Tôn chỉ dịch Chú
Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
Phiên dịch Kinh, Chú gồm có bốn
cách : Phương pháp phiên dịch Kinh Chú
có bốn nguyên tắc.
Thứ nhất : ‘’Âm
chữ đều dịch, như Kinh văn vậy.’’ Âm cũng dịch, chữ cũng dịch, tức là hết thảy tất cả Kinh
văn.
Thứ hai : ‘’Âm chữ đều không dịch, Kinh sách bằng
tiếng Phạn.’’ Âm là Phạn âm, chữ là chữ Phạn, tức là Kinh điển bằng Phạn văn.
Thứ ba :‘’Dịch âm
không dịch chữ, chữ vạn vậy.’’ Như chữ vạn chỉ dịch âm của nó.
Thứ tư : ‘’Dịch
chữ không dịch âm, các Chú ngữ vậy.’’ Dịch chữ thành văn tiếng Trung Hoa, nhưng
âm là âm tiếng Phạn. Tất cả các Chú đều là một loại này, dịch sang tiếng Anh cũng
giống nhau, chữ là chữ Anh văn, nhưng âm là âm tiếng Phạn. ‘’Kim Cang đệ tứ.’’
Bây giờ nói là loại thứ tư này, dịch chữ không dịch âm.
Lại có năm loại
không dịch :
1. ‘’Bí mật : Là
các Chú vậy‘’. Người khác không biết được, rất bí mật, làm sao có thể dịch. Chú
ngữ mà dịch ra, thì không còn bí mật nữa. Bí mật như thế nào ? Là trong một câu
bao hàm nhiều ý, rất nhiều sức lực, rất nhiều cách dùng cho nên không dịch.
2. ‘’Ða hàm Bạt
Già lục nghĩa.‘’ Một câu bao hàm rất nhiều ý nghĩa cho nên không dịch. Như
‘’Bát nhã‘’ gồm có văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, thật tướng Bát Nhã, có
ba ý nghĩa cho nên không dịch. Lại như Bạt Già Phạm có sáu nghĩa cho nên không
dịch. Sáu nghĩa là :
Thứ nhất : Tự tại,
tức là không nói dối. Khi nói dối thì tâm theo đuổi bên ngoài cho nên không được
tự tại.
Thứ hai : Xí thạnh
tức là quang minh xí thạnh, không phải là ngũ uẩn xí thạnh.
Thứ ba : Ðoan
nghiêm, đoan chánh oai nghiêm, trang nghiêm.
Thứ tư : Là danh
xưng.
Thứ năm : Là cát
tường.
Thứ sáu : Là tôn
quý.
3. ‘’Bổn vô. Như
Diêm Phù thụ.’’ Tại Trung Quốc vốn không có cây Diêm Phù, nếu dịch ra thì không
ai hiểu, cho nên giữ nguyên cây Diêm phù.
4. ‘’Thuận cổ.
Như A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.’’ Tức là cổ nhân dịch ra không sai. A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề, nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tôn trọng cổ
nhân phí nhiều tâm huyết dịch ra. Chúng ta không tiêu tân lập dị làm ra cái mới,
nói tôi giỏi hơn cổ nhân.
5. ‘’Sinh thiện.
Bát Nhã tôn trọng.’’ Hay sinh ra đủ thứ pháp lành, cho nên cũng không dịch. Bát
Nhã cũng sinh thiện, cũng không dịch. ‘’Kim thuộc đệ nhất.’’ Hiện thuộc đệ nhất
bí mật không dịch.
‘’Chánh mạch vân.
Hiển giáo.’’ Như thọ phương hiển thuyết. Mật Chú. Như thọ dược mật trị.’’ Kinh
cũng như toa thuốc, rất minh hiển. Mật Chú giống như liều thuốc, một liều thuốc
đó, trị chứng bệnh đó, đến thời tự nhiên có sức lực đó, bạn không dễ gì biết được
cho nên gọi là mật trị.
‘’Nghĩa khai tam
lực.
1. Lý pháp lực.’’ Dùng một chữ bao hàm vô biên diệu lý,
như nguyên hưởng lợi trinh.
2. Oai đức lực.
Tam bảo thần Thánh gọi là đức lực lớn, như thanh thế của vua thần.
3. ‘’Thực ngữ lực.’’
: Mật Chú có ba thứ lực.
A. Lý pháp lực :
Ðạo lý không có bờ mé, cho nên trong một chữ bao hàm vô lượng vô biên đạo lý vi
diệu. Như Kinh Dịch có nói ‘’Nguyên hưởng lợi trinh.’’ Bốn chữ, tức bao quát
trong bát quái
có rất nhiều nghĩa lý.
B. Oai đức lực :
Sợ oai đức đại chúng. Phật Pháp Tăng Tam Bảo thần Thánh, gọi là xưng phổ văn,
công đức cũng lớn, lực lượng cũng lớn, đủ đại oai đức. Giống như quốc vương đại
thần đủ thanh thế lớn.
C. Thực ngữ lực.
‘’Chân ngôn chú
nguyện. Siêu phàm nhập Thánh. Như chiếu sắc kế cực.’’ Chúng ta niệm chân ngôn
chú nguyện cho người, nói nguyện cho bạn được hết thảy cát tường, bình an. Vì ở
đây không có vọng ngôn, nên gọi là chân ngôn. Giống như chân ngôn trong bốn
mươi hai Thủ Nhãn đều là chú nguyện, như nguyện cho bạn siêu phàm nhập Thánh, sớm
thành Thánh quả. Chân ngôn lại như chiếu thư
hoặc sắc ngữ của hoàng đế, kêu bạn làm gì thì bạn làm cái đó. "Kế cực"
tức là thừa kế ngôi vua làm hoàng đế.
‘’Trường thủy diệc
vân. Tự cổ bất phiên. Lược có ngũ ý.’’ Trường Thủy Pháp Sư nói từ xưa không dịch
đại lược có năm ý nghĩa.
1.‘’ Chư Phật mật
ngữ, dư Thánh nan thông.’’ Những lời chư Phật nói, ngoài Thánh hiền ra, đều
không ai hiểu được.
2. ‘’Chư Phật mật
ấn, như vương ấn tín.’’ Tâm ấn bí mật của chư Phật, giống như ấn tín của vua.
3. ‘’Tổng trì
pháp môn, Bà Già lục nghĩa.’’ Hay tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, tức giống
như Bạt Già có sáu nghĩa.
4.‘’Quỷ thần
vương danh, Hồ sắc tự hộ.’’ Tên của quỷ thần vương, kêu chúng đến thủ hộ gia
trì.
5. ‘’Bất tư nghì
lực, xá tội thọ thức.’’ Tội nghiệp đều xá miễn, gọi chúng đến nhận chút chức vụ,
làm việc.
‘’Cô Sơn viết.
Chư Kinh mật Chú, liệt gia bất phiên.’’ Cô Sơn Pháp Sư nói chiếu theo quy cụ
chư Kinh mật Chú thì không nên dịch.
‘’Tự cô nhân sư,
đa hữu di thuyết, Thiên Thai hội chi, bất xuất tứ tất.’’ Tất cả các pháp sư thời
xưa đều thuyết pháp không giống nhau. Tông Thiên Thai tổng quát lại những sự
thuyết pháp không ra ngoài bốn tất đàn.
‘’Nhất vân Chú giả,
quỷ thần vương danh. Xưng kỳ vương hiệu, bộ lạc kính chủ, bất cảm vi phi, thử
thế giới hoan hỷ ích dã.’’ Trong Chú có tên các vua quỷ thần, như trong Chú
Lăng Nghiêm có nhiều tên các vua quỷ thần, như Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Già. Bạn xưng
tên đại quỷ vương, thì tiểu quỷ vì cung kính quỷ vương, cho nên không dám làm
càn, đều giữ quy cụ. Ðây là thế giới tất đàn. Khiến cho hết thảy mọi người trên
thế gian đều được ích lợi vui vẻ.
