Lăng Nghiêm.

Giảng giải: “Con nguyện thành Phật độ chúng sinh”: Câu Chú nầy kinh thiên động địa, quỷ sợ thần hãi, dịch ra là “Nguyện của con đều thành tựu”, bất cứ phát nguyện gì, đều sẽ thành tựu. Thành Phật để làm gì? Có phải để hưởng phước? Chẳng phải, thành Phật rồi, lại rộng độ tất cả chúng sinh, độ chúng sinh tức là trách nhiệm của Phật, mà chúng sinh thì chẳng khi nào hết được, cho nên Phật cũng không khi nào thất nghiệp. Nếu chúng sinh độ hết, thì Phật không có việc làm. Chúng sinh độ càng nhiều, thì thành Phật cũng càng nhiều.
“Đức tánh chẳng không mở đường mê”: Có một vị Bồ Tát, hiệu là Bồ Tát Bất Không. Chẳng qua ở đây là nói sự phát nguyện chẳng không, phát nguyện gì thì viên mãn nguyện đó, sẽ thành tựu đức hạnh và tánh giác của chính mình, trước hết dùng trí huệ của mình, rồi sau đó giác ngộ chúng sinh chưa giác, mở đường mê tức là chúng sinh chưa hiểu biết.
“Phương bắc Yết Ma mãn giác đạo”: Phương bắc là Yết Ma bộ, chúng sinh đầy đủ tất cả phát nguyện, đi trên con đường giác ngộ.
“Nam Mô Đảnh Thủ Kinh Lăng Nghiêm”: Xiển minh Chú Lăng Nghiêm là nói rõ Kinh Lăng Nghiêm. Vì có Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta mới hiểu được Chú Lăng Nghiêm, cho nên phải cảm tạ Kinh Lăng Nghiêm, phải quy mạng kính đầu “Đại Phật Đảnh Thủ Kinh Lăng Nghiêm”, bộ Pháp bảo vô thượng nầy.

       380. A ba ra đề ha đa phấn.

          Dịch: Nguyện không chướng ngại.

Kệ:

Vô tỉ trí quang chiếu đại thiên
Thanh tịnh kiểu khiết tối thắng Thiên
Quang diệm sí thạnh Bảo Sinh bộ
Nam phương Bính Đinh hoá hồng liên.

Nghĩa là:

Trí quang vô tỉ chiếu đại thiên
Thanh tịnh trong sạch trời tối thắng
Quang diệm rực rỡ Bảo Sinh bộ
Phương nam Bính Đinh hoá sen hồng.

Giảng giải: “Trí quang vô tỉ chiếu đại thiên”: Câu Chú nầy dịch ra là “Trí quang vô tỉ”, đại trí huệ quang không gì so sánh được, chiếu sang ba ngàn đại thiên thế giới.
“Thanh tịnh trong sạch trời tối thắng”: Quang minh lại vừa thanh tịnh, vừa trong sạch, cũng là trời tối thắng.
“Quang diệm rực rỡ Bảo Sinh bộ”: Phương nam là Bảo Sinh bộ, Phật Bảo Sinh là chủ, quang minh lửa ngọn rất rực rỡ.
“Phương nam Bính Đinh hoá sen hồng”: Nói theo ngũ hành, thì phương nam thuộc Bính Đinh lửa, thường ở trong lửa hoá ra sen hồng để giáo hoá chúng sinh.
Hai câu kệ nầy rất nông cạn, tuy nó hình dung sức công năng và nghĩa lý của Chú, phải nghiền ngẫm kỹ càng vị của nó, thì mới có thể tiến lên một bước nữa, minh bạch đạo lý của Chú Lăng Nghiêm.

       381. Ba ra bà ra đà phấn.

          Dịch : Sở nguyện tuỳ tâm.

Kệ :

Quang minh thọ lượng cập diệu âm
Cứu kính Cực Lạc Di Đà Tôn
Tây phương Liên Hoa bộ khai hiện
Cao đăng thượng phẩm nguyện tuỳ tâm.

Nghĩa là:

Quang minh thọ lượng và diệu âm
Phật Di Đà Cực Lạc cứu kính
Phương tây Liên Hoa bộ khai hiện
Cao đăng thượng phẩm nguyện tuỳ tâm.

Giảng giải : « Quang minh thọ lượng và diệu âm » : Câu Chú nầy dịch ra là « Tuỳ tâm mãn nguyện như ý », bao hàm nghĩa lý có ba ngàn : Thứ nhất là quang minh, thứ hai là thọ lượng, thứ ba là diệu âm. Đây là Phật A Di Đà Liên Hoa bộ, quang minh nầy là chỉ vô lượng quang của Phật A Di Đà. Thọ lượng tức vô lượng thọ. Diệu âm tức pháp âm vi diệu của Phật A Di Đà.
« Phật A Di Đà Cực Lạc cứu kính » : Đây là một pháp môn của Cực Lạc cứu kính, Phật A Di Đà là giáo chủ thế giới Cực Lạc.
« Phương tây Liên Hoa bộ khai hiện » : Chú nầy cũng là pháp môn sở khai thuộc về phương tây Liên Hoa bộ.
« Cao đăng thượng phẩm nguyện tuỳ tâm » : Chúng ta hy vọng mọi người đều tu pháp nầy, tụng trì Chú nầy, cao đăng thượng phẩm, đắc được hoa sen thượng phẩm thượng sinh, tuỳ tâm mãn nguyện, bạn có nguyện gì thì viên mãn nguyện đó.

       382. A tố ra. 

          Dịch : Tập tan A Tu La.

Kệ :

Phá toái Tu La sân khuể si
Háo dũng đấu lang phi thiên thời
Nữ đố nam xú bất đoan chính
Nghiệp báo sở cảm đại tổn thất.

Nghĩa là:

Phá tan Tu La sân hận si
Ham thích đấu tranh chẳng phải trời
Nữ đố nam xấu chẳng đoan chính
Nghiệp báo sở cảm tổn thất lớn.

Giảng giải : « Phá tan Tu La sân hận si » : A Tố La và A Tu La, bất quá câu nầy là « Phá tan chú thuật thần thông của A Tu La », phá trừ tâm sân hận, tâm phẫn nộ, tâm ngu si, của Tu La.
« Ham thích đấu tranh chẳng phải trời » : A Tu La có phước trời, nhưng không có quyền lực trời, nên gọi là chẳng phải trời (phi thiên), tánh của chúng thích đấu tranh, ở đâu cũng đều muốn làm hoàng đế, đàn áp người khác, đây là bản tánh của A Tu La. Chúng còn gọi là « Vô tửu », tức không có rượu uống, ngày ngày uống rượu say, biến thành Tu La say.
« Nữ đố nam xấu chẳng đoan chính » : Nữ A Tu La đa số rất đố kị, nữ A Tu La rất đẹp, còn nam A Tu La thì rất xấu xí, chẳng ai muốn nhìn, thậm chí khi nhìn thấy, thì sẽ hồn bay phách tán. A Tu La hoặc mũi thì dài ở phía trên con mắt, con mắt thì ở dưới lỗ mũi, ngũ quan chẳng đoan chánh, đều chẳng đúng vị trí, hoặc cái miệng và lỗ tai thay đổi vị trí, nói chung rất là xấu xí khó coi. Tại sao bị như thế ?
« Nghiệp báo sở cảm tổn thất lớn » : Đều do khi tại nhân địa làm người, thì cứ nổi nóng, sân hận. Bạn xem, khi người nổi nóng chẳng phải là khó coi không ? Nổi nóng nhiều quá thì sẽ biến thành A Tu La xấu xí, ai không muốn làm A Tu La xấu xí, thì đừng nổi nóng, sân hận, tướng mạo sẽ viên mãn đoan chánh xinh đẹp. Hãy xem những người tướng mạo đoan chánh xinh đẹp, đều do đời trước họ tin Phật, lạy Phật, không nổi nóng, đều đối đãi tốt với mọi người, chẳng có tâm sân hận. A Tu La tâm sân rất lớn, chúng ta người học Phật, biết nhân quả nầy, thì nên nhớ đừng có nổi nóng sân hận.
                                                                                                  
       383. Tỳ đà ra.

          Dịch : Đại lực trì.

