Phật Ðảnh Quang Minh
Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Vô Thượng
Thần Chú
Ma Ha Tát Ðát Ða Bát Ðát La Vô Thượng
Thần Chú
Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
Ðệ nhất hội chân ngôn, gọi là Tỳ Lô Chân Pháp Hội. Nghĩa là
dưới hai mươi pháp môn mật ngôn đều một Tỳ Lô chân tâm pháp thân lưu diễn.
1. Nam mô tát đát tha.
Thích : Nam Mô hoặc là Na Mô, Nam Ma, dịch là : "Quy mạng"
hoặc là "tin theo", "kính y", "quy lễ", "độ
ngã". Tát Ðát Tha tức là "Tát lý phược". Phạn âm là "Xa thiết"
dịch là "Tất cả khắp cùng mười phương hư không pháp giới".
Kệ :
Quy mạng kính đầu nghĩa Nam Mô
Tam nghiệp thanh tịnh Tát Đát Tha
Phiền não bồ đề duy tâm hiện
Mê thời phàm phu giác Phật Đà.
Tạm dịch :
Quy mạng kính lễ nghĩa Nam Mô
Ba nghiệp thanh tịnh Tát Ðát Tha
Phiền não bồ đề do tâm hiện
Mê thì phàm phu giác là Phật.
Giảng giải : Niệm Chú thì trước hết niệm ‘’Khể thủ quang
minh đại Phật đảnh, Như lai vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm, nếu người chí tâm thường
trì tụng, tất cả sở cầu đều viên mãn.’’
Nam Mô nghĩa là cung kính, cũng có nghĩa là tin tưởng nhất,
không có tơ hào hoài nghi. Cho nên nói là quy mạng kính lễ. Ðem thân tâm tính mạng
đều quy y theo Phật, tức cũng là tín ngưỡng Phật không có điều kiện, biết Phật
sẽ độ mình, cho nên nói ‘’Quy mạng kính lễ nghĩa Nam Mô.’’ Nam Mô là tiếng Phạn,
nghĩa là quy mạng kính lễ, tức cũng tin theo, kính lễ.
‘’Ba nghiệp thanh tịnh Tát Ðát Tha.’’ Tát Ðát Tha là tiếng
Phạn, dịch là "tất cả". Tất cả này là bao quát thân miệng ý. Thân
không phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng không phạm nói dối, nói lời thêu dệt,
nói hai lưỡi, chửi mắng. Tâm thì không tham sân si. Thân miệng ý đều thanh tịnh
cho nên gọi là Tát Ðát Tha.
‘’Phiền não bồ đề do tâm hiện.’’ Phiền não và bồ đề như hai
mặt bàn tay. Mặt này là phiền não, chuyển qua tức là bồ đề. Ði trên con đường
sáng tức là bồ đề, đi trên con đường tối tăm tức phiền não. Cho nên nói duy tâm
sở hiện. Cũng giống như băng và nước, nước không thể là băng, mà băng không phải
nước, nước cũng không phải băng. Nhưng băng là từ nước mà thành, nuớc cũng do
băng mà thành. Cả hai tương nhân tương tập hổ tương vay mượn, lạnh thì nước biến
thành băng, nóng thì băng tan thành nước. Cũng vậy nếu hướng trên con đường
sáng mà đi, thì phiền não biến thành bồ đề, nếu hướng về con đường đen tối mà
đi, thì bồ đề cũng biến thành phiền não. Cũng như đạo lý nước và băng, xem bạn
làm như thế nào !
‘’Mê thì phàm phu giác là Phật.’’ Mê thì là phàm phu, giác tức là Phật. Phật là từ
chúng sinh mà thành, chẳng phải bổn lai là Phật. Chúng sinh đều có Phật tánh, bổn
lai là Phật, chỉ vì mê cho nên gọi là chúng sinh, nếu giác ngộ thì liền thành
Phật. Thiên đường, địa ngục, do một tâm niệm, một niệm giác thì địa ngục liền
biến thành thiên đàng, một niệm mê thì thiên đàng liền biến thành địa ngục. Cho
nên giác mê tại một tâm niệm. Một niệm giác thì chúng sinh là Phật, một niệm mê
thì bạn có thể thành Phật cũng còn là Chúng sinh. Giác là gì ? Tức là có đại
trí huệ không hồ đồ. Mê là gì ? Tức là người đại ngu si. Chỗ này mọi người phải
chú ý.
2. Tô già đa gia.
Kệ :
Vô lai vô khứ kính trung hoa
Phi không phi sắc thuỷ nguyệt tà
Ly trần tuyệt tướng hữu hà trụ
Đầu thượng an đầu Diễn Nhã Đạt.
Tạm dịch :
Không đến không đi hoa trong gương
Chẳng không chẳng sắc trăng dưới nước
Lìa trần bặc tướng có gì chấp
Ðầu lại thêm đầu Diễn Nhã Ðạt.
Giảng giải : Tô Già Ða Gia là "Như Lai". Sao gọi là Như lai ? Vì không có chỗ đến,
cũng không có chỗ đi, giống như đến, nhưng cũng giống như không đến. Cho nên
nói ‘’Không đến không đi hoa trong gương.’’ Cũng không từ đâu đến, cũng không
có chỗ để đi. Giống như hoa trong gương. Bạn nói hoa trong gương từ đâu đến, lại
đi về đâu ?
‘’Chẳng không chẳng
sắc trăng dưới nước.’’ Cũng chẳng phải không, cũng chẳng phải sắc, giống như
trăng dưới nước, không chân thật, chỉ là ảnh chiếu trong nước.
‘’Lìa trần bặc tướng
có gì chấp’’. Nên rời khỏi hết thảy mọi sự nhiễm ô. Trần tức là nhiễm ô, ‘’tuyệt
sắc‘’ thì không có chấp trước một hình tướng nào, có gì để chấp trước ? Chấp
trước gì cũng chẳng có. Vô tướng còn có gì để chấp trước?
‘’Ðầu lại thêm đầu
Diễn Nhã Ðạt.’’ Ðừng học theo Diễn Nhã Ðạt Ða. Diễn Nhã Ðạt Ða sáng dậy đi soi
gương thấy có một cái đầu, nói mình sao chẳng có đầu, liền chạy ra đường hỏi mọi
người rằng : ‘’Bạn thấy cái đầu của tôi chăng‘’? Mọi người cũng không hiểu ông
ta nói gì. Nếu bạn đầu lại thêm đầu, thì giống như Diễn Nhã Ðạt Ða, đừng điên đảo
si cuồng như thế.
3. A ra ha đế.
Kệ :
Ứng thọ nhân
thiên chân cúng dường
Chủng phước thực
huệ cảm toại thông
Nhân viên quả mãn
thành vạn hạnh
Thị tắc danh vi Đại
Giác Vương.
Tạm dịch :
Xứng đáng thọ nhận
trời người cúng
Trồng phước gieo
huệ toại như ý
Nhân đầy quả tròn
thành vạn hạnh
Cho nên xưng là
Vua Ðại Giác.
Giảng giải : A Ra
Ha Ðế là tiếng Phạn, dịch là "Ứng Cúng", tức là xứng đáng thọ lãnh sự
cúng dường của trời người.
’’Trồng phước
gieo huệ toại như ý.’’ Không luận là bạn trồng phước, trồng huệ, cầu trí huệ,
chỉ cần có tâm thành, thì sẽ đắc được, sẽ mãn tâm nguyện của bạn.
‘’Nhân tròn quả đầy
thành vạn hạnh.’’ Tu hành đến khi nhân tròn quả đầy, thì đầy đủ vạn hạnh.
‘’Cho nên xưng là
Vua Ðại Giác.’’ Tức là thành tựu Vua Ðại Giác, Ðại Giác Thế Tôn. Nếu bạn không
tin thì hãy thử xem.
4. Tam miệu tam bồ
đà toả.
Kệ :
Hư không pháp giới
quang minh tạng
Thập phương tam
thế đại Trí Tôn
Ngã kim quy mạng
chân thật tánh
Chánh biến tri
giác diệu pháp đường.
Tạm dịch :
Hư không pháp giới
quang minh tạng
Mười phương ba đời
đại Trí Tôn
Con nay quy mạng
chân thật tánh
Chánh Biến Tri
Giác diệu pháp đường.