‘’Nhị vân Chú giả,
như quân trung mật hiệu, tương ưng vô sở ha vấn, không tương ưng tức chấp trị,
thị vi nhân sinh thiện ích dã.’’ Lại như trong quân đội, mỗi ngày đều có mệnh lệnh,
từ lệnh của quan phát ra, binh lính ở dưới đều biết. Ban đêm trên đường trở về,
nếu gặp nhau người không nhận ra liền hỏi mệnh lệnh. Hoặc đáp ‘’thiên‘’ hoặc
đáp ‘’địa.’’ Nếu đáp đúng thì chẳng có việc gì. Nếu trả lời sai thì sẽ có chuyện.
Bạn không thể hỏi kẻ khác mệnh lệnh là gì. Nếu bạn đáp đúng, thì không trách phạt
bạn. Nếu đáp không tương ưng, thì bắt bạn để trị tội. Ðây là vì sinh thiện ích
vậy.
‘’Tam vân Chú giả,
mật mặt già ác, dư vô thức giả, như tiện nhân bôn tha quốc. Tác xưng vương tử,
thê dĩ công chủ, đa sân nan sự, nhân lai phẩu minh, giả nhất kệ ngôn, mặc nhiên
tự hiết, tức đối ác trị phá ác ích vậy.’’ Bí mật của Chú hay tiêu trừ tội nghiệp,
nhưng người không biết, giống như kẻ địch trốn ra nước khác, lường gạt người
nói tôi là thái tử của nước nọ. Vua tin lời, bèn gả công chúa cho y, y là kẻ bần
cùng bỗng nhiên giàu có, ra vẻ ta đây, rất là sân hận, cái này cũng không đúng,
cái kia cũng không đúng. Khắp thân đều nóng giận, rất khó phục dịch. Có một người
biết lai lịch của y. Bèn giả mượn một bài kệ nói y. Bài kệ này trước đã nói
qua, nhưng mọi người đều quên mất, tôi làm lại một bài kệ :
‘’Không đức đi nước
khác
Lường gạt thảy mọi
người
Vốn là kẻ bần
cùng
Sao lại quá sân hận.’’
Không có đức hạnh
chạy đi đến nước khác, lường gạt hết thảy mọi người, bổn lai là một kẻ bần
cùng, hà tất quá sân hận. Ðọc bài kệ này cho y nghe, thì y liền lão thực, bảo
cho biết rằng mọi người đều biết bí mật của y, thì y không dám nóng giận, đây
là đối trị tập quán kẻ ác, làm cho chừa bỏ tập quán ác.
‘’Từ vân Chú giả,
chư Phật mật ngữ, duy Thánh nãi tri, như vương tác Tiên đà bà, nhứt danh tứ thực,
Diêm, thủy, khí, ngựa dã, quần hạ mạc nhiêu, duy trí thần tri. Chú kỳ nhất ngữ,
biến hữu chư lực, bệnh dũ tội diệt, sinh thiện hợp đạo, nhập lý đệ nhất
nghĩa.’’ Chú là ngôn ngữ bí mật của chư Phật. Chỉ có chư Phật mới biết đạo lý của
nó. Cũng như Quốc vương muốn Tiên đà bà. Tiên đà bà là gì ? Là muối, nước, khí,
ngựa, đều là Tiên đà bà. Vua muốn Tiên đà bà, thì chẳng ai biết vua muốn gì. Chỉ
có quan là người có trí huệ mới biết. Ví như lúc vua ăn cơm, thì muốn Tiên đà
bà, ông quan có trí liền biết là muốn muối, ăn cơm xong lại muốn Tiên đà bà, tức
là muốn nuớc rửa tay và xúc miệng. Khi vua muốn đi du hành thì muốn Tiên đà bà,
tức là ngựa, cho nên nói bốn thứ vật đồng một tên gọi. Muốn xem vua lúc nào muốn
gì, phải biết cơ. Cho nên nói chỉ có ông quan có trí mới biết. Chú cũng như thế,
một câu Chú có rất nhiều ý nghĩa. Quỷ thần đều biết. Chỉ có một câu Chú bao hàm
rất nhiều nghĩa lý, rất nhiều sức lực. Sức lực gì ? Là trị hết bệnh, giải độc,
tiêu trừ nghiệp chướng, còn có thể sinh thiện, hợp làm một với đạo. Khôi phục thiên lý vốn có.
‘’Chú cụ tứ ích,
diệc như thị dã.’’ Chú có đủ bốn điều ích lợi, cũng giống như Tiên đà bà, một lời
có đủ bốn nghĩa. Bốn điều lợi ích là đối trị tất đàn, phá ác tất đàn, nhập lý tất
đàn, sinh thiện tất đàn, như đã nói ở trên.
Chú Lăng Nghiêm rất
là hiếm có, là pháp hội khó gặp được. Nhưng các bạn tại đây nghe Chú Lăng
Nghiêm, một bên thì nghe, một bên thì ngủ, không những tự mình không đắc được
thọ dụng, còn người khác cũng ngồi đó khởi vọng
tưởng, đó là hành vi không cung kính pháp. Nếu như bạn học
pháp mà không nghe lời thầy, đó gọi là trộm pháp. Lúc bạn nghe pháp mà không
chú ý nghe, ngủ gục đó gọi là mạn pháp. Mạn pháp và trộm pháp đều không hợp
pháp, lúc các bạn nghe pháp, nghĩ muốn buồn ngủ, thì có thể trước khi đến nghe
uống ly cà phê, hoặc một ly trà, chớ đừng đến đây, chịu không được, rồi ngủ tại
đây, đánh cờ với Chu Công. Ðó là làm cho thời gian trôi qua không, bỏ mất cơ hội.
Bạn phải biết, bạn đến giảng đường này là vì pháp mà đến, không phải vì ngủ mà
đến, cũng không phải vì ăn mà đến. Tức nhiên vì pháp mà đến, thì phải được một
chút pháp, đừng làm tôi lãng phí nhiều khí lực, bạn nhập tam muội ngủ tại đó, rất
tự tại, rất đoan nghiêm, rất cát tường, cũng rất tôn quý, đều bao quát sáu
nghĩa Bạt già phạm, như vậy chẳng tốt chút nào. Cho nên tôi hy vọng những người
ngủ lúc nghe Kinh, thì hãy phấn chấn tinh thần lại, đừng ngủ nhiều như thế.
‘’Vu Khê vân, sơ viết. Quỷ thần vương
danh như Tỳ Xá Già, Cưu Bàn Trà, Yết La Ha Ðẳng. Hựu sơ hội Bà già đế đẳng.
Giai chư Phật Bồ Tát danh. Thử xử văn giả cảm kỳ ân. Hựu sơ hội mạt Bạt Xà La,
Thương yết la chế bà đẳng. Giai Kim Cang mật tích hiệu. Thử xử văn giả, úy kỳ
oai, giai hoan hỷ ích, hựu mỗi hội mạc, hoặc như quân trung mật lệnh, hoặc như
mật mặc già ác, hoặc thị chư Phật mật ngữ, vô phi dục linh văn trì tụng giả.
Hoan hỷ sinh thiện, diệt ác nhập lý nhi dĩ. Cố hiển mật thuyết, nghĩa lợi nhất
dã.’’ Vu Khê Pháp Sư nói, tên của các vua quỷ thần : Tỳ Xá Già, Cưu Bàn Trà tức
là quỷ ứng hình, Yết La Ha .v.v… đợi khi giảng đến Chú thì sẽ nói rõ. Lại đầu
sơ hội Bà già bà đế .v.v… đều là danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát, khiến cho người nghe đến cảm kích thâm ân của Phật
Bồ Tát. Lại cuối sơ hội Bạt đồ la, Thương yết la chế bà .vv… đều là tên của Kim
Cang Mật Tích. Khiến cho hết thảy thiên ma ngoại đạo, li mị nghe đến thì sanh
tâm kinh sợ, đó đều là những sự hoan hỷ ích lợi. Lại cuối mỗi hội, hoặc như mật
lệnh trong quân đội, hoặc trong sự tịch mặc che lấp sự xấu ác, hoặc là lời bí mật
của chư Phật, đâu chẳng phải là muốn cho người nghe Chú Lăng Nghiêm, người trì
tụng Chú Lăng Nghiêm hoan hỷ sinh thiện, tiêu trừ ác nghiệp, khôi phục lại bản
thể thiên lý. Cho nên hoặc hiển nói, hoặc mật nói, đều lợi ích chúng sinh như
nhau.