          Kệ :

Phi vi Tu La đại lực trì
Chư Phật oai đức hoá cập thời
Bất động giáo chủ hoan hỉ quang
Đông phương kim cang niệm tại từ.

          Nghĩa là:    

Chẳng phải Tu La đại lực trì
Chư Phật oai đức hoá đúng thời
Đức Phật A Súc hoan hỉ quang
Đông phương Kim Cang làm nhiệm vụ.

Giảng giải : « Chẳng phải Tu La đại lực trì » : Tỳ Đà Ra dịch là « Đại lực trì ». A Tu La cũng có đại lực, nhưng ở đây chẳng phải là đại lực của A Tu La chi trì. Đây là sức lực của chư Phật, đây là oai đức của chư Phật.
« Chư Phật oai đức hoá đúng thời » : Oai đức giáo hoá chúng sinh của chư Phật, cũng chẳng trước, cũng chẳng sau, hợp thời. Chúng sinh đáng được độ, thì Ngài đến độ, chưa đến thời, thì phải chờ đợi, khi thời cơ chín mùi, thì mới đến độ chúng sinh.
« Bất Động giáo chủ hoan hỉ quang » : Giáo chủ cõi đông phương thế giới Lưu Ly, là Phật A Súc Hoan Hỉ Quang, còn gọi là Phật A Súc, còn gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
« Đông phương Kim Cang làm nhiệm vụ » : Vị Phật nầy suất lãnh bộ chúng phương đông Kim Cang bộ, khi bạn tụng câu Chú nầy, thì các Ngài sẽ chấp hành nhiệm vụ mà thuở xưa các Ngài đã phát nguyện.

       384. Ba ca phấn.

          Dịch : Tôn thắng.

Kệ :

Thù thắng diệu hảo Phật đảnh tôn
Tam thập nhị tướng độ quần luân
Nhất thiết như ý tuỳ tâm hiện
Vạn sự hanh thông chỉ mê tân.

Nghĩa là:

Phật đảnh tôn thù thắng tốt đẹp
Ba mươi hai tướng độ chúng sinh
Tất cả như ý tuỳ tâm hiện
Vạn sự hanh thông chỉ bờ mê.

Giảng giải : « Phật đảnh tôn thù thắng tốt đẹp » : Câu Chú nầy dịch là « Tôn thắng ». Pháp thân của Phật thù thắng tốt đẹp, Chú Lăng Nghiêm là hoá Phật trên đảnh nói, cho nên nói Phật đảnh tôn.
« Ba mươi hai tướng độ chúng sinh » : Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Tại sao Phật có ba mươi hai tướng ? Phật là vô tướng, cần ba mươi hai tướng để làm gì ? Sao lại có tám mươi vẻ đẹp ? Nếu Ngài còn nghĩ về cái đẹp, thì đâu có khác gì với phàm phu chúng ta? Chẳng phải, tuy Phật có ba mươi hai tướng, tướng mà bất tướng, vô tướng vô sở bất tướng, tại phần chúng sinh thấy có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Tại bản thể của Phật, tức là một đại quang minh tạng, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, vô tướng vô sở bất tướng, cho nên có « Ba mươi hai tướng độ chúng sinh », là vì độ chúng sinh mà thị hiện có những tướng tốt quang minh nầy, khiến cho chúng sinh nghĩ hâm mộ, thích ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm của Phật, tự mình cũng nghĩ muốn được những tướng tốt trang nghiêm nầy, do đó bèn phát tâm tu hành. Chúng sinh bao quát hết tất cả phi tiềm động thực, noãn thai thấp hoá, tất cả chúng sinh. Phàm là có khí huyết, đáng được độ thì Phật mới thị hiện ba mươi hai tướng.
« Tất cả như ý tuỳ tâm hiện » : Cảnh giới của Phật tuỳ tâm sở hiện, thảy đều mãn nguyện, trong tâm của bạn có gì, thì hiện ra cái đó.
« Vạn sự hanh thông chỉ bờ mê » : Như vậy đều hanh thông viên mãn thành tựu, chẳng có sự việc nào không tốt. Chư Phật thường ở tại thế gian chỉ bày cho chúng sinh thoát khỏi con đường mê muội.
Chúng sinh thì thường lưu chuyển ở trong điên đảo mộng tưởng, cho nên mới có sợ hãi, có mộng tưởng, có điên đảo. Nếu lìa khỏi sự sợ hãi mộng tưởng điên đảo nầy, thì đắc được cứu kính Niết Bàn. Sự tốt nhất trên đời là tu đạo, nhưng rất ít người tu hành, trong một vạn người thì có một vạn người không tu hành, thật là kỳ lạ ! Danh lợi việc nhỏ ai cũng thích, sinh tử việc lớn chẳng ai màng. Thanh tịnh là phước chẳng ai hưởng, phiền não thị phi ai cũng tham. Bạn xem có kỳ lạ hay không !

       385. Tát bà đề bệ tệ phấn.

          Dịch : Hàng phục tất cả chúng Thiên thần.

          Kệ :

Dục thiền chánh ma phàm ngoại thiên
Thánh nhân quân thần chủ bạn liên
Văn Chú hàng phục giai khâm kính
Hộ trì Tam Bảo phước huệ miên.

Nghĩa là:

Trời dục thiền ma phàm ngoại đạo
Thánh nhân quân thần chủ bạn liền
Nghe Chú hàng phục đều cung kính
Hộ trì Tam Bảo phướng huệ tăng.

Giảng giải : Câu nầy hàng phục tất cả chư Thiên. Trời có rất nhiều tầng trời, thông thường biết đến có trời Ba Mươi Ba, đây là  tầng thứ hai của dục giới, đông tây nam bắc đều có tám trời, thêm ở giữa, cộng thành Ba Mươi Ba. Trời phân làm ba cõi : Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
« Trời dục thiền chánh ma phàm ngoại » : Trời dục là chỉ trời dục giới, thiền là chỉ trời Tứ Thiền. Trời Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Lại có chánh Thiên, lại có chỗ của thiên ma ở, trời phàm phu ngoại đạo và trời Thánh nhân ở.
« Thánh nhân quân thần chủ bạn liền » : Trời cũng có Thiên chủ trời Ba Mươi Ba thống nhiếp chư Thiên, để thưởng phạt thiện ác nhân gian, có Thiên chủ bốn trời.
« Nghe Chú hàng phục đều cung kính » : Khi chư Thiên nghe Chú nầy, thì đều hàng phục, lão lão thật thật giữ quy cụ, nghe sự sai bảo, cung kính tôn trọng Chú, hộ trì Tam Bảo, quy mạng cung kính.
« Hộ trì Tam Bảo phước huệ tăng » : Họ ủng hộ Tam Bảo, lại một lòng tu đạo, dũng mãnh tinh tấn, thì tự nhiên phước huệ sẽ ngày càng tăng trưởng.

       386. Tát bà na già tệ phấn.

          Dịch : Hàng phục tất cả chúng rồng độc.

          Kệ :

Nhất thiết long chúng giai triều củng
Thiện độc thiên địa quyến thuộc thân
Cải tà quy chánh tu chư kỷ
Lập công tinh tấn quả tự thành.

Nghĩa là:

Tất cả chúng rồng đều chắp tay
Khéo độc trời đất quyến thuộc thân
Cải tà quy chánh tự tu hành
Lập công tinh tấn quả sẽ thành.