Giảng giải : Tam
Miệu Tam Bồ Ðà dịch là "Chánh Biến Tri Giác". Toả dịch là "tận
hư không biến pháp giới". Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nhiếp hết
thảy. Cho nên bất cứ bạn giảng Phật Pháp như thế nào, cũng đều có đạo lý, bất tất
phải chấp trước, không có pháp cố định. Nghĩa chữ ‘’Toả‘’ này tức là vô tận vô
lượng thường trụ Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Câu này nghĩa là quy y Phật Bảo, quy y
mười phương ba đời tận hư không biến pháp giới vô tận Phật Bảo. Kệ nói ‘’Hư
không pháp giới quang minh tạng.’’ Phật ở trong tận hư không biến pháp giới tức
là đại quang minh tạng. Quang minh tức trí huệ. Cho nên nói ‘’Mười phương ba đời
Ðại Trí Tôn.’’ Ðại Trí Tôn tức là Phật. Phật tức là đại trí huệ.
‘’Con nay quy mạng
chân thật tánh.’’ Con nguyện quy mạng mười phương vô tận đại Phật đảnh chân thật
tánh.
‘’Chánh Biến Tri Giác
Diệu Pháp Ðường.’’ Diệu Pháp Ðường tức là đạo tràng của Phật. Sao lại nói là Diệu
Pháp Ðường ? Vì nó vô tận.
5. Nam mô tát đát tha.
Kệ :
Tín tùng Thánh giáo Lưỡng Túc Tôn
Nội thí ngoại thí hiệu Năng Nhân
Nhất thiết vô trước tức tự tại
Giải thoát tri kiến vô ngã nhân.
Tạm dịch :
Tin từ Thánh giáo đấng Lưỡng Túc
Trong thí ngoài thí hiệu Năng Nhân
Hết thảy không chấp tức tự tại
Giải thoát tri kiến không ta, người.
Giảng giải : Câu này lại là Nam Mô Tát Ðát Tha. ‘’Tin từ
Thánh giáo đấng Lưỡng Túc.’’ Nam mô tức là tin theo. Tin theo giáo pháp của Phật.
"Lưỡng Túc" tức là phước cũng tròn, mà huệ cũng đầy. Phước huệ đều
viên mãn.
‘’Trong thí ngoài thí hiệu Năng Nhân.’’ Phật xưa kia bố thí
nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu, mắt, tủy, não, không có vật gì mà Ngài
không bố thí. Ngoại tài là quốc gia, thành thị, vợ con. Không có vật gì mà Ngài
chẳng xả được. ‘’Năng Nhân‘’ tức là tên của Phật Thích Ca.
‘’Hết thảy vô trước tức tự tại.’’ Nếu bạn không chấp trước bất
cứ thứ gì, thì sẽ đắc được chân chánh tự tại. Nếu còn chấp trước thì không được
tự tại.
‘’Giải thoát tri kiến không ta, người.’’ Nếu bạn giải thoát
khỏi tri kiến, không chấp trước thì "cái ta" cũng không còn, mà
"tướng người" cũng chẳng tồn tại.
6. Phật đà cu tri
sắc ni sam.
Kệ :
Bách ức tướng hảo
trang nghiêm thân
Đại Phật đảnh thủ
mật linh văn
Nhược nhân thọ
trì cần tinh tấn
Quy y Pháp Bảo nhật
nhật tân.
Tạm dịch :
Trăm ức tướng tốt
trang nghiêm thân
Ðại Phật đảnh thủ
bí linh văn
Nếu người thọ trì
siêng tinh tấn
Quy y Pháp Bảo
ngày ngày mới.
Giảng giải : Phật
Ðà dịch là "Giác giả", là người giác ngộ. Giác gồm có tự giác, giác
tha, giác mãn. Tự giác là bậc nhị thừa, tự mình đã giác ngộ, khác với phàm phu.
Phàm phu thì không giác. Nhị thừa thì tự giác. Nhị thừa tức là Thanh Văn A La
Hán, Duyên Giác. Bậc Thanh Văn nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo, bậc Duyên
Giác tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo. Bậc nhị thừa là tự liễu hán. Chỉ biết tự
giác, không biết giác tha, không thể dùng pháp môn của mình tu giác ngộ đi giáo
hóa kẻ khác, khiến cho kẻ khác cũng giác ngộ. Bồ Tát và nhị thừa khác nhau. Bồ
Tát tự mình giác rồi, lại đi giáo hóa kẻ khác giác ngộ, nhưng chưa thể giác hạnh
viên mãn. Chỉ đang đi trên con đường tự độ độ tha, tự giác giác tha, tự lợi lợi
tha, chưa đến quả vị Phật. Phật và Bồ Tát khác nhau, Phật thì tự giác, lại giác
tha và giác hạnh viên mãn. Giác viên mãn, vạn hạnh cũng viên mãn. Cho nên ba
giác đầy, vạn đức đủ, cho nên xưng là Phật.
‘’Cu Tri‘’ là tiếng
Phạn, dịch là "Trăm ức". Trăm ức tướng tốt trang nghiêm là lúc tu
hành tại nhân địa. Cho nên :
‘’Tam kỳ tu phước
huệ,
Bách kiếp chủng
tướng hảo.’’
Có trăm ức tướng
tốt trang nghiêm thân tức là Phật.
‘’Ðại Phật đảnh
thủ bí linh văn.’’ Lăng Nghiêm gọi là linh văn, vì linh nghiệm không thể nghĩ
bàn, đây là hóa Phật trên đảnh của Phật diễn nói Thần Chú. Công năng và lực lượng
của Thần Chú đều không thể nghĩ bàn, phàm phu không thể biết được.
‘’Nếu người thọ
trì siêng tinh tấn.’’ Nếu như có người thọ trì Chú Lăng Nghiêm thì phải tinh tấn,
đừng giải đãi.
‘’Quy y Pháp Bảo
ngày ngày mới.’’ Quy y mười phương vô tận Pháp Bảo.
‘’SắcNi Sam‘’ tức
là Ðại Phật Ðảnh, tức là diệu pháp. Thứ nhất chúng ta phải quy y Phật Bảo, thứ
hai phải quy y Pháp Bảo.
7. Nam mô tát bà.
Kệ :
Cung kính nhất thiết Ma Ha Tát
Thanh tịnh phước điền bồ đề nhạ
Bồi dưỡng quán khái thường tinh tấn
Công viên quả mãn phó Long Hoa.
Tạm dịch :
Cung kính tất cả Ma Ha Tát
Ruộng phước thanh tịnh mầm bồ đề
Vun tưới tài bồi thường tinh tấn
Công đầy quả tròn dự Long Hoa.
Giảng giải : Nam Mô dịch là "quy y". Tát Bà dịch
là "tất cả".
‘’Cung kính tất cả Ma Ha Tát.’’ Quy y tất cả đại Bồ Tát. Ðại
Bồ Tát tức Hiền, Thánh, Tăng như Quán Thế Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền. Tất cả A La Hán cũng là hiền Thánh Tăng.
Hiền Thánh Tăng là phước điền, là ruộng phước thanh tịnh. Nếu cung kính tất cả
các Bồ Tát thì đã trồng phước báu, mầm Bồ Tát sẽ phát triển, còn phải thường tưới
nước, từ từ tài bồi, tức là thường tinh tấn.
‘’Công đầy quả
tròn dự Long Hoa.’’ Công đức viên mãn thì sẽ dự hội Long Hoa, tức là pháp hội
tương lai Phật Di Lặc sẽ thành Phật.
8. Bột đà bột địa.
Kệ :
Đại trịệt đại ngộ
đại trượng phu
Nhân thiên sư biểu
phước huệ túc
Nhân tu lục độ Ba
La Mật
Quả thành vạn hạnh
diệu giác như.
Tạm dịch :
Ðại triệt đại ngộ
đại trượng phu
Sư biểu trời người
đủ phước huệ
Do tu lục độ Ba
La Mật
Thành quả vạn hạnh
diệu giác như.
Giảng giải : Bột
Ðà tức là "Phật đà". Bột Ðịa tức là "Bồ Tát", dịch là giác
đạo.