‘’Trường Thủy diệc viết. Ðát Ðiệt Tha
tiền. Chư cú Chú ngữ. Câu thị quy mạng chư Phật Bồ Tát Chúng hiền Thánh đẳng. Cập
tự Chú nguyện gia bị, ly chư ác quỷ bệnh đẳng chư nạn. Cú án tự hạ, phương thuyết
Chú tâm, nhiên thử tức thị bí mật Thủ Lăng Nghiêm dã, tự cổ bất phiên.’’ Trường
Thủy pháp sư nói ở trước Ðát Ðiệt Tha (trước tâm Chú) đều là quy mạng chư Phật,
Bồ Tát, hiền Thánh, hoặc là chú nguyện gia bị, viễn ly chư ác quỷ bệnh, ly khổ
đắc lạc .v.v… đến chữ Án mới nói tâm Chú. Tâm Chú này đều là bí mật của Thủ
Lăng Nghiêm đại định.
‘’Bổ Di vân.
Thánh địa mật ngữ, phàm khải năng giải túng phiên hoa ngôn, nghĩa diệc mạc
nhiêu, liệt như điển ngữ danh vật, vật thật bất dị, hậu nhân mạc tri. Kỳ do đại
vũ nhu Mao. Dĩ Triệu ngưu dương, thanh địch thanh chước. Dĩ triệu thủy tửu. Nhi
dong tục giả. Bất liễu thử vi hà ngữ. Hiển mật chi đàm, diệc nhược thử dã.’’
Trong Bổ Di nói mật ngữ tại địa vị Thánh nhân, chúng ta phàm phu tục tử làm sao
hiểu được ? Tuy nhiên lại phiên dịch
thành Hoa ngữ, cũng không thể hiểu được nghĩa lý của nó. Như điển ngữ, danh vật,
nhưng người sau nghe, chẳng biết chỉ cái gì ? Ðây giống
như người nói lời văn nhã, gọi bò là ‘’đại vũ‘’ gọi dê là ‘’nhu mao‘’;
nói ‘’thanh địch‘’ là chỉ nước, nói ‘’thanh chước‘’ là chỉ rượu. Người không có
học vấn thì không hiểu là nói cái gì ? Giống như bây giờ tôi nói ra bạn mới biết,
nếu tôi không giảng thì bạn cũng không biết đại vũ, nhu mao, thanh địch, thanh
chước là gì ? Nói các thứ hiển mật cũng giống như vậy.
‘’Thượng tự chư
giải bí mật bất phiên. Kim gia thích vân. Khảo chư cổ đức, diệc hữu phiên giả.
Tãn trúc pháp hộ, chánh pháp hoa trung, đà la ni Chú, phiên tự hựu phiên âm dã,
trì tâm phạm thiên sở vấn Kinh trung. Chú cú tự âm, diệc tịnh phiên dã.’’ Phần trước sở thuyết hết thảy đều
là nói dụng ý bí mật không dịch. Bây giờ lại có người nói cổ đức cũng có phiên
dịch Chú ngữ, như Trúc Pháp Hộ tôn giả trong Chú Chánh Pháp Hoa Ðà La Ni dịch
văn lại dịch âm. Lại trong Kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Chú Ngữ cũng đều
phiên dịch thành Hoa ngữ, bất quá bản dịch này không chánh thức lưu thông, do
đó rất ít người biết.
‘’Hựu ngũ bất phiên. Bạt già, phiên
Thánh tôn, Diêm phù, phiên thắng kim. A nậu bồ đề, phiên vô thượng giác. Bát
nhã, phiên trí huệ. Tích mật bất phiên, kim hà năng tri. Chí vu bí mật chư Chú.
Ðường, kim cang trí Tam Tạng, lược xuất niệm tụng trung. Phiên thích Chú ngữ, bất
không thượng sư, nhân vương bát nhã lý thú thích. Tống. Tam Tạng cầu ra. Thích
thần Chú tứ thập bát danh. Hiền Thủ quốc sư, giải Bát Nhã Chú. Tây thổ Long Thọ
Bồ Tát, trì minh tạng trung, thích Chuẩn Ðề Chú cập chư mật ngữ. Thủ hộ quốc chủ
Ðà la ni Kinh. Ðại Bi không trí. Nhứt tự đẳng Kinh. Phật dữ Bồ Tát. Thân miệng
tán thích tự chủng Chú ngữ. Niết bàn bát nhã. Hoa Nghiêm Kinh trung. Phật dữ Ca
Diếp, thiện hiện, chúng nghệ tri thức, giải thích tứ thập nhị tự mẫu nghĩa, tắc
tri chư bộ bí mật chân ngôn, diệc y mật tạng, khả phiên giải dã.’’ Lại trong
năm thứ không dịch. Bạt Già Phạm dịch là Thánh tôn, A nậu bồ đề dịch là vô thượng
giác, Bát nhã dịch là trí huệ, Diêm Phù dịch là thắng kim. Trước không dịch bây
giờ sao lại dịch ? Cho đến bí mật của các Chú vào đời Ðường có vị Tam Tạng Kim
Cang Trí lược ra có phiên dịch Chú ngữ trong niệm tụng nghĩa quy. Bất Không thượng
sư trong Nhân Vương Bát Nhã Lý Thú Thích cũng giải thích qua Chú ngữ. Lưu Tống
Tam Tạng Cầu Na tôn giả cũng phiên dịch thần Chú tứ thập bát danh. Quốc sư Hiền
Thủ cũng giải thích Chú Bát Nhã. Bồ Tát Long Thọ trong Trì Minh Tạng cũng giải
thích Chú Chuẩn Ðề và những bí mật của Chú. Trong Kinh Thủ Hộ Quốc Chủ Ðà La
Ni, Ðại Bi Không Trí .v.v… Phật và Bồ Tát tán thán và giải thích loại chữ của
Chú và lời lẽ ý nghĩa. Trong Kinh Niết Bàn, Kinh Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm, Phật
và Tổ Sư Ca Diếp, Tu Bồ Ðề tôn giả, chúng thế thiện tri thức cũng giải thích
nghĩa lý bốn mươi hai tự mẫu Hoa Nghiêm. Do đó biết rằng các bộ mật ngữ chân
ngôn y chiếu theo đạo lý mật tạng cũng có thể dịch.
‘’Kim Lăng Nghiêm
Chú. Ðát Ðiệt dĩ tiền. Ngũ hội chân ngôn. Án tự dĩ hậu, tài thị tâm Chú. Tịnh y
Ðường Tuần Châu Hoài dịch thích. Xuất đại tạng thâm tự hàm.’’ Cho nên
bây giờ Chú
Lăng Nghiêm cũng có phiên dịch. Chú Lăng Nghiêm trước ‘’Ðát Ðiệt Tha‘’
là chân ngôn năm hội (năm đệ). Từ sau chữ Án mới là tâm Chú. Bây giờ y chiếu
vào sự phiên dịch và giải thích của pháp sư Tuần Châu Hoài vào đời Ðường. Ðây
là xuất từ thâm tự hàm trong đại tạng Kinh.
‘’Thượng minh cổ
thế nguyên phiên, hạ hiển dịch thành đa ích. Nhược khai phiên ích, lược liệt có
nhị thập tứ.’’ Trước đã nói rõ dụng ý đời xưa vốn không dịch. Sau nói rõ chỗ
ích lợi của sự phiên dịch đại khái có hai mươi bốn thứ.