Giảng giải: “Tất cả chúng rồng đều chắp tay”: Đây là nói về tất cả chúng rồng. Chắp tay nghĩa là hàng phục. Rồng có rồng thiện, rồng ác. Rồng thiện là chỉ Thiên long bát bộ hộ pháp thiện thần, chúng hộ trì đạo tràng, trợ giúp vạn vật, đối với người không có hại, thường thường bảo hộ người. Rồng ác là chỉ rồng độc, chuyên môn hại người, chúng hay phun độc, khiến cho người sinh ra đủ thứ quái bệnh.
Đương thời Lục Tổ Đại Sư ở tại Tào Khê Chùa Nam Hoa tu hành, thì có một con rồng độc ở trong đầm. Rồng độc đó thường nhiễu loạn người tu hành, gây phiền phức cho người tu. Có khi hoá thân làm Thiên chủ nói chuyện với người tu hành rằng: “Ngươi hãy mau rời khỏi Chùa Nam Hoa, chỗ nầy chẳng phải là đạo tràng chân chánh, là đạo tràng giả, chỗ nầy cứ hại người, nói là Lục Tổ, trên thật tế chỉ là gạt người”. Con rồng độc đó chuyên môn phá hoại đạo tràng Chùa Nam Hoa. Nếu ai chẳng dụng công tu hành thì chẳng có vấn đề gì, nếu mà dụng công tu hành, thì có đủ thứ cảnh giới phát hiện, chẳng phải nhìn thấy Phật đến, thì là Bồ Tát thị hiện, kêu bạn đừng tu hành ở Chùa Nam Hoa, Chùa Nam Hoa chẳng phải là đạo tràng tốt, nếu bạn muốn thành tựu đạo nghiệp, thì nên đi đến chỗ khác. Nó phá hoại đạo tràng như thế, nhiều năm trôi qua, Lục Tổ cũng không để ý đến nó. Những người tu hành nửa thật nửa giả, chẳng chịu được sự khảo nghiệm đều bỏ đi hết, nói: “Tại chỗ nầy ở không được, đạo tràng nầy không thể tu hành”. Người tu đến thì rồng độc làm mọi cách cho họ bỏ đi, khiến cho đạo tràng ngày càng giảm bớt người tu hành.
Một ngày nọ, Lục Tổ Đại Sư thật không chịu đựng được nữa, Ngài biết con rồng độc tác quái, bèn đi đến gặp nó và nói cười với nó. Quả nhiên con rồng độc đó cũng không sợ Lục Tổ Đại Sư. Thấy Ngài đến bèn hiển thần thông, hiện ra thân lớn trùm che đầy khắp đầm nước.
Lục Tổ Đại Sư nói: “Ta biết ngươi có chút thần thông, nhưng người chỉ biết hiện thân lớn, ta không tin người có thể hiện được thân nhỏ”!
Rồng độc nghe nói như vậy, lập tức ẩn thân lớn, hiện ra thân nhỏ, lượn tới lượn lui trên mặt nước.
Lục Tổ Đại Sư lại nói: “Ngươi có chút bản lãnh, hiện được thân lớn, thân nhỏ, nhưng ngươi không dám nhảy vào trong bình bát của ta”.
Rồng độc nghe nói như vậy, lập tức nhảy vào trong bình bát của Lục Tổ Đại Sư. Nhưng nhảy vào rồi ra không được! Lục Tổ Đại Sư bèn thuyết pháp cho nó nghe, con rồng đó nghe pháp hiểu và được giải thoát. Tuy là rồng độc, được Lục Tổ Đại Sư giáo hoá, cũng đắc được giải thoát.
“Khéo độc trời đất quyến thuộc thân”: Rồng cũng chẳng phải là một loại, có Thiên long, địa long, hải long, rồng trong hư không, rồng vàng, rồng bạc, rồng lửa, rồng nước, rồng xanh, rồng trắng, rồng vàng, rất nhiều đủ loại, chỉ mỗi một loại, lại có thể phân ra vô cùng vô tận nhiều loại. Rồng có quyến thuộc của rồng, có rồng con, rồng cháu, giống như sinh vật trong biển, cá, tôm, cua v.v… đều là quyến thuộc của Long vương.
Rồng từ đâu đến? Tôi đã từng nói qua, trước kia khi chúng làm người, thì tánh tình vội vàng, làm gì cũng đều muốn nhanh, làm gì cũng giống như trận gió bão. Đi bộ cũng đi nhanh như gió, làm việc thì phải nhanh chóng mau lẹ, một chút định lực cũng không có, nhưng có dũng khí, gì cũng dám làm. Khi làm người, hoặc không làm thì gì cũng không làm, một khi làm thì gì cũng đều muốn làm, giống như rồng lúc lên trời, lúc dưới đất. Nếu các vị không nhận thức loại người nầy, tôi có thể ví dụ cho các vị thấy: Giống như vị đệ tử nọ, bạn thấy cô ta ngồi tại đó, giống tựa như có thần thông, nhưng chẳng có một chút an ổn nào, chẳng có định lực.
Khi rồng làm người thì cũng giống như thế, thừa cấp giới hoãn, thích tu pháp đại thừa, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn, nhưng chẳng giữ giới luật, tuỳ tiện mắng chửi người, tuỳ tiện nổi giận, tuỳ tiện phạm giới, tuỳ tiện không giữ quy cụ, cô ta cảm thấy trì giới rất là bình thường, chỉ cần mình tinh tấn dũng mãnh, tu hành cho tốt là đủ rồi, còn những việc khác không cần! Xem chuyện khai trai phá giới là chuyện nhỏ, xem nó chẳng có việc gì to tác. Vì “thừa cấp” nên có thần thông, vì “giới hoãn” nên đoạ làm súc sinh thân rồng, hai thứ quả báo. Các vị phải coi chừng, không thể tuỳ tiện đi sai đường, quay lại thì không dễ dàng!
“Cải tà quy chánh tự tu hành”: Tâm sân hận của rồng rất nặng, đây là chỗ tà của rồng, hiện tại sửa đổi tu hạnh từ bi tức là quy chánh. Nói đến chánh tà, chẳng phải làm những việc cổ quái mới gọi là tà, mà làm những việc không hợp với chánh pháp tức là tà. Có thể cải tà quy chánh thì có biện pháp, tội lỗi dù có nhiều bao nhiêu, một khi biết sám hối thì sẽ tiêu trừ, đừng cứ hướng bên ngoài tìm cầu, mà là phải tự mình tu.
“Lập công tinh tấn quả tự thành”: Thường thường phải lập công, lập đức, làm việc chân thật, làm việc thiện không cần cho người biết. Đừng cứ biểu hiện công phu trước mặt người khác, phải làm một cách chân thật. Nhìn thấy sư phụ đến, thì mau mau cầm chổi quét sân, hoặc giả bộ làm việc, khi sư phụ đi rồi thì không làm. Làm việc chẳng phải để cho người khác thấy, phải đem tâm chân thành ra làm, làm việc thật thì đừng tìm cầu danh lợi. Bạn chỉ dụng công phu ở ngoài da, làm cho người khác xem, thì bạn cứ dụng công phu ở ngoài da, cho người khác xem. Nếu Phật thấy bạn làm như thế, thì bạn làm sao đây?
Phải thật lập công, thật tinh tấn, làm việc chứ chẳng phải so sánh hơn kém với người khác, mà là làm điều nên làm, chứ chẳng phải chạy theo hơn thưa với người khác, thấy người dụng công lạy ở đó, mình cũng mau chạy đến lạy mấy lạy, kêu người nhìn mình cũng đang tu hành. Thấy người khác chẳng lạy, thì mình cũng đi ngủ! Chẳng phải như thế, phải tự mình sung thực đức hạnh của mình, cung hành thực tiễn, lão lão thật thật mà làm, đừng có cứ làm một cách giả dối.

       387. Tát bà dược xoa tệ phấn.

          Dịch: Hàng phục tất cả quỷ thần dũng mãnh.