‘’Ðại triệt đại
ngộ đại trượng phu.’’ Phật là đại trượng phu, đại triệt đại ngộ, cũng là sư biểu
của trời người, phước huệ đều đầy đủ.
‘’Do tu lục độ Ba
La Mật’’, làm thế nào để thành Phật ? Lúc tại nhân địa tu pháp bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ .v.v…
‘’Thành quả vạn hạnh
diệu giác như‘’, tại quả địa thì thành tựu vạn hạnh chứng được chân lý diệu
giác như như.
9. Tát đa bệ tệ.
Kệ :
Thượng cầu chư Phật
trí huệ đạo
Hạ hoá chúng sinh
đồng thể bi
Thiện trị điều phục
thân khẩu ý
Quảng giải thắng
thuyết tham sân si.
Tạm dịch :
Trên cầu trí huệ
của chư Phật
Dưới độ chúng
sanh đồng thể bi
Khéo trị điều phục
thân miệng ý
Rộng nói rành mạch
tham sân si.
Giảng giải : Tát
Ða, tức là "chúng sinh đại đạo tâm", cũng là Bồ Tát. Bệ Tệ, dịch là
"thiện trị", khéo trị thân miệng ý mao bệnh, cũng dịch là "điều
phục". Tóm lại nghĩa là tu hành trừ ác. Cho nên nói :
‘’Trên cầu trí huệ
của chư Phật,
Dưới độ chúng
sinh đồng thể bi.’’
Trên thì cầu trí
huệ đạo của chư Phật, dưới thì dùng đại bi để giáo hóa chúng sinh. Ðồng thể bi
tức là với chúng sinh là một.
‘’Khéo trị điều
phục thân miệng ý.’’ Lúc tu đạo thì không phạm giới, điều phục thân miệng ý, chẳng
làm ác.
‘’Rộng nói rành mạch
tham sân si.’’ Nói rõ cho chúng sinh biết sự tai hại của tham sân si là gì, nói
đi nói lại. Phần trước nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y hết thảy
mười phương hiền Thánh Tăng, quy y các đại Bồ Tát, chí tâm để thừa sự hiền
Thánh.
10. Nam mô tát đa nẩm.
Kệ :
Đại dũng mãnh giả đại đạo tâm
Do như liên hoa bất nhiễm trần
Trú dạ lục thời cần cảnh sách
Thường tại hoả lý luyện tinh kim.
Tạm dịch :
Bậc đại dũng mãnh đại đạo tâm
Ví như hoa sen chẳng dính bụi
Ngày đêm sáu thời siêng tinh tấn
Thường luyện vàng thật trong lò lửa.
Giảng giải : Nam Mô Tát Ða Nẩm là "quy y bậc đại dũng
mãnh". Ðại dũng mãnh là gì ? Là làm những gì người không dám làm, tu những
gì người không dám tu, đại hy sinh bậc nhất, không mong cầu sở đắc, cho nên gọi
là đại dũng mãnh. Hoặc dịch là "đại Khai Sĩ", tức là khai Phật tri kiến.
Là người giác ngộ đệ nhất ở nhân gian, còn gọi là "chúng sinh đại đạo
tâm". Cho nên nói : ‘’Bậc đại dũng mãnh đại đạo tâm’’, là thực hành những
gì người không thể thực hành, làm những gì người không thể làm, nhẫn những gì
người không thể nhẫn, nhường những gì người không thể nhường, người ở tại trần
thế mà tâm không ở tại trần thế. Giống như hoa sen mọc từ trong bùn ô nhiễm, mà
không bị bùn làm nhiễm ô. Ðại đạo tâm Bồ Tát này, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn,
ngày ba thời, đêm ba thời, không có thời khắc nào giải đãi, thời khắc siêng tu
giới định huệ, tức diệt tham sân si. Ngày đêm sáu thời, thời khắc tự cảnh tỉnh,
không phóng dật, không nói thị phi.
‘’Thường luyện vàng thật trong lò lửa.’’ Trong lửa mà luyện
vàng không phải dễ, thế giới Ta Bà giống như lò lửa, chúng ta đang luyện vàng
thật trong lò lửa.
11. Tam miệu tam bồ đà.
Kệ :
Thập phương tam thế nhất thiết Phật
Xả thân vì pháp tích công đức
Luỹ kiếp cung hành Bồ Tát đạo
Từ hổ cứu ưng cầu Đạt Ma.
Tạm dịch :
Mười phương ba đời hết thảy Phật
Xả thân vì pháp, tích công đức
Nhiều kiếp tu hành Bồ Tát đạo
Ðộ cọp cứu ưng cầu diệu pháp.
Giảng giải : Câu này nghĩa là "kính lễ mười phương ba đời
chư Phật", ‘’Xả thân vì pháp tích công đức.’’ Các bậc Bồ Tát tại nhân địa,
thì vì pháp mà xả thân.
‘’Nhiều kiếp tu hành Bồ Tát đạo.’’ Phật mà thành Phật, là vì
đời đời kiếp kiếp đều cung hành thực tiễn Bồ Tát đạo, lợi ích kẻ khác, không lợi
ích chính mình, cho nên nói : ‘’Ðộ cọp cứu ưng cầu diệu pháp.’’ Vì cầu pháp, vì
nửa câu kệ mà xả thân. Vì cầu pháp mà xả thân cứu hổ đói, xả thân cứu chim ưng.
12. Cu tri nẩm.
Kệ :
Bách ức Bồ Tát bách ức Phật
Thượng thủ Thánh chúng hộ hành giả
Chân tâm cầu pháp hằng bất thoái
Đương lai tất sinh Vô Ưu quốc.
Tạm dịch :
Trăm ức Bồ Tát trăm ức Phật
Thượng thủ Thánh chúng hộ người hành
Chân tâm cầu pháp luôn không lùi
Tương lai sẽ sinh nước Vô Ưu.
Giảng giải : Cu Tri dịch là "Trăm ức". Nẩm dịch là
"Thượng thủ". Cu Tri Nẩm tức là trăm ức Bồ Tát thượng thủ, trăm ức Phật
thượng thủ. Cho nên nói : ‘’Trăm ức Bồ Tát trăm ức Phật, thượng thủ Thánh chúng
hộ hành giả.’’ Hộ người tu hành.
‘’Chân tâm cầu pháp luôn không lùi.’’ Nếu thật vì pháp mà đến,
thì đâu có thì giờ mà nói thị phi, tạo phiền não, luôn luôn chiếu cứ, lo cho
chính mình. Nếu thật tâm cầu pháp, thì tinh tấn hướng về trước không thối chuyển.
‘’Tương lai sẽ sinh nước Vô Ưu.’’ Tương lai nhất định sẽ
sinh về cõi Phật, tức là thế giới Cực Lạc, hoặc thế giới Tịnh Lưu Ly, sống
chung với Phật.
13. Ta xá ra bà
ca.
Kệ :
Thâm sơn cùng cốc
tu đạo huyền
Vạn vật sinh diệt
Thập Nhị Duyên
Xuân hoa tự khai
thu diệp lạc
Khoát nhiên lãng
chiếu ngộ chân thuyên.
Tạm dịch :
Núi sâu rừng thẳm
tu đạo huyền
Vạn vật sanh diệt
mười hai duyên
Xuân hoa đua nở
thu lá rụng
Ðột nhiên sáng
chiếu giác ngộ ra.
Giảng giải : Ta
Xá Ra dịch là "Ðộc Giác". Bà Ca dịch là "Duyên Giác".
‘’Núi sâu rừng thẳm
tu đạo huyền.’’ Trong thâm sơn cùng cốc tu mười hai Nhân Duyên, tu đạo huyền diệu.
‘’Vạn vật sinh diệt
mười hai duyên.’’ Nhìn vạn vật tự sinh tự diệt, tu pháp mười hai nhân duyên :
Vô minh duyên hành, Hành duyên thức, Thức duyên danh sắc, Danh sắc duyên lục nhập,
Lục nhập duyên xúc, Xúc duyên thọ, Thọ duyên ái, Ái duyên thủ, Thủ duyên hữu, Hữu
duyên sinh, Sinh duyên lão tử.
Ðây là cửa thuận
sinh.