1. ‘’Tri chư Phật
hiệu, xưng thường tắc kiến Phật thân’’ : Biết được hết thảy danh hiệu của chư
Phật. Như trước có một đoạn đều là danh hiệu của chư Phật. Xưng tức thường thấy
thân Phật. Nếu bạn thường tụng Chú Lăng Nghiêm thì thường thấy được pháp thân của
chư Phật.
2. ‘’Tri bổn Tam
Bảo, trượng bằng oai đức gia trì’’ : Biết được Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Nhờ oai
đức để gia trì cho chúng ta.
3. ‘’Tri Kim Cang
Tướng, tà ma tân lai quy hàng’’ : Biết Kim Cang Tướng như Bạt Ðồ La, Thương Yết
La .v.v… Tất cả tà ma ngoại đạo đều đến quy hàng.
4. ‘’Tri quỷ thần
vương, Bộ đảng hồi hộ vô ương’’ : Vì bạn biết vua quỷ thần, thì bộ đảng dưới
quyền của chúng sẽ cung kính bạn.
5. ‘’Tri Phật
Chú, ngũ bộ đệ nhất tôn thắng’’ : Biết năm bộ, chính giữa là Phật bộ, Phật Tỳ
Lô Giá Na là chủ. Phương nam là Bảo bộ, Phật Bảo Sinh là chủ. Phương đông là Kim Cang bộ, cũng là A Súc bộ,
Phật A Súc, cũng là Phật
Dược Sư là chủ. Phương tây Liên Hoa bộ, Phật Di Ðà là
chủ. Phương Bắc là Yết Ma bộ, Phật Thành Tựu là chủ. Biết năm bộ Phật Chú là đệ
nhất Tôn Thánh, là tối diệu.
6. ‘’Tri đảnh
Chú, niệm thời chư Phật quán đảnh’’. Biết
đây là Phật đảnh quang minh Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Vô Thượng Thần Chú. Bạn
niệm Chú Lăng Nghiêm thì mười phương chư Phật đều đến quán đảnh cho bạn.
7. ‘’Thần Chú
linh thông cảm ứng nan tư’’ : Linh thông cảm ứng không thể nghĩ bàn.
8. ’’Minh Chú
sinh đại trí huệ quang minh’’ : Biết Chú thì sinh đại trí huệ, lại phóng đại
quang minh.
9. ‘’Tri Chú
vương nhứt thiết Chú trung tổng vương’’ : Biết Chú Lăng Nghiêm là vua trong tất
cả các Chú.
10. ‘’Tri Chú
tâm, tụng tức kiến tính minh tâm’’ : Biết
đoạn đó là tâm Chú, thường thường tụng niệm lại chuyên nhất, thì sẽ minh tâm kiến
tánh, khai đại trí huệ.
11. ‘’Chú Ấn. Ấn
tín phú quý vô vi’’ : Biết Chú ấn, tam pháp ấn, tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì
ít nhất trong bảy đời đều là người giàu có nhất trên đời.
12. ’’Chú quyết.
Biến hóa vạn vật mạc trắc.’’: Chú còn dịch là quyết. Thần thông của Chú biến
hóa khó dò. Có người nói tôi tụng Chú không phải vì cầu giàu có, bạn cầu thần
thông thì được thần thông, cầu khai ngộ thì được khai ngộ, cầu trí huệ thì được
trí huệ, tùy ý bạn. Không phải muốn dạy bạn nhất định cầu phú quý.
13. ‘’Chú nguyện.
Nhân quả tùy nguyện viên thành’’ : Muốn cầu gì, phát nguyện gì đều sẽ thành tựu.
14. ‘’Chú trớ,
tương yếu họa phước vô sai’’ : Bạn niệm Chú, nguyện khiến cho kẻ khác được phước,
thì người đó liền được phước. Nguyện người đó gặp họa, thì liền gặp họa, bất
quá đừng có tâm làm hại kẻ khác. Niệm Chú nguyện cho kẻ khác gặp họa thì không
đúng.
15. ‘’Chú chúc. Kỳ
đảo Phật thiên như hưởng’’ : Bạn cầu gì thì như tiếng vang tùy tâm mãn nguyện
không khác.
16. ‘’Chú pháp.
Phát khai trí biện vô ngại’’ : Chú pháp hay khai mở trí huệ của bạn, khiến cho
bạn được biện tài vô ngại.
17. ‘’Tri tự bổn.
Tam tạng văn tự căn bổn’’ : Biết nguồn gốc tiếng Phạn, đây là căn bản tam tạng
văn tự. Tam tạng là do Phạn văn phiên dịch ra.
18. ‘’Tri tự mẫu.
Hiển mật Thánh hiền tùng sinh’’ : Biết hết thảy Thánh hiền hiển giáo và mật
giáo đều từ tự mẫu sinh ra.
19. ‘’Tự nghĩa.
Hàm nhiếp vô biên lý thú’’ : Nghĩa lý của chữ là bao hàm nghĩa thú vô biên.
20. ‘’Tự chủng.
Nguyên vì chư Phật trí chủng’’ : Chữ Phạn nguyên là giống trí tuệ của chư Phật.
21. ‘’Tri Phạn
âm. Phật thiên tối tiên truyền xuất’’ : Biết âm của Chú là do Phật trời truyền
ra trước nhất.
22. ‘’Tri tổng
trì nhứt thiết pháp nghĩa tổng cai’’ : Hết thảy nghĩa lý của pháp đều nhiếp hết
thảy.
23. ‘’Tri chân
ngôn. Như sở thuyết bất khi’’ : Biết chân ngôn đều như sở nói, đều là chân thật,
không có một câu vọng ngữ.
24. ‘’Tri mật ngữ.
Quân lệnh Thánh chỉ vô duệ.’’ : Biết Chú
ngữ giống như mệnh lệnh trong quân đội, lại như Thánh chỉ của hoàng đế không
khác, không thể nói cho người khác biết.
‘’Tiền tứ. Cục ngữ
hội, hậu nhị thập, thông Chú tâm.’’ : Bốn hạng trước là giới hạn nơi năm hội
chân ngôn. Còn hai mươi hạng sau cũng bao quát tâm Chú trong đó.
‘’Thử tắc thống
thị tiền hậu Chú ích. Nhược phiên mạc hậu Chú tâm. Pháp ích hữu lục’’ : Ðây là
nói rõ tổng quát sự dịch Chú. Nếu phiên dịch tâm Chú có sáu thứ lợi ích.
1. ‘’Nhứt tự hàm
đa pháp nghĩa.’’ : Một chữ bao hàm rất nhiều nghĩa lý, lực lượng vô cùng vô tận,
oai đức vô lượng vô biên.
2.’’Hoa Phạn âm tự
viên thông.’’ : Chữ, âm đều phiên dịch thành Hoa văn (Hán ngữ), lại có Phạn
văn, đều biết cả hai, hổ tương ứng dụng, viên thông vô ngại.
3. ‘’Biểu hiển
tam tạng tam thập tâm.’’ : Tam tạng là Kinh, Luật và Luận.
4. ‘’Thị cai tam
hiền địa đẳng diệu.’’ : Tam hiền tức là thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng. Ðịa
tức là thập địa, đẳng tức là đẳng giác, diệu tức là diệu giác.
5. ‘’Hồi quy tam
thập thất Thánh.’’ : Tức là đã nói quả vị ở trước.
6. ‘’Kinh vĩ nhất
thiết tự mẫu.’’ Tự mẫu Phạn văn có ngang có dọc.
‘’Mật Bộ. Vấn :
Chân ngôn Phạn tự. Hà hữu như thị bất khả
tư nghì thần dụng
ích tướng. Ðáp : Thị chư Phật tâm thể cố, Pháp tính như thị cố. Nhứt
tự chân đa pháp nghĩa cố, Bồ Tát hạnh nguyện cố, bất tư nghì thần lực gia trì cố.’’