          Kệ:

Dũng mãnh quỷ thần đại lực tinh
Phi hành biến hoá thiện ngũ thông
Nam nữ quyến thuộc tận hàng phục
Đồng quy Ma Ha Bát Nhã môn.

Nghĩa là:

Quỷ thần dũng mãnh đại lực tinh
Phi hành biến hoá có ngũ thông
Nam nữ quyến thuộc hàng phục hết
Đồng vào môn Ma Ha Bát Nhã.

Giảng giải: “Quỷ thần dũng mãnh đại lực tinh”: Dược Xoa, hay còn gọi là Dạ Xoa, còn gọi là Tỳ Xá Già. Cưu Bàn Trà, còn gọi là La Sát, những tên nầy đều là một loại. Loại quỷ nầy còn gọi là quỷ mau chóng, chúng hành động rất mau chóng, phân ra gồm có phi hành Dạ Xoa, địa hành Dạ Xoa, không hành Dạ Xoa có thể bay lên trời. Quỷ La Sát khéo hại người, ở trước tôi đã từng giảng qua chúng chuyên môn hút tinh khí của con người. Người tu hành mà không cẩn thận, nghĩ tưởng bậy bạ, thì sẽ bị quỷ hút tinh khí, cướp lấy đi bảo bối của bạn. Quỷ Cưu Bàn Trà, còn gọi là quỷ Úng Hình, tựa như đông qua, gọi là quỷ Đông Qua. Có khi người nằm mộng bị bóng đè, hoặc gọi là ma đè, trong tâm biết rõ ràng, nhưng nói không ra lời, cũng không thể cử động được, cảm thấy có vật gì đó đè trên thân mình, đây là bị quỷ Cưu Bàn Trà, loại quỷ nầy đa số hại người, lợi người thì rất ít.
Chúng có thể dời núi lấp biển, có thể biến hoá thế giới, sức thần thông không nhỏ, lại gọi là quỷ thần dũng mãnh. Loại quỷ nầy không nói đạo lý, thích đấu tranh. Bạn có ác chăng? Chúng càng ác hơn bạn! Bạn có lợi hại chăng? Chúng càng lợi hại hơn bạn. Thật là A Tu La thành tánh, đấu tranh kiên cố, rất là hung tợn. Yêu ma quỷ quái, đại lực quỷ thần đều thuộc về loại nầy.
« Phi hành biến hoá khéo ngũ thông » : Chúng bay đi tự tại, thần thông bản lãnh của chúng rất lớn như Bồ Tát, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa; trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trong hư không có thể nhảy múa, hoặc nằm ngủ, rất là tuỳ tiện. Đây tức là sức lực của ma quỷ, sức lực của quỷ thần dũng mãnh.
Nếu người tu hành mà tham thần thông, thì rất dễ vướng vào loại ma quỷ nầy, một khi vướng vào rồi, thì nghĩ tưởng bậy bạ, ăn nói hàm hồ, không biết hổ thẹn. Như vậy làm cách nào để không vướng vào ma quỷ ? Phải giữ giới luật, giữ quy cụ, có hộ giới thiện thần bảo hộ, thì ma quỷ không có cách gì. Bất cứ vị nào có thứ tâm tham nầy, tham thần thông, tham đủ thứ cảnh giới, đây đều là bị tẩu hoả nhập ma, khiến cho bạn chẳng có trí huệ chân chánh, hay nổi giận. Đây đều là bị đại lực quỷ thần chi phối. Hôm nay kêu bạn uống chút nước tiểu, ngày mai kêu bạn ăn chút phân, hoặc cứ làm những việc phạm giới, làm những việc không nên làm. Vì chúng muốn bạn không giữ giới luật, thì chúng sẽ được tiện, một khi được tiện, thì chúng sẽ nhiếp lấy linh hồn của bạn, bạn trở thành quyến thuộc của chúng, thì thế lực của chúng sẽ thêm lớn.
Cho nên tu đạo sai một ly đi ngàn dặm, vì một niệm không minh bạch, thì sẽ lạc vào quyến thuộc của ma vương. Ma vương cũng hay phi hành biến hoá, có ngũ thông, có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, nhưng chẳng có lậu tận thông, vẫn còn lưu chuyển trong luân hồi. Người tu đạo nghe trong không có người nói chuyện với họ, thì cho rằng : « Bây giờ tôi đã khai ngộ rồi » ! Đó là bạn khai quỷ ngộ, bạn sẽ làm ma quỷ.
« Nam nữ quyến thuộc hàng phục hết » : Nam nữ ở đây, chẳng phải là chỉ nam nữ thế gian chúng ta, là chỉ quyến thuộc của ma vương, ma nam ma nữ, ma con ma cháu. Khi bạn niệm câu Chú nầy, thì những quỷ thần đại lực dũng mãnh nầy đều hàng phục.
« Đồng vào môn Ma Ha Bát Nhã » : Cùng nhau trở về môn đại trí huệ, đều sinh ra đại trí huệ.

       388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn.

          Dịch: Hàng phục tất cả chúng âm nhạc.

          Kệ :

Hàng phục nhất thiết chúng âm nhạc
Ti trúc quản huyền mộc thạch kim
Thiên chủ tụ hội hương vạn lý
Lai phó thịnh diên ca vô cùng.

Nghĩa là:

Hàng phục tất cả chúng âm nhạc
Tơ trúc quản huyền mộc thạch kim
Thiên chủ tụ hội hương vạn dặm
Đến dự tiệc ca hay vô cùng.

Giảng giải: Tệ Phấn nghĩa là « Hàng phục », Càn Thát Bà Vương là Thần nhạc, là một trong Thiên long bát bộ, còn gọi là Thần ngửi hương. Khi Ngọc Hoàng muốn nghe âm nhạc, thì gọi chúng đến. Làm thế nào để gọi chúng đến ? Những vị Thần nhạc nầy, có một thứ khứu giác rất đặc biệt, khi ngửi được mùi hương, thì dù ở xa bao nhiêu, cũng đều phải đến cho mau. Do đó lại gọi là Thần ngửi hương. Càn Thát Bà mặt tựa giống như người, nhưng trên đầu có một cái sừng.
« Hàng phục tất cả chúng âm nhạc » : Tấu âm nhạc nầy, nhảy nhảy nhót nhót đều là những người không lão thật. Hiện tại làm Thần rồi, tập khí vẫn không thay đổi, vẫn nhảy nhót, vừa ca vừa múa, một mặt thổi tấu, một mặt đánh trống.
« Tơ trúc quản huyền mộc thạch kim » : Trong Tam Tự Kinh có nói đến tám âm đó là : Kim, thạch, thổ, cách, tơ, mộc, bào, trúc, đều là nhạc khí. Trúc là trúc quản, là ống sáo, có nhiều loại ống sáo. Nói đến âm nhạc tôi không rành, chỉ biết tên thôi, chẳng biết chơi như thế nào, nên không thể nói tỉ mỉ được.
« Thiên chủ tụ hội hương vạn dặm » : Thiên chủ ở tại đó chiêu tập rằng : « Gia Tô đến nha ! Thánh mẫu đến nha ! Đến đây khai hội ». Khi Gia Tô đến, thì nghe được tiếng âm nhạc mê mê hồ hồ, tựa như uống rượu say. Thánh mẫu đến nghe tiếng âm nhạc, thì những gì cũng đều quên hết, cũng không nhận ra được Gia Tô, bèn nói « Who are you » ? Gia Tô nói : « Tôi là tôi, bà là bà » ! Ai cũng chẳng phải ai, bạn xem đó là tại sao ? Vì bị âm nhạc mê hoặc, bị những nhạc Thần đó mê hoặc. Thiên chủ tụ hội cũng chẳng phải chỉ một người, hai người, mà là có vô lượng vô biên Thần nhạc cùng tụ hội. Khi chúng tấu âm nhạc lên, thì khiến cho người không ăn cũng không biết đói, không mặc y phục cũng không biết lạnh, không ngủ cũng không cảm thấy mệt, có sức lực lớn như vậy. Cho nên bạn có muốn đi nghe chăng ? « Muốn đi thì đi, chỉ là sợ không trở lại thôi », như vậy thì đừng đi.
« Đến dự tiệc ca hay vô cùng » : Mọi người đều đến dự lễ hội, một khi khởi xướng thì mấy trăm năm, chẳng giống như nhân gian chỉ cuối đêm là tan hội, vì ở trời Tứ Thiên Vương một ngày một đêm, thì ở nhân gian là năm mươi năm, trời Đao Lợi một ngày một đêm, thì ở nhân gian là một trăm năm, chẳng phải như ở nhân gian, âm nhạc trên trời lợi hại như thế.