Vô minh diệt thì
hành diệt, Hành diệt thì thức diệt, Thức diệt thì danh sắc diệt, Danh sắc diệt
thì lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì xúc diệt, Xúc diệt thì thọ diệt, Thọ diệt
thì ái diệt, Ái diệt thì thủ diệt, Thủ diệt thì hữu diệt, Hữu diệt thì sinh diệt,
Sinh diệt thì lão tử diệt. Ðây là cửa hoàn diệt.
Các bậc ấy tu
pháp mười hai nhân duyên này, nghiên cứu pháp mười hai nhân duyên này.
‘’Xuân hoa đua nở
thu lá rụng.’’ Các vị ấy nhìn mùa xuân trăm hoa đua nở, mùa thu lá vàng rơi.
‘’Ðột nhiên sáng
chiếu giác ngộ ra.’’ Khoát nhiên khai ngộ. Khi có Phật xuất thế thì gọi là
Duyên Giác, không có Phật xuất thế gọi là Ðộc Giác.
14. Tăng già nẩm.
Kệ :
Bích Chi Ca La Tư
Đà Hàm
Độc Giác Duyên Giác
nghĩa thông kim
Chuyên tâm nhất
chí cần phất thức
Hữu học vô học
thượng thủ truyền.
Tạm dịch :
Bậc Bích Chi Phật
Tư Ðà Hàm
Ðộc Giác Duyên
Giác nghĩa đồng nhau
Chuyên tâm nhất
chí thường lau chùi
Thượng thủ hữu học
và vô học.
Giảng giải : Tăng
Già tức là "Người xuất gia". Nẩm tức là "thượng thủ", thượng
thủ bậc hữu học và vô học. Hữu học là từ sơ quả Tu Ðà Hoàn đến nhị quả Tư Ðà
Hàm, tam quả A Na Hàm gọi là bậc hữu học, chứng tứ quả A La Hán gọi là bậc vô học.
Nẩm có nghĩa là thượng thủ những bậc ấy.
‘’Bậc Bích Chi Phật
Tư Ðà Hàm.’’ Ý nghĩa Bích Chi Phật là Tư Ðà Hàm.
‘’Ðộc Giác, Duyên
Giác nghĩa đồng nhau.’’ Bậc ấy có thể nói là Ðộc Giác, cũng có thể nói là Duyên
Giác, có hai ý nghĩa. Có Phật xuất thế thì bậc ấy do tu mười hai Nhân Duyên mà
ngộ đạo, gọi là Duyên Giác, không có Phật xuất thế thì bậc ấy tu một mình trong
thâm sơn cùng cốc tự khai ngộ gọi là Ðộc Giác.
‘’Chuyên tâm nhất
chí thường lau chùi.’’ Bậc ấy chuyên tâm tu hành trong thâm sơn cùng cốc, thường
thường quét sạch hết mọi vọng tưởng.
‘’Thượng thủ hữu
học và vô học.’’ Thượng thủ đại A La Hán bậc hữu học, bậc vô học, Bích Chi Phật.
Sơ quả là bậc thấy đạo, đoạn tám mươi tám phẩm kiến hoặc, nhị quả, tam quả là bậc
tu đạo, tứ quả là bậc chứng đạo.
15. Nam mô lô kê
a la hán đa nẩm.
Kệ :
Ứng cúng sát tặc
kỵ vô sinh
Thế gian phước điền
tu lực canh
Tài bồi vô thượng
bồ đề quả
Hoặc tận chân thuần
Phật đạo thành.
Tạm dịch :
Ứng cúng, sát tặc
và vô sinh
Ruộng phước thế
gian cần phải làm
Vun bồi quả bồ đề
vô thượng
Hết hoặc thuần
chân thành Phật đạo.
Giảng giải : Lô
Kê dịch là "thế gian". A La Hán cũng là tiếng Phạn dịch là "Ứng
cúng", "sát tặc", "vô sinh", ba ý nghĩa. A La Hán là Tỳ
Kheo chứng quả. Nhân địa thì Tỳ Kheo nghĩa là khất sĩ, bố ma và phá ác. Chứng
quả thì thành A La Hán nghĩa là Ứng cúng, sát tặc và vô sinh. Ứng cúng nghĩa là
xứng đáng thọ lãnh sự cúng dường của trời người. Sát tặc tức là giết tặc phiền
não. Vô sinh tức là không còn thọ sinh tử nữa, đắc được vô sinh pháp nhẫn.
‘’Ruộng phước thế
gian cần phải làm.’’ A La Hán tức là phước điền Tăng của thế gian, tất cả chúng
sinh thế gian đều nên cúng dường A La Hán, nên gieo trồng ruộng phước, dùng sức
trồng trọt ruộng phước.
‘’Vun bồi quả bồ
đề vô thượng.’’ Bạn phải thường thường thêm nước mới có thể đắc được quả giác đạo.
‘’Hết hoặc thuần
chân thành Phật đạo.’’ Thô hoặc, tế hoặc, trần sa hoặc, đều đoạn sạch, thì tự
tánh thuần chân sẽ hiện ra liền thành Phật đạo.
16. Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
Kệ :
Kim nhập Thánh nhân pháp tánh lưu
Bội nghịch phàm phu lục trần du
Kiến hoặc đoạn trừ chứng sơ quả
Kế tục tinh tấn đại từ thuyền.
Tạm dịch :
Nay vào dòng Thánh nhân pháp tính
Ngược lại dòng phàm phu sáu trần
Dứt trừ kiến hoặc chứng sơ quả
Tiếp tục tinh tấn thuyền đại từ.
Giảng giải : Ðây là nói kính lễ sơ quả Tu Ðà Hoàn. Tô Lô Ða
tức là "nhập vào dòng Thánh nhân pháp tính", hợp với Thánh nhân mà
làm một.
Ba Na dịch là "nghịch" (ngược), ngược dòng phàm
phu sáu trần, không lưu chuyển trong sáu trần.
‘’Dứt trừ kiến hoặc chứng sơ quả.’’ Sơ quả Thánh nhân đoạn
tám mươi tám phẩm kiến hoặc, không phải tự mình nói tôi chứng được sơ quả, như
vậy thì không đúng. Chứng sơ quả Thánh nhân thì có thần thông, có thể không rời
bổn vị giáo hóa chúng sinh, đi thì chân không đụng đất, cho nên hết thảy trùng,
kiến, đều không thọ thương, nhậm vận không sát sinh, nhậm vận không phạm giới.
‘’Tiếp tục tinh tấn thuyền đại từ.’’ Nhưng còn phải tiếp tục
nỗ lực, tinh tấn tu hành, dùng nguyện lực thuyền đại từ để đến bờ bên kia.
17. Nam mô ta yết rị đà già di nẩm.
Kệ :
Danh nhất vãng lai thật bất lai
Tư hoặc đoạn tận toạ liên đài
Không trung thường hiện thập bát biến
Thử giới tha phương bách vạn cai.
Tạm dịch :
Gọi Nhất Vãng Lai mà Bất Lai
Tư hoặc đoạn sạch ngự đài sen
Không trung thường hiện mười tám biến
Du hí tự tại không chướng ngại.
Giảng giải : Câu này dịch là "Kính lễ bậc Nhất Vãng
Lai" tức là nhị quả Thánh nhân. Nghĩa là còn một lần sinh lên trời, một lần
sinh lại nhân gian, thì chứng quả A La Hán. Thực tế thì Bất Lai.