Trong bộ môn Mật Tông này có người hỏi : Chân ngôn chữ Phạn tại sao có sự diệu
dụng không thể nghĩ bàn như thế ? Có tướng trạng lợi ích như thế. Ðây là vì Chú
chữ Phạn là chân tâm bổn thể chư Phật, cho nên có thứ lực lượng không thể nghĩ
bàn. Lại vì bổn tánh của pháp có đại lực lượng như thế. Hơn nữa vì chư Phật Bồ
Tát phát những hạnh nguyện không thể dùng tâm suy xét, không thể dùng lời nói
bàn luận. Các bậc ấy dùng thần Chú để gia trì khiến cho bạn đắc được rất nhiều lợi
ích.
‘’Thử xuất phiên
dịch linh đắc đa ích như thị, hạ phục giới khuyến hành nhân. Vô đắc vọng đàm’’
: Ðây là nói phiên dịch có rất nhiều lợi ích. Phía dưới lại khuyên bạn từ từ tu
hành, đừng phạm giới luật, đừng vọng ngữ. Nếu không thì trì Chú sẽ không linh,
không thể tùy tiện ăn nói lảm nhảm bậy bạ, tạo thị phi, không nên nói những lời
không công bình.
‘’Hựu đà la ni
môn chư bộ yếu mục vân. Du già hội thuyết ngũ bộ. 1. Phật Bộ, Tỳ Lô vi chủ. 2.
Kim Cang Bộ, A Súc vi chủ. 3. Bảo Bộ, Bảo Sinh Phật vi chủ. 4. Liên Hoa Bộ, Di
Ðà vi chủ. 5. Yết Ma Bộ, Thành Tựu vi chủ’’ : Chính giữa, Phật Tỳ Lô Giá Na là
bộ chủ. Chính giữa thuộc về thổ, thạnh vượng bốn mùa. Cho nên Phật là khắp cùng pháp giới. Phương đông, Kim Cang Bộ
tức là Mật Tích Kim Cang, Phật A Súc là bộ chủ, tức Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư
Phật. Phương nam, Bảo Bộ, Phật Bảo Sinh là bộ chủ. Phương tây, Liên Hoa Bộ, Phật
Di Ðà là bộ chủ. Phương bắc, Yết Ma Bộ, Phật
Thành Tựu là bộ chủ.
‘’Ngũ bí mật tu hành niệm tụng nghĩa vân. Ngũ
bộ. Tức ngũ mật du già pháp môn, vị tiêu tai, tăng ích, hàng phục, quân triệu,
kính ái pháp dã. Kim thuộc Phật bộ. Tăng ích xuất thế pháp môn’’ : Có một quyển
sách gọi là bí mật tu hành niệm tụng nghĩa thức, tức là năm pháp môn Du già bí
mật. Trong năm pháp môn, có một môn thuộc Phật Bộ tức là tăng ích xuất thế pháp
môn.
‘’Tô Tất Ðịa Kinh
vân. Phiến Ðể Ca. Tiêu tai pháp. Bổ sắt chưng ca. Tăng ích pháp. A tỳ giá lỗ
ca. Hàng phục pháp. Thử tam bộ. Các hữu tam đẳng chân ngôn. 1. Thánh giả thuyết.
Chư Phật. Bồ Tát. Duyên giác. Thanh văn. Các vi Thánh giả chân ngôn. 2. Chư
thiên thuyết. Tùng tịnh cư thiên, nãi chí tam thập tam thiên, thị vi chư thiên
chân ngôn. 3. Ðịa cư thiên thuyết, Bát bộ thần vương, danh vi địa cư thiên chân
ngôn. Kim đương Phật Thánh, tăng ích bộ dã’’ : Trong Kinh Tô Tất Ðịa nói Phiến
Ðể Ca tức tiêu tai pháp môn. Bổ Sắt Chưng Ca tức tăng ích pháp môn. A Tỳ Giá Lỗ
Ca tức hàng phục pháp môn. Ba bộ này hợp lại có tam đẳng chơn ngôn.
1. Một loại chân
ngôn là pháp Thánh nhân nói tức là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, hết thảy
chư Bồ Tát, hết thảy Thanh Văn và Duyên Giác từ
bậc Thánh nói ra.
2. Chư Thiên nói
chân ngôn, bao quát từ trời Tịnh Cư cho đến trời Tam Thập Tam.
3. Ðịa Cư Thiên
chân ngôn, nhân gian cũng thuộc về địa cư thiên, đây là bao quát tám bộ vua quỷ
thần, thuộc về Phật bộ tăng ích pháp môn.
‘’Hội nghĩa vân.
Mật bộ hữu tam. 1. Phật Bộ. 2. Bồ Tát Bộ. 3. Quỷ Thần Bộ. Các luận thượng trung
hạ tam phẩm. Thành tựu tăng ích, danh thượng phẩm pháp. Nhương tai
nhiếp triệu, danh trung phẩm
pháp. Hàng phục, danh hạ phẩm
pháp.’’ : Thành tựu, tăng ích đây là hai thứ pháp thuộc về thượng phẩm pháp
môn. Nhương tai, nhiếp triệu là trung phẩm pháp môn. Nhiếp triệu tức là quân
triệu, tức là tập nã pháp. Tiêu tai tức là bạn có tai nạn gì, tụng Chú thì liền
tiêu trừ. Nhưng bạn còn phải trừ khử tai (nạn) trong tâm. Nếu bạn chỉ niệm Chú,
mà trong tâm cứ khởi những vọng niệm không trong sạch nào tạp niệm đầy dẫy thì
tai (nạn) căn bản không thể tiêu trừ được, niệm bất cứ Chú gì cũng vô dụng. Do
đó muốn tiêu tai thì trong tâm trước phải thanh tịnh, thu thập tâm cho sạch sẽ,
đó mới là chân tiêu tai. Nếu không, trong tâm đầy dẫy tham sân si, thì niệm Chú
gì cũng không linh. Do dó trong tâm là quan trọng nhất. Tâm nhất định phải từ
bi lương thiện, giúp đỡ mọi người, chỉ có một thứ tâm tốt. Ðây là tăng ích tiêu
tai pháp. Nhiếp triệu tức câu triệu pháp, giống như cảnh sát bắt tội phạm, yêu
ma quỷ quái làm việc ác, khiến cho người sinh bệnh, sinh tai nạn, khi bạn tụng
Chú thì yêu ma quỷ quái bò ra. Nhưng bò là bò ra, song có thời chúng không phục,
phải dùng đủ thứ phương pháp để giáo hóa chúng. Riêng hàng phục là pháp hạ đẳng.
Pháp thượng đẳng không dùng bất cứ thế lực nào, để đàn áp bức bách bất cứ ai,
và bất cứ yêu ma quỷ quái, không thể đấu tranh với chúng. Ðừng học A Tu La đấu
tranh kiên cố như thế. Tự mình biết rõ có một sức lực có thể hàng phục chúng,
cũng đừng dùng. Phải dùng đức hạnh để giáo hóa chúng, cảm hóa chúng.
‘’Thượng pháp hựu
tam. Vị hạnh nghi, quán pháp, nghiêm sở. Tam phẩm pháp dã. Thông dĩ vô thượng bồ
đề tâm vi chủ’’ : Bất cứ tu pháp gì, đều phải lấy bồ đề đạo tâm làm chủ, đại từ đại
bi, đại hỷ đại xả.
Không thể dùng đạo lực để áp bức bất cứ
ai, hoặc bất cứ yêu ma quỷ quái.
‘’Nhược vô sư
truyền. Tắc danh đạo pháp.’’ : Pháp phải có thầy truyền cho bạn. Nếu không có
thầy truyền pháp, tức gọi là ăn trộm pháp.