       389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn.

          Dịch : Tất cả quỷ đến khen ngợi lễ bái.

          Kệ :

Tinh thiên cấu uế xú ngạ quỷ
Thường xứ nhiễm ô thỉ niệu đôi
Tật đố tạo thử bất tịnh nghiệp
Kim ngộ linh văn thoát luân hồi.

Nghĩa là:

Ngạ quỷ thối tanh hôi dơ bẩn
Thường ở đống phân tiểu nhiễm ô
Đố kị tạo nghiệp bất tịnh nầy
Nay ngộ linh văn thoát luân hồi.

Giảng giải : Tát Bà nghĩa là « Tất cả », Bổ Đơn Na tức là “Ngạ quỷ thối”, vừa thối, vừa đói, cứ ăn đại tiện, vì thật là quá đói. Tại sao làm loài ngạ quỷ nầy ? Vì quá khứ tạo ra một thứ nghiệp đố kị ghen ghét. Ghen ghét người khác tu đạo, đạo hạnh cao hơn họ, đạo đức cao hơn họ, học vấn giỏi hơn họ, bất cứ người khác như thế nào, họ đều đố kị ghen ghét, do đó biến thành ngạ quỷ thối, càng thối thì càng đố kị, mà càng đố kị thì càng thối. Thối vẫn không khẩn cấp, lại đói đến nỗi không có một chút gì để ăn.
« Ngạ quỷ thối tanh hôi dơ bẩn » : Tại sao phải đoạ làm ngạ quỷ như vậy ? Kỳ thật, chính mình cũng không muốn làm, chỉ là một chút một chút nghiệp tạo mà thành, không muốn làm cũng không được, do đó hằng ngày sống với sự tanh hôi dơ bẩn, lâu dần thì không còn nghe hôi thối nữa, sống một cách tự nhiên. Giống như mùi tanh của cá, mùi hôi của dê, dơ bẩn không sạch sẽ, khiến cho người nhìn thấy thì muốn nôn. Tại sao như thế ? Vì « Thường ở đống phân tiểu nhiễm ô », chúng ở chỗ hầm phân, nước tiểu, ở đó làm thực nghiệm hoá học, xem thử mình có hợp nhất với những thứ đó không. Ở chỗ đó nghiên cứu khoa học, dùng phân nước tiểu để nghiên cứu pháp bảo. Chúng toả ra mùi hôi thối, thối không thể ngửi được, khiến cho người phải nôn. Tại sao phải đến nông nỗi nầy ?
« Đố kị tạo nghiệp bất tịnh nầy » : Nghiệp của chúng là đố kị ghen ghét, trước kia chẳng phải tôi đã giảng qua rồi chăng, nếu ai đố kị thì sẽ biến thành dòi bọ trong hầm phân chăng ? Dòi bọ trong hầm phân tức là ngạ quỷ thối, nhưng các vị nhất định không tin, nhất định muốn thử xem, nói : « Sư phụ nói như vậy, đáo để như thế nào, để tôi làm hoá học thực nghiệm trước ». Bạn không ngại hãy đi thử nghiệm, đợi bạn thử nghiệm rồi thì sẽ biết.
« Nay gặp linh văn thoát luân hồi » : Linh văn tức là Chú Lăng Nghiêm, siêu độ được ngạ quỷ thối, thoát khỏi sáu nẻo luân hồi.

       390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn.

          Dịch: Tất cả quỷ đều quy kính.

          Kệ:

Tán lễ quy kính Thiên Trung Thiên
Hàng phục kỳ xú quỷ vương tiên
Mật ngữ chân ngôn thông pháp giới
Cải ác dời thiện hoán tân nhan.

Nghĩa là:

Khen lễ quy kính Thiên Trung Thiên
Hàng phục quỷ vương tiên thối lạ
Mật ngữ chân ngôn thông pháp giới
Cải ác làm lành thay mặt mới.

Giảng giải: “Khen lễ quy kính Thiên Trung Thiên”: Loại ngạ quỷ nầy lợi hại hơn so với loại ngạ quỷ trước, ở trước chỉ là thối bình thường, loại ngạ quỷ nầy đặc biệt thối, thối đến nỗi không thể tưởng tượng được, khiến cho ai ngửi được, nếu không chết thì đầu óc cũng hôn mê, lợi hại như thế. Câu Chú nầy hay hàng phục quỷ thối kỳ lạ, khi bạn tụng lên, thì chúng không có cách chi toả ra mùi thối, vì đã bị hàng phục. Hàng phục rồi thì bèn khen ngợi Phật. Khen là miệng khen, lễ là thân lễ, trong tâm quy kính tức ý nghiệp, thân tâm lễ kính, trong ngoài nhất chí. Thiên Trung Thiên là một danh hiệu khác của Phật.
“Hàng phục quỷ vương tiên thối lạ”: Chú nầy hay hàng phục tà tiên thối không thể ngửi được, tại sao?
“Mật ngữ chân ngôn thông pháp giới”: Vì thứ mật ngữ chân ngôn nầy, chẳng những hay hàng phục được quỷ thối kỳ lạ nầy, mà còn hàng phục được hết thảy quỷ thối lạ của pháp giới, tuỳ ý chúng đều có thể “Cải ác làm lành thay mặt mới”, sữa lỗi làm mới, không làm các điều ác, làm các điều lành, mặt mày của quỷ cũng đổi thành bộ mặt từ bi của Bồ Tát. Do đó, cũng là cái miếu đó, nhưng chẳng phải thần đó, trước kia là quỷ vương, bây giờ là Bồ Tát. Cho nên các vị nên nhớ, đừng có đố kị ghen ghét người khác. Người ta có đạo đức, có học vấn, có tu hành hơn mình, thì mình nên tuỳ hỉ khen ngợi họ mới đúng, đừng có có tâm đố kị ghen ghét họ.

       391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.

          Dịch: Hàng phục các ma.

          Kệ:

Nhất thiết ma chúng hại sinh linh
Tăng già thế lực quyến thuộc hưng
Thử Chú tụng trì tức hàng phục
Hư không pháp giới khánh khang bình.

Nghĩa là:

Tất cả chúng ma hại sinh linh
Thế lực Tăng già quyến thuộc hưng
Tụng trì Chú nầy liền hàng phục
Hư không pháp giới đều yên bình.

Giảng giải : Câu Chú nầy hay hàng phục tất cả ma quỷ, hình dáng ma quỷ không nhất định, chúng có thể thiên biến vạn hoá, để nhiễu loạn người tu đạo. Định lực của bạn không đủ, thì sẽ bị cảnh giới chuyển, bị nhiễu loạn, tẩu hoả nhập ma. Ví như bạn đang dụng công tu hành, hốt nhiên có người nói với bạn, lời nói ra đều rất linh nghiệm, ví như « Ngày mai anh của bạn sẽ sinh bệnh, ngày mốt em trai của bạn lại bị trúng gió, hoặc là trong nhà của bạn có người nào đó lại bị tai nạn ». Nói với bạn những chuyện tốt, cũng nói với bạn những chuyện xấu. Tại sao lại nói với bạn ? Vì chúng muốn nhìn xem bạn có bị động hay không, xem bạn có tâm tham hay không, có tâm ích kỷ, tâm chấp trước hay không ? Cho nên nói :

« Tất cả là khảo nghiệm
Xem bạn làm thế nào
Trước mắt mà không biết
Phải luyện lại từ đầu ».