‘’Tư hoặc đoạn sạch ngự đài sen.’’ Sơ quả đoạn sạch tám mươi
tám phẩm kiến hoặc, nhị quả đoạn tám mươi mốt phẩm tư hoặc. Sơ quả, nhị quả,
tam quả, đều là bậc hữu học, chứng được tứ quả là bậc vô học, mới thật chân
chánh chấm dứt sinh tử, đắc được vô sinh pháp nhẫn, không thấy chút pháp sinh,
cũng không thấy chút pháp diệt. Kiến hoặc tức là đối cảnh khởi tham ái, đối trước
cảnh thì chấp trước mê hoặc, không biết sự việc như thế nào, cho nên sinh tâm
tham, tâm ái, thấy tiền bạc thì muốn được tiền bạc, thấy sắc đẹp thì muốn được
sắc đẹp, đó đều là ‘’kiến hoặc‘’ đều là thấy cảnh giới, không thấy thì không
mê, thấy được thì không làm chủ được, hồ đồ, bị cảnh giới chuyển. Tại cảnh giới,
hết thảy sự việc đến thì không nhận thức. Tư hoặc thì đối với lý không nhận thức,
bị mê hoặc, không biết là đúng, hay là không đúng, mê ở lý luận, cho nên đủ thứ
vọng tưởng bèn sinh ra, đây gọi là tư hoặc. Cho nên mê nơi lý khởi phân biệt,
càng phân biệt càng không minh bạch, càng không minh bạch càng phân biệt, hồ đồ
lại thêm hồ đồ, ngu si thêm ngu si, tư hoặc đoạn sạch thì ngự trên đài sen, ngồi
trên hoa sen báu.
‘’Không trung thường hiện mười tám biến.’’ Nhị quả Thánh
nhân có thể, thân vọt lên hư không hiện mười tám biến, trên thân phun nước, dưới
thân phun lửa, dưới thân phun nước, trên thân phun lửa, biến hóa lớn nhỏ bay đi
tự tại, muốn làm gì thì làm.
‘’Du hý tự tại không chướng ngại.’’ Bậc ấy không những ở tại
thế giới này, mà còn có thể đến các thế giới khác, có thể giảng Kinh thuyết
pháp tại thế giới này, giáo hóa chúng sinh, lại đến thế giới khác giảng Kinh
thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, đồng thời ở tại các thế giới đều hiện thân
thuyết pháp.
18. Nam mô lô kê tam miệu già đa nẩm.
Kệ :
Nhất thiết thế gian hiền Thánh Tăng
Chánh Đẳng Chánh Giác Đại Trí Tôn
Quy mạng đảnh lễ cầu nhiếp thọ
Viên mãn bồ đề bất giảm tăng.
Tạm dịch :
Tất cả hiền Thánh Tăng thế gian
Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đại trí
Quy mạng đảnh lễ cầu nhiếp thọ
Viên mãn bồ đề không tăng giảm.
Giảng giải : Tam Miệu dịch là "Chánh Đẳng",
"Tam Bồ Ðề" dịch là "Chánh Giác". Ðây là quy y tất cả Thánh
hiền Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cho nên nói quy y ‘’Tất cả hiền Thánh Tăng thế
gian.’’ Hiền Thánh Tăng tức Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Ðại Thế Chí, Bồ Tát Văn Thù,
Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Ðịa Tạng, các đại Bồ Tát.
‘’Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đại trí.’’ Ðây là những bậc đại
trí huệ.
‘’Quy mạng đảnh lễ cầu nhiếp thọ.’’ Thân tâm quy mạng đảnh lễ,
năm thể sát đất, cầu tất cả hiền Thánh Tăng, bậc đại trí huệ đến nhiếp thọ.
‘’Viên mãn bồ đề không tăng giảm.’’ Tương lai con cũng sẽ
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được viên mãn bồ đề, quả vị Phật, cũng
không tăng, cũng không giảm.
19. Tam miệu già ba ra.
Kệ :
Bất hoàn dục giới chứng Niết Bàn
Liễu tri vạn pháp triệt để nguyên
Vô thức vô tri thường thanh tịnh
Phi động phi tĩnh ly thuyết ngôn.
Tạm dịch :
Không lại dục giới chứng Niết Bàn
Thấu rõ triệt để gốc vạn pháp
Vô thức vô tri thường thanh tịnh
Chẳng động chẳng tĩnh bặc lời lẽ.
Giảng giải : Tam Miệu cũng là "Chánh đẳng". Già Ba
Ra dịch là "Bất hoàn", không trở lại dục giới, mà chứng được Niết Bàn
bờ bên kia.
‘’Thấu rõ triệt để gốc vạn pháp.’’ Sao các bậc ấy không trở
lại ? Vì các bậc ấy minh bạch tất cả vạn pháp, thấu triệt đáy nguồn của các
pháp, minh bạch gốc rễ của các pháp.
‘’Vô thức vô tri thường thanh tịnh.’’ Tại cảnh giới này cũng
không suy không nghĩ, chẳng có suy nghĩ gì, chẳng có phiền não gì hết.
‘’Chẳng động chẳng tĩnh bặc ngôn ngữ.’’ Cũng không động cũng
không tĩnh, cũng không có gì để nói.
20. Để ba đa na nẩm.
Kệ :
Chư Thiên thần tướng hộ pháp thành
Ngã kim kỳ thỉnh nguyện lai lâm
Thưởng thiện phạt ác tra công quá
Cẩn thận tu hành mạc hồ vân.
Tạm dịch :
Chư Thiên thần tướng hộ pháp thành
Nay con xin thỉnh nguyện lai lâm
Thưởng thiện phạt ác rất công bình
Cẩn thận tu hành
chớ lơ là.
Giảng giải : Ðể
Ba tức là "Trời", tất cả chư Thiên. Ða Na tức là "Bất lai",
không thọ sinh tử trong tam giới nữa. Ðây là nói tất cả chư Thiên có binh trời,
tướng trời, Thiên thần đến hộ pháp thành, hộ trì người tu hành trì Chú.
‘’Nay con xin thỉnh
nguyện lai lâm.‘’ Nay con niệm một câu Chú thì hộ pháp thần đều đến.
‘’Thưởng thiện phạt
ác rất công bình.’’ Chư Thiên thưởng thiện phạt ác tại nhân gian, thấy có công
thì thưởng cho bạn, có tội thì phạt bạn.
‘’Cẩn thận tu
hành chớ lơ là.’’ Do đó người tu đạo không thể ăn nói bậy bạ, tùy tiện nói, muốn
nói gì thì nói, tu hành phải kiểm điểm thân miệng ý. Thân miệng ý ba nghiệp
luôn luôn phải thanh tịnh.
21. Nam mô đề bà
ly sắt noả.
Kệ :
Đảnh lễ dục giới
sắc giới Thiên
Trường sinh cửu
thị luyện tiên đan
Ngũ khí triều
nguyên minh đại đạo
Cửu chuyển thuần
dương thọ vạn niên.
Tạm dịch :
Ðảnh lễ trời dục
giới sắc giới
Trường sanh bất
lão luyện tiên đan
Năm khí đầy đủ thấy
đại đạo
Tu lâu thuần
dương thọ vạn năm.
Giảng giải : Nam
Mô tức là "Quy mạng đảnh lễ". Ðề Bà dịch là "trời", Ly Sắt
Noả dịch là "sắc", tức là quy y chư Thiên chúng dục giới và sắc giới.
‘’Trường sanh bất
lão luyện tiên đan.’’ Chư Thiên trên trời đều nhận thấy rằng sinh về trời rất tốt,
nguyên lai trong quá khứ họ không biết có Phật Pháp Tăng, chỉ biết tu hành, tu
trường sinh bất lão, không muốn chết, chỗ này không giống trong Phật giáo.
Trong Phật giáo thì chứng quả, chứng quả A La Hán.
Sơ quả Tu Ðà Hoàn
là bậc thấy đạo, đoạn tám mươi tám phẩm kiến hoặc, tư hoặc chưa đoạn. Nhị quả
Tư Ðà Hàm và tam quả A Na Hàm là bậc tu đạo, đang tu đoạn kiến hoặc và tư hoặc.