‘’Nhược vi hạnh
nghi, tắc chiêu ác báo.’’ Nếu bạn không tìm cách để tu pháp này, thì thiện thần
hộ Chú sẽ không vui vẻ.
‘’Nhược phạm
nghiêm sở chiếp dĩ công hiệu. Hướng tha nhân thuyết. Tịnh Phật bất tư nghì tứ tất
ích’’ : Nếu bạn thường nói với kẻ khác rằng, bạn trì Chú có linh cảm hiệu lực
gì, niệm Chú Ðại Bi trị được bệnh gì, niệm Chú Lăng Nghiêm lại đắc được cảm ứng
gì ? Ðó cũng giống như bán thuốc cao, đây gọi là rao bán sự tu hành, không
đúng. Nếu như thế thì sẽ gặp tai họa, cũng không đắc được sự lợi ích không nghĩ
bàn của bốn tất ích.
1. ‘’Diệu Tý Bồ
Tát Sở Vấn Kinh vân. Hành nhân nhược dục tốc tụng. Tốc đắc tất địa. Nghĩa lợi
thành tựu giả. Sở hữu nghi pháp. Bất đắc tiêm hào khuyết phạm. Sử giả ma chướng
nhi đắc kỳ tiện. Thị cố hành nhân, đương tâm trì tụng. Trường thời vô gian. Sử
quán tưởng chân ngôn tự chủng. Nhứt nhứt tinh thục, sự sự tương ưng. Phương
thành du già vô tác diệu hạnh’’ : Nếu người thực hành hy vọng tu pháp muốn mau
chóng đắc được lợi ích và thành tựu của Chú, thì các phương pháp tu hành không
được tơ hào khuyết phạm. Không thể không giữ quy cụ. Không thể cứ nghĩ đi lường
gạt người, đi chiếm tiện nghi của người, thì không được, như thế không những một
chút cảm ứng cũng không có, ngược lại sẽ
có tai họa. Nếu cứ khoe khoang công đức của mình, thì sẽ có sự sơ hở, ma liền
được tiện lợi, cũng giống như bạn có báu vật, không cất giữ nó, mà lại để ngoài
cửa thì nhất định bị người trộm đi. Cho nên tu Phật Pháp nhất định phải cẩn thận,
đừng để thiên ma ngoại đạo được tiện lợi. Phải từ từ trì tụng. Trì Chú phải giống
như mặc y, ăn cơm, ngủ nghỉ. Mỗi ngày không thể thiếu, phải lâu dài bền bỉ
không được gián đoạn. Quán tưởng chữ Phạn cũng phải nhứt nhứt tinh thục, mọi việc
phải tương ưng. Mỗi sự việc đều phải như pháp mới đắc được lực lượng không thể
nghĩ bàn, mới thành tựu được du già vô tác diệu hạnh.
‘’Hựu trì tụng giả,
bất đắc tâm duyên dị cảnh, dữ nhân tạp ngữ. Tụng nhược gián đoạn. Tất địa bất
thành’’ : Trong tâm đừng khởi vọng tưởng, nghĩ tưởng viễn vông, mơ những điều
không thể có hoặc là nói chuyện với người. Nếu bạn tụng Chú gián đoạn thì tất địa
không thành. Tất địa tức là tam muội.
‘’Hựu trì tụng bất
y nghi pháp, hoặc bất trì giới, hoặc bất thanh tịnh, phi duy pháp bất thành tựu
diệt đương chiêu tổn’’ : Nếu bạn không giữ quy cụ, không giữ giới luật, hoặc
trong tâm cứ khởi vọng tưởng nhiễm ô, thì không những tu pháp không thể thành tựu,
mà còn có họa của nó. Cho nên tu pháp Lăng Nghiêm phải đặc biệt chú ý. Thân miệng
ý ba nghiệp phải thanh tịnh mới tương ưng, không để tùy tiện nói thị phi, hoặc
khiến cho những người ở trong đạo tràng không được an lạc. Ðó là những điều
không thể được. Nhất định phải quản thúc hành vi của mình, đi đứng nằm ngồi
không rời khỏi nhà (tâm). Ðừng giặt đồ dơ thế người khác, phải từ từ chiếu cứ
chính mình.
‘’Bỉ Bộ minh
vương. Giai Phật Bồ Tát. Chung bất sân hại. Sở hữu đãi tùng thiên long. Mãnh độc
quỷ thần. Kiến kỳ quá cố. Tiện tức tổn hại’’ : Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ,
Bảo Bộ, Yết Ma Bộ. Bộ chủ đều là
minh vương, tức là Phật hoặc Bồ
Tát. Các bậc ấy có tâm đại từ bi, không tổn hại chúng sinh. Nhưng đó đều là hộ
pháp, thiên long, mãnh độc quỷ thần đều rất nóng giận. Mãnh quỷ ác thần thấy
người tu pháp có lỗi lầm, liền cho họ một chút tai hại, hoặc là cho họ nhiều sự
phiền não.
2.‘’Kim Cang Ðảnh
Du Già giáo giả, tu cụ trí huệ, minh liễu tam muội, cập chân ngôn pháp. Trụ Bồ
Tát giới, phát bồ đề tâm. Như thị công đức. Hứa nhập niệm tong’’: Phàm là người
tu Chú này, phải có đủ trí huệ, thấu rõ tất cả định và pháp nghiêm mật trong
Chú. Pháp ngôn ngữ trong Chú cũng phải biết. Nhất định phải giữ giới Bồ Tát
trong Kinh Phạm Võng, phát tâm bồ đề. Như thế thì có công đức trì giới và có
công đức phát bồ đề tâm, mới cho phép bạn tu pháp này.
3. ‘’Bồ Tát thiện
giới Kinh vân. Thọ trì thần Chú, ngũ bất đắc
vi. 1. Thực nhục. 2. Ẩm tửu.
3. Ngũ tân. 4. Dâm sự. 5. Tại bất
tịnh gia ẩm thực. Cụ thử ngũ giới. Năng đại lợi ích Chúng sinh. Năng trị ác thần độc bệnh’’ : Thọ trì tất cả thần Chú có năm
thứ không thể phạm. Ngũ tân tức là hành, hành tây, hẹ, tỏi, nén. Bất tịnh gia tức
là nhà đĩ điếm, hoặc là gia đình làm chuyện nhiễm ô. Nếu giữ được năm giới này
thì tu pháp nhất định được lợi ích lớn và còn lợi ích chúng sinh. Nếu giữ năm
giới này ăn nhầm nấm độc thì cũng không sao. Cho nên vị cư sĩ Tiêu ăn nhầm nấm
độc, chúng ta cầu cho y, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiển thần thông chữa khỏi. Ðó
là sự chứng minh.
4. ‘’Pháp Uyển
vân, đạo tục tụng trì, vô công hiệu giả, tự vô chí thành. Báng ngô vô chưng hoặc
văn tự ngụy thế, hoặc âm vận bất điển, hoặc ẩm tửu đạm nhục, hoặc tạp thực huân
tân, hoặc xúc thủ ô uế, hoặc lãng đàm tục ngữ, hoặc y phục bất tịnh, hoặc xứ sở
bất nghiêm. Bát chủng pháp giới. Chí
linh quỷ thần đắc tiện, phiên thọ kỳ ương’’ : Trong Pháp Uyển Châu Lâm nói là,
tại sao người xuất gia và người tại gia tụng trì Kinh Chú không công hiệu ? Vì
tâm không chí thành khẩn thiết. Tu mệt, tu mà cảm thấy không có cảm ứng gì, liền
bắt đầu phỉ báng, nói không có gì chứng minh, chẳng có linh nghiệm gì, nói Chú
này là giả, Kinh này là giả. Thực ra nguyên nhân trì Chú không linh là do văn tự
ngụy tạo thay thế, hoặc âm vần niệm sai, hoặc uống rượu ăn thịt, hoặc ăn ngũ
tân, hoặc đi đại tiểu tiện không rửa tay rồi cầm Kinh Chú, hoặc nói những lời
thế tục, không giữ quy cụ, nói chuyện thị phi, hoặc mặc y phục không sạch sẽ,
hoặc ở chỗ không nghiêm tịnh, phạm tám thứ giới pháp nói trên, khiến cho quỷ thần
không cung kính, không những không có công đức, ngược lại có lỗi lầm.