Nếu bạn không nhận thức được cảnh giới, biết sai lầm rồi, thì phải sửa đổi làm lại từ đầu. Do đó người tu hành bất cứ nghe âm thanh gì, thấy được cảnh giới gì, cũng đừng động tâm. Cảnh giới, âm thanh, đều là vật từ bên ngoài đến, cầu pháp ngoài tâm là ngoại đạo, chỉ là vướng ma mà thôi. Phải:

« Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ».

Đừng bị vật bên ngoài làm giao động, đừng bị cảnh giới lay chuyển, đây là chứng được Sơ quả. Không bị mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu thức lay động, tức là hàng phục được sáu tên tặc, cho nên bài kệ nói : « Tất cả chúng ma hại sinh linh », chúng thấy người tu hành buông bỏ chẳng đặng, đố kị bạn tu hành, đều muốn tìm các phương pháp để trở ngại bạn. Cho nên đừng cho rằng có người nói chuyện với bạn là cảnh giới tốt, hoặc thấy Phật, thấy hoa, hoặc thấy hào quang là cảnh giới tốt. « Phàm hết thảy tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai ». Đứng có tâm tham như thế ! Cứ tham cảnh giới tốt, tham trước âm thanh, căn bản tức là sai lầm.
Làm thế nào mới có thể thành đạo ? Đạo là trong tự tánh của mình hiện ra, chẳng phải do bên ngoài đến, cũng chẳng phải bên ngoài có người nói với bạn, có người nói với bạn đều là giả, tại sao bạn phải nghe lời họ ? Đây đều là cảnh giới của ma. Ma quỷ ngàn biến vạn hoá, bạn hoan hỉ người nầy chăng ? Chúng biến thành người nầy để dụ dỗ bạn. Bạn chán ghét người đó chăng ? Chúng liền biến thành người đó, để khiến cho bạn nổi nóng, kỳ kỳ quái quái, đủ thứ màu sắc, nhiều nói không hết được ! Tại sao chúng như vậy, câu sau sẽ giải thích.
« Thế lực Tăng già quyến thuộc hưng » : Nếu chúng làm cho bạn người tu hành điên đảo, mất đi sự sáng suốt, tẩu hoả nhập ma, thì bạn sẽ đi theo chúng, biến thành quyến thuộc của ma, thì thế lực của chúng sẽ tăng thêm. Lúc đó lũ ma sẽ đều đến chúc mừng nói « Bạn đây là đại ma vương, lão đại ca của chúng ma, chúng ta cùng nhau ủng hộ bạn, bạn có thể bắt sống người tu đạo nầy ». Cho nên là thế lực Tăng già, khiến cho quyến thuộc của chúng hưng long, đó là nguyên nhân ma đến nhiễu loạn bạn.
Người của Vạn Phật Thánh Thành, nếu giữ được không tham, không tranh, không mong cầu, không ích kỷ, không lợi mình, không nói dối, giữ được sáu điều nầy, thì ma gì cũng không hại được bạn. Chúng dùng sắc đẹp đến dụ dỗ bạn, bạn không tham, cho đến dùng vàng bạc, dùng tất cả tất cả danh lợi đến dụ hoặc bạn, bạn kiên quyết không tham, thì chúng chẳng có cách gì hại bạn được. Tại sao bạn vướng ma ? Vì bạn còn tâm tham, chúng biết bạn còn chút nầy chưa buông bỏ đặng, chúng từ chỗ nầy mà tấn công bạn. Nếu bạn buông bỏ được hết mọi thứ, xem tất cả đều là : Khổ, không, vô thường, vô ngã, thì ma vương chẳng có cách gì.
« Tụng trì Chú nầy liền hàng phục » : Một khi bạn tụng Chú nầy, thì bất cứ ma vương gì cũng đều lão thật, bị hàng phục.
« Hư không pháp giới đều yên bình » : Tận hư không khắp pháp giới đều bình an, đều chẳng có vấn đề gì.

       392. Tát bà đột sáp tỷ lê.

          Dịch : Hàng phục các ác.

          Kệ :

Hàng phục chư ác quỷ quái tinh
Vô động giải thoát tịch diệt hạnh
Vạn thiên yêu tà đồng thụ thủ
Cấp tu khoái độ chế độc trùng.

Nghĩa là:

Hàng phục các ma quỷ yêu quái
Bất động giải thoát hạnh tịch diệt
Ngàn vạn yêu tà đều vâng lời
Chóng tu mau độ chế trùng độc.

Giảng giải: « Hàng phục các ma quỷ yêu quái » : Hàng phục lang sói hổ báo sư tử các thú dữ, những mãnh thú rất hung ác nầy, một khi thấy người là muốn ăn thịt. Ác quỷ yêu quái, lị mị vọng lượng cũng rất là ác.
« Bất động giải thoát hạnh tịch diệt » : Pháp bất động giải thoát là gì ? Tức là Chú Lăng Nghiêm. Nếu hay tu pháp bất động, pháp giải thoát, hạnh tịch diệt nầy, thì « Ngàn vạn yêu tà đều vâng lời», bất cứ có bao nhiêu yêu ma quỷ quái, đều lão lão thật thật, nghe lời giữ gìn quy cụ.
« Chóng tu mau độ chế trùng độc » : Mau tu một chút, mau độ tất cả chúng sinh, chế phục được tất cả trùng độc. Ít nhất trên thân thể của chúng ta, có ba con đại trùng độc đó là: Tham, sân, si. Nếu chế phục được những con độc trùng nầy, thì độc trùng bên ngoài cũng chẳng còn nữa.

       393. Hất sắc đế tệ phấn.

          Dịch : Có ba nghĩa: Không sinh, tịch diệt, than thở.       
Kệ :

Vô sinh vô diệt vô khứ lai
Đại tạo đại hoá đại siêu tai
Ta thán ưu sầu tâm não loạn
Văn tụng chân ngôn tiếu khai hoài.

Nghĩa là:

Không sinh không diệt không đến đi
Đại tạo đại hoá đại siêu tai
Than thở lo buồn tâm não loạn
Nghe tụng Chú nầy vui hoan hỉ.

Giảng giải: “Không sinh không diệt không đến đi”: Câu Chú nầy dịch là “Vô sinh”, “Tịch diệt”. Không sinh mà chẳng không sinh, không diệt mà chẳng không diệt, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi.
“Đại tạo đại hoá đại siêu tai”: Là cảnh giới không thể nghĩ bàn, chẳng phải phàm phu có thể dò lường được.
“Than thở lo buồn tâm não loạn”: Câu Chú nầy dịch là “Vô sinh”, “Tịch diệt”. Không sinh mà chẳng không sinh, không diệt mà chẳng không diệt. Câu Chú nầy còn dịch ra là “Than thở”, người nầy thường sầu muộn chẳng vui. Tại sao? Vì tâm tình không vui vẻ, con quỷ bi ai khổ não liền đến trợ giúp bạn sầu lo, sợ hãi, giúp cho bạn không có định lực, giúp bạn đoạ lạc. Khiến cho trong tâm của bạn phiền muộn vô cùng, suy nghĩ gì tâm cũng không khai mở được, cảm thấy tâm tựa như lửa đốt khó chịu.
“Nghe tụng Chú nầy vui hoan hỉ”: Lúc bấy giờ, nếu tụng Chú Lăng Nghiêm thì sẽ sinh tâm hoan hỉ.

       394. Tát bà thập bà lê tệ phấn.

          Dịch: Phá tan các đen tối.

          Kệ:

Đại phóng quang minh chiếu thế gian
Phá trừ hắc ám độ nữ nam
Phổ sử chúng sinh hoạch tự tại
Đào xuất tam giới luân hồi quyển.