Tứ quả tức là bậc chứng đạo, đoạn vô minh hiển pháp tính, thô hoặc, tế hoặc, trần
sa hoặc, đều đoạn sạch, mới không còn vọng tưởng, không còn vọng tưởng thô,
nhưng vi tế hoặc và vi tế vọng tưởng vẫn còn, quán sát vẫn không thấy được,
nhưng rõ ràng chưa đoạn sạch. Ðến Sơ địa Bồ Tát, Nhị địa cho đến Thập địa vẫn
chưa đoạn sạch, khi đến Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phần sinh tướng vô minh
chưa đoạn, cho nên chưa thành Phật. Người sinh về trời đều hy vọng trường sinh
bất lão, chấp giữ túi da hôi thối. Trong Phật giáo gọi họ là "thủ thi quỷ",
quỷ giữ thây chết, xả chẳng đặng thây chết, cho rằng túi da hôi thối này rất
quý báu, đằng không cũng mang đi, giá vân cũng mang đi, luôn luôn cùng với túi
da hôi thối, cho nên gọi là thủ thi quỷ (quỷ giữ thây chết). Ðương nhiên danh từ
‘’quỷ‘’ này không đẹp lắm, có thể sửa lại là "thủ thi than", bất quá,
túi da hôi thối này có thể giữ được mấy vạn năm rồi cũng sẽ hư hoại, đến thời sẽ
đọa lạc. Ðáo để luyện đan là luyện cái gì ? Có thuyết nói là ăn đàm, ăn nước
dãi, đó là những người không biết luyện đan, người thật hiểu là luyện tinh khí
thần, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, gì cũng chẳng
có, luyện hư hoàn không với hư không hợp mà làm một, rõ ràng họ còn chấp trước,
cho nên cảnh giới rất nhỏ, không phải toàn thể đại dụng, tức là họ chấp trước
đó là "đan", cũng như rồng chấp trước hạt châu của nó. Pháp môn luyện
đan, trong không lại sinh ra có, luyện đến luyện hư hóa không, chẳng phải là
luyện dễ dàng. Phải cần ngũ khí đầy đủ. Ngũ khí là gì ? Tức là : Kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ, tức cũng là : Tim, gan, tỳ, phổi, thận. Tim thuộc hỏa, gan thuộc mộc,
tỳ thuộc thổ, phổi thuộc kim, thận thuộc thủy. Tim là màu đỏ, gan là màu xanh,
tỳ là màu vàng, phổi là màu trắng, thận là màu đen. Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ
này, luyện đến viên mãn không thiếu không thừa, thì khôi phục lại bổn thể, đạt
được ngũ khí triều nguyên thì trong mỗi một khí, trong mỗi một hạnh, đều có đủ
ngũ hạnh và ngũ hạnh lại hợp mà làm một. Ngũ hạnh hợp thành một thì mới tập
trung được, đến được "thiên môn", liền được "tam hoa tụ đỉnh",
ngũ khí đầy đủ, bèn thành "thần tiên sống". Cho nên ngũ khí đầy đủ gọi
là "đại đạo", lúc đó thì có thần thông, bay đi tự tại. Ngoài thân có
thân tướng mà vô tướng.
‘’Tu lâu thuần
dương thọ vạn năm.’’ Tu lâu tức là tu hành trải qua lần này rồi lần khác, không
biết tu đã trải qua bao nhiêu lần, trở thành thuần dương không còn âm khí,
không còn đố kỵ, chướng ngại, phiền não, không còn tâm tham, tâm sân, tâm si.
Cho nên gọi là "hoạt tử nhân" (người sống như đã chết). Bạn nói người
ấy chết rồi chăng ? Người ấy vẫn còn hơi thở, bạn nói người ấy còn sống chăng ?
Người ấy không tham sân si, đố kỵ, chướng ngại, như những kẻ khác. Vì những thứ
đó đều là âm khí, nhưng mà thứ thuần dương này có chỗ bất đồng với Phật giáo,
được ít cho là đủ, không tiếp tục nỗ lực, phế bỏ giữa đường, có sự giới hạn, có
một cảnh giới, có sự chấp trước, còn chấp trước túi da hôi thối này, buông cũng
buông không được, xả cũng xả không xong, đi đến bất cứ nơi nào cũng phải mang
túi da hôi thối này, còn chưa được ‘’đồng thể với vạn vật, làm một với hư
không, chưa được vô lượng vô biên với pháp giới tính mà làm một, vì chưa thoát
khỏi luân hồi, chưa phá được chấp trước, thần thông dù lớn vẫn còn ngã tướng,
ngã chấp.’’
Chư Thiên, người
trời đều niệm Chú, Chú này một khi niệm thì có thể dời núi lấp biển, đem núi
phía bắc dời xuống phía nam, bưng quả núi lớn đem vào quả địa cầu như người
chơi banh, làm việc gì cũng đều làm được, biến hóa vô cùng, tự có hóa không, tự
không hóa có, mùa xuân biến thành mùa đông, mùa đông biến thành mùa xuân, vì do
sự tu hành của họ cũng có chỗ tốt và sự diệu dụng.
Mấy năm nay mọi
người nói, khí hậu thường thay đổi, đại khái là Thần Tiên trên trời biểu diễn
xem thần thông của họ lớn cỡ nào.
22. Nam mô tất đà gia.
Kệ :
Bổ Xứ tri túc thậm du nhàn
Vô tư vô lự vô quái khiên
Duyên thục hang sinh Ta Bà giới
Phổ hoá quần luân độ nam nữ.
Tạm dịch :
Bổ Xứ tri túc thường an lạc
Không suy không nghĩ không quái ngại
Duyên đến hàng sanh xuống Ta Bà
Giáo hóa quần sinh độ mọi loài.
Giảng giải : Tất Ðà Gia tức là "Trời Ðâu Suất", dịch
là Trời Tri Túc.
‘’Bổ xứ tri túc thường an lạc.’’ Cho nên tri túc thường lạc,
năng nhẫn tự an, vừa biết đủ vừa nhẫn nhục thì chẳng có phiền não. Ở trời Ðâu
Suất rất khoái lạc và yên tĩnh, du nhàn tự tại.
‘’Không suy không nghĩ không quái ngại.’’ Không suy nghĩ lo
lắng gì hết, tâm quá khứ không thể đắc được, tâm hiện tại không thể đắc được,
tâm vị lai không thể đắc được, ba tâm không thể đắc được, không lo không nghĩ
không quái ngại, bạn nói đó không phải rất thanh nhàn, rất khoái lạc, thì bạn
quá nhiều phiền não, do đó không vui sướng, vì bạn không nghĩ cái này thì tưởng
cái kia, tham cầu danh, tham không được thì sinh phiền não; tham cầu lợi, tham
không được thì sinh phiền não, tham cầu sắc đẹp, tham không được thì sinh phiền
não, tham cầu không biết đủ, tham mà không biết chán thì có nhiều phiền não.
‘’Duyên đến hàng sinh xuống Ta Bà.’’ Bổ Xứ chờ để hàng sanh.
Bổ xứ là gì ? Là nơi bổ làm Phật (trong tương lai), đợi thành Phật, đợi đến cơ
duyên thành thục thì hàng sanh xuống thế giới Ta Bà, đến thế giới kham nhẫn
này.
‘’Giáo hóa quần sinh độ mọi loài.’’ Giáo hóa khắp hết thảy
chúng sinh, hết thảy mọi loài. Cho nên Phật đang nghỉ ngơi tại cung trời Ðâu Suất;
nghỉ ngơi xong rồi sẽ hiện xuống nhân gian thành Phật, lúc đó sẽ có rất nhiều
việc làm, phải giáo hóa chúng sinh. Cho nên trời Ðâu Suất là nơi rất lý tưởng,
ai sinh về đó đều rất thanh nhàn tự tại, không cần làm mà vẫn có cơm ăn, áo mặc,
thọ nhiều người cúng dường.
23. Tỳ địa gia.
Kệ :
Tứ đại Thiên Vương sát thiện ác
Thống lãnh quỷ thần nhật tuần la
Hoạ phước vô môn nhân tự chiêu
Nhân quả tuần hoàn mạc quái tha.
Tạm dịch :
Tứ Ðại Thiên Vương xem thiện ác
Thống lãnh quỷ thần đi tuần tra
Họa phúc không cửa người tự chiêu
Nhân quả tuần hoàn đừng trách ai.
Giảng giải: Câu Chú này là nói về "Tứ Ðại Thiên
Vương", các vị đó thường đến xem xét nhân gian, ai làm thiện, ai làm ác, đều
ghi vào sổ, không những chỉ Tứ Ðại Thiên Vương đến canh tuần, mà các vị đó còn
thống lãnh rất nhiều quỷ thần, cũng đến tra xét thiện ác. Không những tra xét
việc thiện ác có hình tướng mà vô hình trong tâm của bạn khởi một niệm ác các vị
đó cũng đều biết. Bạn khởi một niệm thiện các vị đó cũng biết. Bạn khởi vọng tưởng
ác thì thọ quả báo ác. Bạn khởi vọng tưởng thiện, thì thọ quả báo thiện. Nhất cử
nhất động các vị đó đều biết.