‘’Nhược dục hành trì. Mỗi tu táo dục.
Miệng thường hàm hương. Chí thành đoạn trọn, phổ vi lục thú, phát tâm phỉ giải.
Như thị chí ý. định nghiệm bất nghi’’: Nếu như bạn muốn tu pháp Chú Lăng
Nghiêm, thì phải tắm rửa, súc miệng sạch sẽ. Phải có tâm chí thành khẩn thiết,
thời thời khắc khắc không quên, khắp vì chúng sinh trong lục đạo, trời, người A
tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục mà phát tâm bồ đề, không lười biếng giải
đãi, chí thành khẩn thiết như thế thì nhất định sẽ có ứng nghiệm.
5. ‘’Hiển mật
viên thông vân. Kim Cang đảnh. Tô tất địa. Chuẩn Ðề Kinh đẳng. Giải thuyết hành
giả, dụng công trì tụng, hoặc mộng kiến chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng, thiên tướng
hoặc mộng kiến tự thân đằng
không. Thừa mã độ giang, chủng chủng hương quang, cập chư dị
tướng. Nhược đắc như thị ứng nghiệm, tắc tu sách phát tam nghiệp, gia công phủng
niệm, bất đắc tuyên thuyết Chú trung cảnh giới. Huyễn mại giữ nhân. Duy đồng đạo
giả. Bất vi danh lợi kính tán, phương đắc thuyết chi’’ : Trong hiển mật viên
thông nói, lúc bạn dụng công trì Chú, hoặc mộng thấy mình lạy Phật, mộng thấy
Phật phóng quang minh, mộng thấy Phật đến rờ đầu, mộng thấy Phật vì bạn mà giảng
Kinh thuyết pháp, hoặc mộng thấy Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Thánh Tăng, hoặc
Thiên tướng trên trời, hoặc đủ thứ khác nhau, xuất kỳ những dị tướng rất đặc
thù, hoặc mộng thấy thân mình bay lên hư không, hoặc cỡi ngựa qua sông, hoặc thấy
đủ loại hương thơm, quang minh tốt đẹp, đó là những cảnh giới tốt. Nếu đắc được
những ứng nghiệm như thế, thì tu thân miệng ý ba nghiệp phải cẩn thận, khiến
cho thanh tịnh, phát đại bồ đề tâm và dụng tâm trì Chú thêm, không thể tuyên
nói cảnh giới trong Chú. Không thể nói với người khác có bất cứ cảm ứng gì, kêu
người tin bạn, có hảo cảm với bạn, hoặc kêu người cung kính bạn, tán thán bạn,
những thứ đó đều không thể được. Chỉ đối với người đồng tu, đừng vì cung kính,
hoặc tán thán, mới có thể nói.
‘’Lục Ðại Bi Kinh
vân. Nhược nhân khẩn thiết niệm thời, hoặc phùng chủng chủng ma chướng. Hoặc hốt
nhiên phà bố. Thân tâm bất an, hoặc đa sân đa thùy, thiệt nan trì tụng. Hoặc kiến
chư dị tướng. Hoặc vu Chú nghi tâm, hoặc đa phân biệt tưởng, hoặc vô minh trước
hữu. Nhược đối trị giả. Ứng quan Phạn thư lam tự hoặc quán A tự bỉ hài cảnh tưởng. Tự nhiên tiêu diệt. Ðương tri nhân
duyên pháp bổn không dã.’’: Trong Kinh Ðại Bi có nói : Nếu có người khẩn thiết
niệm, thì hoặc gặp ma chướng, hoặc hốt nhiên sinh tâm sợ sệt, thân tâm bất an,
hoặc nhiều nóng giận, hoặc thích ngủ, hoặc đầu lưỡi không thể niệm, hoặc thấy
những diệu tướng yêu ma quỷ quái. Những dị tướng ở đây, với dị tướng ở trên
không giống nhau. Những dị tướng ở đây là những tướng xấu, những dị tướng ở
trên là những dị tướng cát tường. Hoặc là sinh tâm nghi hoặc với Chú Lăng
Nghiêm, hoặc tâm phân biệt, hoặc khởi vô minh chấp trước các hữu, bạn nhìn nghiệp
chướng của người như thế nào đều có. Bây giờ bạn niệm từ từ Chú này rất khó được.
Nếu có những cảnh giới không cát tường ở trên, thì nên quán tưởng Phạn thư chữ
Lam thì sẽ khiến bạn thanh tịnh, hoặc quán chữ A thì những cảnh giới không cát tường ở trên sẽ
tiêu diệt. Phải biết nhân duyên pháp vốn là không.
‘’Thượng giới sở
thuyết Kinh. Kim Kinh toạn cụ. Duy Khổng hốt lược. Cố trọng tường dẫn’’: Những
lời nói ở trên là khuyên người thực hành, trong Kinh đều đã nói qua. Chỉ sợ các
bạn lơ là, cho nên nói tỉ mỉ để mọi người rõ.
‘’Hạ chi ngũ hội chân ngôn. Tuy y cổ
đức phiên dịch, hậu lai dẫn truyền pháp giả, lâm Chú thuyết mặc tùy ý. Bất tất
cục định. Ứng giảng bất giảng. Khổng vân. Khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn. Thất
nhân. Bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn. Thất ngôn. Tri giả bất thất nhân. Diệt bất
thất ngôn. Thị cố Mạnh Tử. Hữu ngũ chủng giáo. Hữu ngũ bất đáp. Lăng Già Kinh
Trung, diệt tứ chủng thuyết. Mật Bộ bất phiên, vi thôi phục chư ma ngoại dã’’ :
Ngũ hội chân ngôn dưới đây, tuy nhiên y cứ cổ đức phiên dịch, hướng về người
tương lai truyền pháp, thì hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm trong tâm, bất tất phải
chấp trước. Ðiều nên nói thì bạn không nói, như dạy người tu hành như thế nào
thì bạn không nói, điều không nên nói thì bạn nói, như bạn nói đắc được cảnh giới
gì, sự linh nghiệm, khai ngộ chứng quả, thành Phật. Ðó là đại vọng ngữ, không
thể nói. Ðức Khổng Tử có nói :
‘’Lời có thể nói
với người,
mà không nói là lỗi
người.
Lời không thể
nói,
mà nói với người
là lỡ lời.’’
Người tri thức
nói những lời nói không thể sai lầm, cũng không thể nói bậy. Mạnh Tử cũng có
năm điều không trả lời. Bộ Mật không phiên dịch là vì điều phục thiên ma ngoại
đạo.
‘’Tiền lai khai
minh tam nghĩa. Giai vi pháp trung khẩn yếu. Ðặc vu Chú thủ. Dự biểu xuất chi’’
: Những gì nói ở trên là ba thứ ý nghĩa, rất quan trọng đối với sự tu pháp. Ðặc
biệt bây giờ là nói phần trước của Chú, phần sau là giải thích Chú.
‘’Chú thích phiên nhị. Tử tiên. Ngũ hội
chân ngôn. Sở dĩ hữu ngũ hội giả. Hiển mật viên thông vân. Tạng Kinh thần Chú.
Bất xuất ngũ Bộ. Nhứt. Phật Bộ. Vị chư Phật Chú. Nhị. Liên Hoa Bộ. Chư Bồ Tát
Chú. Tam. Kim Cang Bộ. Vị chư Kim Cang vương Chú. Tứ. Bảo Bộ. Vị Chư Thiên Chú.
Ngũ. Yết Ma Bộ. Chư Quỷ thần Chú. Tiền
đàn ốc trung. Ngũ Phật. Biểu ngũ Bộ chủ. Hựu ngũ Phật. Tức Phật Bộ. Quán Âm.