Nghĩa là:

Phóng đại quang minh chiếu thế gian
Phá trừ đen tối độ nam nữ
Khắp khiến chúng sinh được tự tại
Thoát khỏi ba cõi vòng luân hồi.

Giảng giải: “Phóng đại quang minh chiếu thế gian”: Câu Chú nầy dịch là “Quang minh tự tại”, khi bạn tụng Chú nầy thì có đủ thứ quang minh hiện tiền.
“Phá trừ đen tối độ nam nữ”: Phá trừ hết thảy đen tối của thế gian, độ nam độ nữ khiến cho họ phát tâm bồ đề.
“Khắp khiến chúng sinh được tự tại”: Khắp khiến cho tất cả chúng sinh đắc được tự tại giải thoát.
“Thoát khỏi ba cõi vòng luân hồi”: Thoát khỏi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, ba cõi nhà lửa vòng luân hồi. Công đức của Chú Lăng Nghiêm không thể nghĩ bàn, các vị đều phải học thuộc lòng, mỗi một câu có công năng gì đều biết, nên biết đây là pháp bảo vô thượng tối diệu.

       395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn.

          Dịch : Phá các oan nghiệp.

          Kệ :

Nhất oản canh thang oan tự hải
Bán cân phì nhục nghiệp như sơn
Hợp cổ công ty khuy tư bổn
Đoạ lạc tam đồ phi quái tai.

Nghĩa là:

Trong một bát canh oán tựa biển
Nửa cân thịt béo nghiệp như núi
Công ty cổ phần vốn làm ăn
Đoạ lạc ba đường ác đừng trách.

Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là “Phá các oan nghiệp”. Oan thì có một sự sân hận bất bình, đều muốn báo thù. Mà chuyện không công bằng trên thế gian thì rất nhiều, việc công bằng thì rất ít. Mọi người tạo tội nghiệp cũng rất nhiều, làm công đức thì rất ít. Cổ đức có nói:

“Thiên bách niên lai oản lý canh
Oán thâm tự hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thức thính đồ môn dạ bán thanh”.

Nghĩa là:

Ngàn xưa đến nay một nồi canh
Oán sâu như biển hận khó tan
Muốn biết vì sao có chiến tranh
Hay nghe lò thịt lúc nửa đêm.

          Từ xưa đến nay trong một nồi canh, trong đó oan nghiệt sâu như biển, trong đó có sự oán hận khó tiêu tan. Bạn muốn biết trên thế gian vì sao có chiến tranh, có đủ thứ tai nạn chăng? Hãy nghe tiếng kêu gào cứu mạng thê thảm của lò thịt lúc nửa đêm! Nhưng cho dù chúng có gào thét như thế nào, quỳ lạy cầu cứu như thế nào, con người vẫn giết chúng. Thấy con người lúc làm thân người chẳng tu đạo cho tốt, khi làm ngựa, làm bò, làm heo, làm dê, nghĩ muốn tu đạo, cũng chẳng có cơ hội. Lúc đó bạn quỳ lạy khóc ở trong lò thịt sám hối rằng: “Các vị từ bi đừng có giết tôi”! Đồ tể vẫn cứ giết. Cho nên chỉ nghe tiếng gào thét ở lò mổ lúc nửa đêm, thì biết tai kiếp là từ đâu đến.
Có người nói: “Bây giờ lò mổ không giống như xưa, dùng máy móc, hoặc dùng điện để giết, bò dê chết trong sự bất tri bất giác”. Bạn cho rằng như vậy là đúng chăng? Vậy bạn có muốn chết như thế chăng? Kỳ thật, phương pháp nầy càng tàn nhẫn hơn, sự oán hận vẫn tồn tại, còn cao thâm hơn. Vì phàm là sát sinh đều là tạo tội nghiệp, cho nên bài kệ nói: “Trong một bát canh oán tựa biển, nửa cân thịt béo nghiệp như núi”, chỉ nửa cân thịt béo, nghiệp tạo ra lớn như núi Tu Di.
          “Công ty cổ phần vốn làm ăn”: Làm ăn như vậy, bạn ăn thịt gì thì hợp với cổ phần cái đó.
          “Đoạ lạc ba đường ác đừng trách”: Đoạ lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ba đường ác, thì đừng có oán trách. Tại sao? Vì bạn chẳng công bằng chút nào.

       396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.

          Dịch: Phá các tai ách.

          Kệ:

Vô cấu thanh tịnh phá tai ách
Phúc tha hữu dư thụ sa la
Kiên cố diệu cú trừ ma chúng
Hộ pháp thiện thần diễn Ma Ha.

Nghĩa là:

Không dơ thanh tịnh phá ai ách
Che chở hết thảy cây sa la
Chú nầy kiên cố hàng các ma
Hộ pháp thiện thần diễn Ma ha.

Giảng giải : « Không dơ thanh tịnh phá tai ách » : Không dơ tức là thanh tịnh, tất cả thanh tịnh thì tai ách đều có thể phá trừ.
« Che chở hết thảy cây sa la, Chú nầy kiên cố hàng các ma » : Chú Lăng Nghiêm kiên cố mật ngữ, hay phá ma, hàng ma.
« Hộ pháp thiện thần diễn Ma Ha » : Đây đều là đại Bồ Tát thuở xưa phát tâm, để làm hộ pháp thiện thần, xiển dương Phật pháp đại thừa.

       397. Tát bà địa đế kê tệ phấn.

          Dịch : Phá các oan hại.

Kệ :

Phá các oan hại cứu quần sinh
Thậm dũng vô uý chế độc trùng
Tam muội oai lực năng nghịch chuyển
Nhất thiết tai nạn hoá cát tường.

Nghĩa là:

Phá các oan hại cứu quần sinh
Dũng mãnh không sợ chế trùng độc
Tam muội oai lực chuyển càn khôn
Tất cả tai nạn hoá cát tường.

Giảng giải : Sức lực của câu Chú nầy hay « Phá tất cả oan hại », bất cứ loại oan hại nào, đều phá được hết. Oan tức là hàm oan, vốn không nên thêm tội vào thân. Hại là thương hại, vốn không nên bị hại mà lại bị. Tức là trong sự vô hình, bị người vu oan giá hoạ, bị hàm oan. Chú nầy hay phá trừ những cảnh bị oan uổng, cho nên nói « Phá các oan hại cứu quần sinh ».
« Dũng mãnh không sợ chế trùng độc » : Câu nầy lại dịch là « Dũng mãnh », « Không sợ », « Chế trùng độc ». Bất cứ rồng độc lợi hại như thế nào, Chú nầy sẽ chế phục được. Mỗi người đều có trùng độc, đều có rồng độc, đó tức là vô minh, phiền não và nóng giận, chẳng dễ gì khống chế được, trừ khi bạn có thủ đoạn hàng phục và năng lực phục hổ.
« Tam muội oai lực chuyển càn khôn » : Chú lực của Chú Lăng Nghiêm gọi là tam muội lực. Tam muội là chánh định chánh thọ, thứ oai lực nầy có thể quay chuyển càn khôn, người chết biến thành sống, khởi tử hồi sinh, cải biến tạo hoá.
« Tất cả tai nạn hoá cát tường » : Cho nên bất cứ việc hung hiểm gì, đều có thể biến thành cát tường.

       398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn.

          Dịch : Phá tất cả phi mạng.

          Kệ :

Phá nhất thiết nguy hiểm như di
Ý ngoại hoành hoạ tận tiêu nhị
Vô ngại hành trì chư Phật pháp
Ta Bà khổ hải độ mê chúng.

Nghĩa là:

Phá sạch hết tất cả nguy hiểm
Tai nạn hoành hoạ tiêu diệt hết
Vô ngại hành trì các Phật pháp
Ta Bà biển khổ độ chúng mê.