‘’Thống lãnh quỷ thần đi tuần tra.’’ Các vị đó thống lãnh vô
số quỷ thần, không những ban ngày đi tra xét thiện ác, mà ban đêm cũng đi canh
tuần, bất cứ làm việc gì, các vị đó đều biết hết cho nên nói : ‘’Họa phước
không cửa người tự chiêu.’’ Gặp tai ương hoạn nạn, hoặc được phước, đều do mình
chiêu đến, họa cũng không có cửa, phước cũng chẳng có cửa, đều do mình chiêu đến,
làm thiện được phước, làm ác chiêu họa.
‘’Nhân quả tuần hoàn đừng trách ai.’’ Trồng nhân lành kết quả
lành, trồng nhân ác kết ác quả, tơ hào không sai. Cho nên nhất cử nhất động, nhất
ngôn nhất hạnh đều phải đặc biệt chú ý cẩn thận, đừng làm sai nhân quả, nếu làm
sai nhân quả rồi, đến khi thọ quả xấu, thì sẽ hối hận. Cho nên nhân quả là tuần
hoàn vô đoan, trồng nhân gì kết quả đó, đừng trách bất cứ ai, đó đều là do mình
tạo, cho nên nói :"Bồ Tát sợ nhân không sợ quả, chúng sinh sợ quả không sợ
nhân", trái ngược với nhau. Bồ Tát tại nhân địa thì hết sức cẩn thận,
không sai nhân quả, cho nên cũng không sai quả báo. Chúng sinh tại nhân địa thì
luôn luôn trồng nhân ác, đến khi thọ quả báo thì oán trời trách người, nói trời
không công đạo, người cũng không tốt, khiến tôi thọ khổ, mà không biết quả báo
đang thọ lãnh là do nhân quả trong quá khứ, cho nên nói ‘’đừng trách ai’’ đừng
than trời trách đất. Trên thế giới này nhất cử nhất động đều phải đặc biệt cẩn
thận, không nên không giữ quy cụ, một khi bạn sai nhân quả rồi, thì về sau sẽ
phải hối hận vô cùng.
24. Đà ra ly sắt noả.
Kệ :
Hoá Lạc thiên cung biến hoá kỳ
Tiêu dao tự tại thế gian hy
Y thực toại ý thích khả chỉ
Tức vô phiền não cánh vô bi.
Tạm dịch :
Cung Trời Hóa Lạc biến hóa kỳ
Tiêu dao tự tại thế gian hiếm
Mọi thứ toại ý thích vừa đủ
Tức không phiền não cũng không sầu.
Giảng giải : Ðà Ra là "Trời Hóa Lạc". Ly Sắt Noả tức
bao quát "Trời Quảng Quả".
‘’Cung Trời Hóa Lạc biến hóa kỳ.’’ Sự biến hóa của Trời Hóa
Lạc rất là kỳ quái.
‘’Tiêu dao tự tại thế gian hiếm.’’ Ở đó rất khoái lạc, tiêu
dao tự tại, việc gì cũng không cần làm, nghĩ y phục thì y phục đến, nghĩ cơm
thì cơm đến, nghĩ cái gì có cái đó, không thể so sánh sự tiêu dao tự tại ở đây
được, dù thời đại khoa học hiện nay máy điện toán gì, cũng so sánh không được với
pháp tự tại này.
‘’Mọi thứ toại ý thích vừa đủ.’’ Bạn cần y phục bao nhiêu
thì đến bấy nhiêu, không nhiều, cũng không ít, chỉ vừa đủ. Ăn cơm cũng như thế,
cơm đến cũng không nhiều, cũng không ít, chỉ vừa đủ bạn ăn. Cho nên nói là y thực
toại ý.
‘’Tức không phiền não cũng không sầu.’’ Trời Hóa Lạc chỉ thọ
diệu lạc chứ không có phiền não, không có sự đau khổ, tuy nhiên không có phiền
não ưu sầu như ở nhân gian, chỉ là khoái lạc, nhưng ở đây cũng chẳng phải là
nơi cứu kính, khi phước trời hưởng hết, thì sẽ đọa lạc. Khi năm tướng suy hiện
ra, thì thọ mạng cũng hết. Cho nên khi phước trời hưởng hết, thì vẫn còn khổ,
có thể đọa địa ngục, chuyển ngạ quỷ, làm súc sinh. Vì không cứu kính cho nên
trong Phật giáo không tu phước báo của cõi trời này.
Chú Lăng Nghiêm là Chú dài nhất, còn gọi là ‘’linh văn‘’ vì
quá linh, quá diệu, diệu không thể tả. Ai niệm thì người đó có cảm ứng. Ai trì
tụng thì người đó được Bồ Tát Kim Cang Tạng hộ trì. Cho nên bạn tu Chú này phải
chánh tâm thành ý, tu thân, cách vật. Cách vật là gì ? Tức là cách trừ hết thảy
vật dục, tức cũng là không có tâm tham, cách vật chí tri, chánh tâm thành ý, tu
thân tức trì Chú này, thì sẽ có đại cảm ứng. Có người không hiểu ý nghĩa của
Chú, cho nên nói Chú Lăng Nghiêm là do nhiều Chú nhỏ hợp thành, mới dài như thế,
thật không bằng trẻ con. Trẻ con có nói, cũng nói những lời đã nghe người lớn
nói rồi mới nói, không thể sai lợi hại như thế. Nếu nói Chú Lăng Nghiêm là do
nhiều Chú ngắn nối lại với nhau, thì những Chú ngắn đó là Chú gì ? Nếu bạn nói
không biết, sao lại nói là do nhiều Chú ngắn hợp thành ? Nói thẳng đó chẳng có
căn cứ, những Chú ngắn đó có tên chăng ? Nếu không có thì Chú này là ai nói,
cho đến tên cũng không có, thì còn nói Chú gì, cho nên thốt ra lời phải chịu
trách nhiệm, không thể tùy tiện nói.
Chú Lăng Nghiêm từ khi bắt đầu là quy y mười phương tận hư
không biến pháp giới hết thảy chư Phật, sau đó lại quy y mười phương tận hư
không biến pháp giới hết thảy chư Bồ Tát, kế đó lại quy y các bậc Thánh nhân sơ
quả, nhị quả, tam quả và tứ quả A La Hán, kế tiếp lại quy y chư Thiên. Quy y
chư Thiên này không phải phụng hành pháp của chư Thiên, chỉ là cung kính chư
Thiên, bổn lai người xuất gia không lễ bái ai, người xuất gia đáng thọ sự cúng
dường của chư Thiên, tại sao lại phải cung kính chư Thiên, chư Thiên lễ bái bạn
là vì bạn có đạo đức, có tu hành, bạn đừng nên có tâm cống cao ngã mạn nói, bạn
biết không ! Tất cả hộ pháp chư Thiên đều cúi đầu đảnh lễ tôi, không thể sinh
tâm cống cao ngã mạn như thế, phải cảm thấy chính mình chưa đủ đạo đức của mình
mới viên mãn, cũng phải xem có như không thật, như hư vọng. Mình có đạo đức mà
không chấp trước, bạn có học vấn chân thật cũng đừng tự mãn, như vậy mới là người
tu đạo. Cho nên người tu hành tụng trì Chú này cũng phải cung kính chư Thiên
thiện thần, không những cung kính thiện thần mà ác thần cũng phải cung kính. Phải
trừ khử cống cao ngã mạn của mình.