Liên Hoa Bồ Tát Bộ. Cang tạng. Kim Cang minh vương Bộ. Thích Phạn. Bảo Sinh Chư
Thiên Bộ. Tần na dạ ca. Yết Ma quỷ thần Bộ. Thử chi ngũ hội. Chư
ngũ bộ Chú. Tất tổng trì dã. Hựu hương hoa bát kính. Mỗi thập phương giả. Diệc Kim Cang đỉnh Du Già
Kinh trung. Thuyết thọ thập lục đại cúng dường pháp dã. Tựu phân vi ngũ’’ : Phật
bộ tức là Chú của chư Phật nói. Liên Hoa bộ tức là Chú của các Bồ Tát nói. Kim
Cang bộ tức là Chú của hết thảy Kim Cang Mật Tích. Bảo Bộ tức là Chú của Bảo
Sinh bộ, là Chú quản lý chư Thiên. Yết Ma bộ là Chú quản hết thảy các quỷ thần.
Phía trước nói về tất đàn, ba mật phải tương ưng, nói về sự biểu hiện năm Ðức
Phật bộ chủ.
‘’Sửu sơ. Ðệ nhất
hội chân ngôn’’ : ‘’Du già trung hữu tứ chủng niệm tụng. 1. Âm thanh niệm tụng.
Xuất thanh niệm dã. 2. Kim Cang niệm tụng. Hợp miệng mặc niệm. 3. Tam ma đề niệm.
Tâm niệm giả thị. 4. Chân thật nghĩa niệm, như tự tu hành. Hựu hoặc khai ngũ. 1. Xuất nhập tức tụng, tưởng
Chú tự ngữ. Tùy xuất nhập tức. Tức xuất tự xuất. Tức nhập tự nhập. Tự tự lãng
nhiên như quán minh châu. Tiền hậu vô gián. 2. Du già trì tụng. Tưởng tâm minh
luân. Nội ngoại phân minh, Chú tự thứ đệ.Tùng tiền hữu du. Chu bố luân duyên.
Chung nhi phục thủy. 3. Kim Cang trì tụng. Miệng trung vi vi mặc chuyển. 4. Vi
thanh trì tụng, tự tự phân minh xưng niệm. Ðán khiến tự nhĩ văn chi. 5. Cao
thanh trì tụng, khiến tha văn chi. Diệt ác sinh thiện, tường Kim Cang đỉnh. Ngũ
tự. Chuẩn Ðề đẳng Kinh’’ : Trong Du Già có bốn phương pháp tụng niệm :
1. Xuất thanh niệm
tụng.
2. Kim Cang niệm
tụng.
3. Tam ma đề niệm
tức là tâm niệm.
4. Chân thật
nghĩa niệm như tu hành theo chữ Phạn.
Lại có năm loại
pháp niệm tụng :
1. Xuất nhập tức
tụng pháp, nghĩ tưởng chữ Phạn, tùy hơi thở ra vào, thở ra chữ cũng ra, hít vào
chữ cũng vào, mỗi chữ đều niệm rõ ràng.
2. Du già trì tụng
pháp. Tưởng trong tâm có một vầng trăng, trong ngoài phân minh, chữ Phạn
theo thứ lớp từ trước hướng vòng qua bên phải, khắp hết một vòng rồi bắt đầu trở
lại.
3. Kim Cang trì tụng
pháp, niệm thầm trong miệng, nói không có âm thanh nhưng lại nghe được, nói có
âm thanh nhưng tựa như không có.
4. Vi thanh trì tụng pháp. Âm thanh rất nhỏ, mỗi chữ đều niệm
rõ ràng, trong tai chính mình cũng nghe rõ ràng, không phải niệm vội vàng lên
xuống, chính mình cũng không biết niệm hay không.
5. Cao thanh trì tụng pháp, là niệm lớn tiếng khiến cho người
khác nghe được, trong nghi Kim Cang đảnh niệm tụng, ngũ tự, Kinh Chuẩn Ðề .v.v…
có nói rõ ràng tỉ mỉ.
‘’Như ý bảo Kinh trung, Diệu trụ Bồ Tát vấn, trì thử tổng
trì vương chương cú, hà nhân bất kiến tam thế chư Phật. Phật ngôn. Dĩ vãng nghiệp
cố’’ : Định nghiệp đã tạo trong quá khứ nặng.
‘’Nghi vị đoạn cố’’ : Hoài nghi không có đoạn.
‘’Hữu vi tâm cố’’ : Dùng một thứ tâm tham lại cầu pháp.
‘’Vô phương tiện cố ’’: Niệm bất như pháp.
‘’Nhược năng tâm vô nghi hoặc, quyết định chuyên Chú, thị
danh chân thật trì giả’’: Nếu trong tâm không có nghi hoặc, nhất tâm chuyên chú
chữ Phạn, hoặc Phạn âm, thì đó là người chân thật tu Chú pháp.
‘’Hựu Diệu Tý Bồ Tát vấn, trì tụng chân ngôn, bất năng thành
quả, vi pháp lực vô năng gia’’ : Là pháp không có năng lực này chăng ?
‘’Sở tác phi thời gia’’ : Pháp sở tác không đúng thời chăng
?
‘’Chủng tính phi tính gia’’ : Hoặc là không có giống tánh Phật
chăng ?
‘’Chân ngôn khuyết lợi gia’’ : Chú không có lợi ích chăng ?
Là giả chăng ?
"Tu trì khinh mạn gia’’ : Ðối với Chú không cung kính
chăng ?
‘’Cúng dường bất cụ
gia’’ : Cúng dường thần Chú không viên mãn chăng ?
‘’Kim Cang thủ Bồ Tát đáp. Tu chân ngôn hành, cầu thành tựu
giả, ứng đương ly chư phiền não, khởi vu thâm tín, phát bồ đề tâm, trọng Phật
pháp Chúng’’ : Ðối với Phật Pháp Tăng đều phải tôn trọng.
‘’Viễn thập ác nghiệp’’ : Thân phải giữ giới không sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, ý phải trừ tham sân si, miệng đừng nói dối, nói thêu dệt, nói
hai lưỡi, chưởi mắng.
‘’Ly tà kiến võng’’ : Phải có tâm chánh tri chánh kiến, đừng
có tà kiến.
‘’Hành thập thiện pháp’’ : Không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không chửi
mắng, không tham, không sân, không si.
‘’Nhập đại mạn noa’’ : Nhập đại đạo tràng.
‘’Y A xà lê’’ : Thầy quy cụ mô phạm, y chỉ sư.
‘’Quyết chí dũng tấn‘’ : Có chí quả quyết.
‘’Sám hối túc chướng’’ : Sám hối nghiệp chướng đời quá khứ.
‘’Trợ bạn đồng hành’’: Giúp đỡ bạn lữ đồng tu.
‘’Cúng dường kiền khiết’’:
Cúng dường trai, thủy quả đều phải sạch sẽ.
‘’Chân ngôn vô hóa’’: Niệm phải chánh quyết.
‘’Kim bất như pháp’’ : Bây giờ bạn tu không như pháp.
‘’Khải ứng nghiệm gia’’ : Cho nên không ứng nghiệm.
‘’Hạ vân. Túng Kinh ẩm tửu đạm tân. Chủng chủng bất tịnh,
phá y vô đàn, Phật thiên bất tương vi quá’’ : Y áo không chỉnh tề, đội mũ không
thẳng, y khấu cũng không khấu, lại không có đạo tràng, tuy là như thế, Phật trời
cũng không cho rằng có lỗi.
‘’Thử giai Như Lai tùy cơ thuyết pháp, khiến đắc tứ tất ích
dã, bất khả nghi chấp, tự thành kỳ thất’’ : Nay được lợi ích bốn tất đàn, không
thể nghi hoặc, bằng không thì ngược lại có lỗi lầm.
No comments:
Post a Comment