Giảng giải :  Tát Bà tức là « Tất cả », Đát Ma tức là « Đạt Ma », là pháp vậy. Đà Kê tức là « Vô ngại hành trì ». Câu Chú nầy phá tất cả phi mạng, có tai nạn gì đều giải trừ, ví như phi tai hoành hoạ, tai nạn xe hơi, tai nạn máy bay, xe lửa .v.v… đủ thứ tai nạn.
« Phá sạch hết tất cả nguy hiểm » : Phá tất cả nguy hiểm, vượt qua tất cả nguy hiểm. Vạn Phật Thánh Thành có rất nhiều người phát sinh tai nạn ở trên đường, nhưng không có ai bị thương, đây là phá tất cả nguy hiểm, ở trong hiểm nạn được bình an.
« Tai nạn hoành hoạ đều diệt hết » : Vốn phải có tai nạn, nhưng tiêu diệt hết.
« Vô ngại hành trì các Phật pháp » : Tụng Chú Lăng Nghiêm tức là vô ngại hành trì.
« Ta Bà biển khổ độ chúng mê » : Độ chúng sinh mê hoặc trong biển khổ thế giới Ta Bà. Chúng sinh ở thế giới nầy rất là kỳ quái, bạn càng nói thật với họ, thì họ càng không tin, vì quá thật. Trong Kinh Pháp Hoa nói rất nhiều lần : « Thôi thôi đừng nói, pháp của ta vi diệu khó nghĩ bàn ». Khi năm ngàn vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni rời khỏi, do oai đức thuyết pháp của Phật. Cho nên chúng ta ở đây nghe Kinh, có người cũng tự bỏ đi, cũng chẳng có gì lạ. Hoặc có người đến đây không nghe Kinh, cũng là chuyện rất bình thường. Phật nói pháp có năm ngàn người rời khỏi pháp hội, chúng ta ở đây chỉ mấy chục người, không là gì hết.
Bạn giảng pháp thật thì họ hoài nghi, bạn giảng pháp giả thì họ rất vui, con người như vậy đó, rất là kỳ quái. Tuy họ không nghe lời thật, nhưng tôi vẫn nói lời thật, thà người ta không nghe, tôi cũng phải nói thật, vì tôi không thể nói lời giả, tin hay không tin đều do bạn, nghe hay không nghe cũng do bạn, tôi làm việc cũng như thế, mỗi người đều có bổn phận, tôi làm hết trách nhiệm của tôi, tôi không màng tới người khác.
« Ta Bà biển khổ độ chúng mê » : Người mê lúc nào họ tỉnh mộng thì không mê, không tỉnh thì vẫn mê. Theo tôi đã mười mấy năm vẫn không hiểu chút Phật pháp nào, bạn thấy họ mê hay không mê ? Có người nói : « Chẳng phải con không hiểu Phật pháp, mà là Ngài không nói cho rõ ràng ». Không sai ! Tôi không nói rõ ràng, tôi không nói lời giả, cho nên họ nghe không hiểu.

399. Tát bà tỳ đà gia.

Dịch : Phá tất cả độc khí.

Kệ :

Tất cả độc khí hoá thanh lương
Quy y Chánh Giác đại từ hàng
Đăng thượng Bát Nhã thuyền đồng tế
Vĩnh đắc bất thối lộ đường đường.

Nghĩa là:

Tất cả khí độc hoá mát mẻ
Quy y Chánh Giác đấng đại từ
Lên thuyền Bát Nhã qua bờ kia
Chứng được bất thối hiện pháp thân.

Giảng giải : Tỳ Đà Gia tức là Phật Đà Gia, dịch là « Chánh Giác ». Tụng câu Chú nầy, thì có thể tiêu diệt tất cả độc khí, thường thường thành tâm tụng niệm Chú nầy, thì sẽ không bị đủ thứ độc khí, hơi độc làm hại. Cho nên nói : « Tất cả độc khí hoá mát mẻ », hoá mát mẻ tức là nhạt dần, chẳng còn nữa.
« Quy y Chánh Giác đấng đại từ » : Quy y Phật đấng Chánh Đẳng Giác, Phật giống như con thuyền đại từ.
« Lên thuyền Bát Nhã qua bờ kia » : Cùng nhau lên thuyền Bát Nhã trí huệ, đồng đến bờ trí huệ bên kia, đắc được trí huệ chân chánh rốt ráo bờ bên kia.
« Chứng được bất thối hiện pháp thân » : Đắc được niệm bất thối, không thối lùi nguyện của Bồ Tát. Vị bất thối, không thối lùi quả vị Bồ Tát. Hành bất thối, không thối lùi tu hành hạnh môn của Bồ Tát, hiển lộ ra pháp thân đường đường của bạn.

400. Ra thệ giá lê tệ phấn.

Kệ :

Y Pháp Vương giáo tu bồ đề
Lục độ vạn hạnh mạc hồ nghi
Sở tác dĩ biện ly hậu hữu
Siêu xuất tam giới thuỷ thán kỳ.

Nghĩa là:

Nghe lời Pháp Vương tu bồ đề
Sáu độ vạn hạnh chớ nghi ngờ
Hết thảy làm xong dứt luân hồi
Vượt thoát ba cõi mới là hay.

Giảng giải : Ra Thệ dịch là « Vương », Giá Lê dịch là « Sở hành », câu Chú nầy như câu ở trước là diệt độc khí.
« Nghe lời Pháp Vương tu bồ đề » : Chúng ta phải y theo lời dạy của Phật tu hành đạo bồ đề, đừng cố chấp cái thấy biết của mình, dùng tâm duyên lự của phàm phu chúng ta để đo lường Thánh nhân.
« Sáu độ vạn hạnh chớ nghi ngờ » : Tu hành là phải tu sáu độ vạn hạnh : Bố thí độ san tham, trì giới độ huỷ phạm, nhẫn nhục độ cang cường, tinh tấn độ giải đãi, thiền định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si. Tu hành đủ thứ vạn hạnh lợi tha, đừng có giống như hồ ly đa nghi không tin. Hồ ly đi trên băng, mỗi bước, mỗi bước, đều phải dùng tai lắng nghe. Tại sao ? Nó phải lắng nghe thử băng có tiếng gì không, nếu có, thì nó phải mau chạy trở lại, không dám tiếp tục đi nữa. Hồ ly thì đa nghi không tin như vậy. Chúng ta tu sáu độ vạn hạnh không thể hoài nghi không tin.
« Hết thảy làm xong dứt luân hồi » : Những gì cần làm chúng ta đều đã làm xong, sinh tử đã xong, không còn tái sinh nữa, liễu sinh thoát tử.
« Vượt thoát ba cõi mới la hay » : Nơi chúng ta đang ở, thuộc về dục giới, còn có trời sắc giới, trời vô sắc giới. Chúng sinh dục giới là do dục niệm mà sinh, cho nên do dục niệm mà chết, sinh vì dục, chết cũng vì dục, sinh tử do dục niệm chuyển tới chuyển lui. Dục rất là nhiễm ô, ở cõi trời sắc giới, dục ít hơn nhiều, nhưng vẫn còn chấp trước sắc tướng, chưa phá trừ được, chấp trước tướng mạo xinh đẹp xấu xí. Tóm lại, chấp trước tướng ta, nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng. Vô sắc giới thì chỉ có thức, không còn dục, cũng không còn sắc tướng, hình tướng, nhưng thức vẫn còn tồn tại, vẫn còn chấp trước, cho nên không thoát khỏi được ba cõi, vẫn phải thọ sinh tử.

Người tu đạo thì thoát khỏi được dục giới, sắc giới, vô sắc giới, lúc nầy mới biết đặc biệt kỳ quái, và hoàn toàn khác với chúng sinh trong ba cõi, chính mình cũng giống như Phật ba lần thốt lên : « Lành thay ! Lành thay ! Lành thay! Tất cả chúng sinh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc ! » 

No comments:

Post a Comment