Cho nên chỗ lợi ích của sự trì Chú Lăng Nghiêm nói cũng nói
không hết. Tôi cũng không muốn nói cứu kính có diệu dụng gì, vì nếu tôi nói ra
thì các bạn tụng trì lại sinh ra một thứ tâm tham, tụng trì Chú Lăng Nghiêm sẽ
được diệu dụng gì. Như vậy thật chẳng phải muốn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, nếu bạn
thật muốn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, thì phải coi trọng Chú Lăng Nghiêm như ăn
cơm, mặc quần áo, ngủ nghỉ. Nếu chúng ta làm như thế, thì sẽ đắc được cảm ứng
gì, linh nghiệm gì, cũng đều không nghĩ đến, vì khi bạn nghĩ cũng là vọng tưởng,
chưa thành công sao lại vọng tưởng, giống như em bé mới sinh ra, ngồi không thể
ngồi được mà nghĩ muốn chạy, đi còn chưa được, làm sao chạy được. Tại sao em bé
lại nghĩ như thế ? Vì không hiểu, nhưng đến khi chạy được lại nghĩ muốn bay. Bạn
nói làm được chăng ? Vốn là việc không thể làm được sao lại phải nghĩ tưởng, lại
không phải là chim, cũng không có cánh mà muốn bay. Vọng tưởng này thật là quá
lớn, tụng trì Chú Lăng Nghiêm cũng như thế, tu hành là tu hành, đừng có tâm
mong cầu sở đắc, nói tôi nhất định phải như thế này, như bạn nói tôi nhất định
không chết, đến lúc chết vẫn phải chết, không có biện pháp nào tránh khỏi cái
chết. Cho nên ý nghĩ này chỉ là vọng tưởng, nếu bạn chân thật tu hành, chứng quả
rồi, chấm dứt sinh tử mới tính. Bạn muốn không chết thì không chết, mà chẳng phải
cứ nghĩ tưởng, tôi không chết, tôi không chết, tôi phải giữ gìn túi da hôi thối
này, giữ đi giữ lại, đến lúc còn đang nói hẹn gặp lại, thì ra đi hồi nào không
hay.
Chú Lăng Nghiêm là linh Chú, mỗi một câu có hiệu lực một
câu. Bạn đừng nghĩ, tôi trì Chú Lăng Nghiêm sao không có hiệu nghiệm gì, ăn cơm
hết đói là được, nghĩ muốn ăn một bữa cơm mà vĩnh viễn không đói là điều không
thể được. Ðến thời bạn vẫn phải ăn nữa, tụng trì Chú Lăng Nghiêm cũng như thế,
bạn tụng mỗi ngày, công không mất đi, lâu dần sẽ có công dụng của nó. Ông Tiêu
cư sĩ ăn nhầm nấm độc, trước đó không lâu còn bướng bỉnh ra vẻ thành thạo nói
người tụng Chú Lăng Nghiêm thì có hào quang, không biết y thấy ai có hào quang,
y tựa có vẻ như thành thạo lắm. Nếu ông ta thật hiểu thì không thể đi ăn nấm độc.
Tụng trì Chú Lăng Nghiêm thì có Kim Cang Tạng Bồ Tát thường
theo bạn hai bên để hộ trì bạn, đây là sự thật, nhưng lúc tụng Chú thì đừng loạn
khởi vọng tưởng, bằng không Bồ Tát Kim Cang Tạng nhìn thấy rằng bạn không có tiền
đồ gì hết, lãng phí thời gian của tôi, Bồ Tát hộ pháp sẽ sinh ghét, nổi nóng giận,
phải hết sức chú ý. Cho nên tụng trì Chú Lăng Nghiêm điều quan trọng nhất là
nghiêm trì giới luật. Nếu không trì giới luật, thì tụng cách nào cũng không
linh.
Nếu hay trì giới luật, không đố kỵ chướng ngại, không tham
sân si, thì tụng trì Chú Lăng Nghiêm sẽ có đại cảm ứng, đại lợi ích. Nói cho bạn
biết tụng trì Chú Lăng Nghiêm so với buôn bán vàng bạc còn kiếm được nhiều tiền
hơn, tụng một biến Chú Lăng Nghiêm thì giá trị bằng mấy vạn vạn ký vàng. Nhưng
đừng dùng tâm tham để tụng trì.
Tôi giảng Chú Lăng Nghiêm như vậy, cũng không thể nói là không
tốt, nhưng không khi nào có ai giảng như thế, giảng Chú Ðại Bi thì mỗi một câu
Chú, tôi làm một bài kệ bốn câu, để hình dung oai lực và công dụng của Chú,
song, bốn câu kệ giải thích một câu Chú cũng giải thích không hết. Vì diệu
nghĩa của Chú vô cùng vô tận, bốn câu kệ làm sao có thể nói hết được. Chỉ nói một
ít phần mà thôi, vì bốn câu kệ này rất dễ nhớ, từ cạn mà vào sâu, từ ít mà nhiều,
từ gần mà xa, thì dễ thâm nhập nghĩa lý của Chú. Bổn lai Chú không thể giảng,
cũng không thể giải thích, nhưng miễn cưỡng để giảng, tức cũng như bỏ đá thì thấy
ngọc.
Do đó, bây giờ giảng Chú Lăng Nghiêm, không màng tôi giảng
có ý nghĩa hay không, có đúng hay không, nhưng đó là từ trong tâm của tôi chảy
ra, cũng có thể nói là như máu huyết của tôi, mồ hôi của tôi, tôi dùng chân tâm
của tôi để giảng, hy vọng các bạn nghe qua rồi minh bạch và thấu hiểu ý nghĩa
chân chánh của Chú thâm sâu hơn, rộng hơn so với tôi, đó là ý của tôi. Cho nên
nói vứt bỏ đá tìm thấy ngọc, hy vọng trí huệ của bạn sẽ hiển lộ, thâm nhập Kinh
tạng, trí huệ như biển.
Người học Phật pháp thì nên học một hiểu mười, không phải
nói tôi hiểu rồi nhưng không biết áp dụng tu, phải thành thực tu hành, nếu bạn
biết mà không áp dụng tu hành thì chẳng có lợi ích gì. Cho nên tu hành thì phải
cước đạp thật địa, không thể bịt tai ăn cắp chuông. Mỗi câu Chú tôi làm một bài
kệ bốn câu cũng có thể nói là giới thiệu trí lực của tôi, giới thiệu tâm của
tôi, tôi dùng chân tâm để giảng Chú Lăng Nghiêm, hy vọng các bạn có thể minh bạch
một chút.
25. Xá ba noa.
Kệ :
Tha Hoá Tự Tại diệu vô cùng
Khoái lạc thao thao tối an ninh
Đạm bạc thiểu tham ly chư dục
Tích đức tu thiện kiêm lập công.
Tạm dịch :
Tha Hóa Tự Tại diệu vô cùng
Khoái lạc vô tận yên ổn nhất
Ðạm bạc ít tham lìa các dục
Tích đức tu thiện và lập công.
Giảng giải : Xá Ba Noa tức là "Trời Tha Hóa Tự Tại",
chư Thiên cõi trời này thọ diệu lạc thù thắng, cho nên không có sự khổ, tuy thọ
dục lạc, nhưng cảnh giới của họ vô cùng vô tận, dùng thần thông biến hóa của kẻ
khác, để trang nghiêm cung trời của mình.
‘’Khoái lạc vô tận yên ổn nhất.’’ Sự khoái lạc của họ như nước
chảy bất tận, chảy mãi không ngừng, chư Thiên cõi trời Tha Hóa Tự Tại yên ổn nhất,
đạn nguyên tử bắn cũng không đến, đạn hạt nhân, đạn quang tử (laser) cũng không
làm gì được, nhưng đó là trên trời, không phải tại nhân gian, phiền não gì cũng
chẳng có.
‘’Ðạm bạc ít tham lìa các dục.’’ Chư thiên cõi này không có
vọng tưởng, rất thanh cao đạm bạc biết đủ ít dục. Không tham bất cứ thứ gì, tiền
tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, địa ngục năm căn nầy đều đoạn hết.
‘’Tích đức tu thiện và lập công.’’ Họ lại chuyên tích đức,
tu thiện, lập công. Nhưng đa số đến cung trời rồi, thì hưởng thụ khoái lạc
không dễ gì tu đạo, trong Kinh cũng nói giàu sang thì khó học đạo, chỗ này có
thể nói khoái lạc khó tu đạo, con nguời mà khổ não thì mới phát bồ đề tâm,
khoái lạc thì tự do tự tại còn tu gì nữa, có người làm hoàng đế rồi thì không
còn muốn xuất gia nữa, thật là thua một nước cờ, nếu như không làm vua thì xuất
gia tốt hơn so với làm vua.
No comments:
Post a Comment