Từ câu 26 đến câu 50
Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
26. Yết ra ha.
Kệ :
Chư Thiên quyến thuộc chủng phước nhân
Đồng tu thiện đạo tác thắng than
Đương tri tư phi cứu kính lạc
Nhưng tu phát đại bồ đề tâm.
Tạm dịch :
Chư Thiên quyến thuộc trồng nhân lành
Ðồng tu thiện đạo kết duyên lành
Khoái lạc cõi trời chẳng rốt ráo
Phải sớm phát tâm đại bồ đề.
Giảng giải : Yết Ra Ha dịch là "Chúng sinh", nhưng
đây không phải là chúng sinh ở nhân gian, là quyến thuộc của chư thiên ở trên
trời, cho nên nói : ‘’Chư thiên quyến thuộc trồng nhân lành.’’ Chư thiên đều là
những người trồng phước trong quá khứ như cúng dường người xuất gia, hoặc lễ
bái Tam Bảo.
Sao chúng ta không có phước ? Vì trong quá khứ không gieo trồng
phước, xem tiền như thân mạng, xả bỏ không được, đều cảm thấy bố thí cho kẻ
khác thì mình thiếu ăn. Người bố thí cho mình đương nhiên là tốt nhất, nhưng
mình thì không chịu bố thí. Thế mà quyến thuộc của chư Thiên này chịu trồng phước.
‘’Ðồng tu thiện đạo kết duyên lành.’’ Trong quá khứ tại nhân
gian, cùng tu thiện đạo với nhau, cùng tu với nhau, trì giới, nhẫn nhục, thiền
định, tu đại trí huệ, cho nên hôm nay được làm quyến thuộc thù thắng.
‘’Khoái lạc cõi trời chẳng rốt ráo.’’ Chúng ta nên biết, sự
khoái lạc ở cõi trời chẳng phải là cứu kính. Khoái lạc cứu kính chỉ có thành Phật,
chấm dứt sinh tử, đắc được Niết Bàn cứu kính, mới là thật khoái lạc.
‘’Phải sớm phát tâm đại bồ đề.’’ Nếu muốn đắc được chân
chánh cứu kính khoái lạc, thì phải phát tâm đại bồ đề, từ từ tu Bồ Tát đạo, sau
đó mới viên mãn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó mới là khoái lạc cứu kính.
27. Ta ha ta ra
ma tha nẩm.
Kệ :
Tam thiên đại
thiên chư Thiên tiên
Nhẫn nhục tinh tấn
tu đạo kiền
Nhược Thánh nhược
phàm giai quy kính
Cống cao ngã mạn
tận trừ dật.
Tạm dịch :
Ba ngàn đại thiên
các Thiên tiên
Nhẫn nhục tinh tấn
rất kiền thành
Hoặc Thánh hay
phàm kính hết thảy
Cống cao ngã mạn
trừ khử sạch.
Giảng giải: Ta Ha
Ta Ra dịch là "Đại thiên nhẫn giới", tức là tam thiên đại thiên thế
giới kham nhẫn này.
‘’Ba ngàn đại
thiên các Thiên tiên.’’ Tất cả chư Thiên tiên trong tam thiên đại thiên thế giới
đều bao quát trong đó.
‘’Nhẫn nhục tinh
tấn rất kiền thành.’’ Trong quá khứ họ tu nhẫn nhục, tinh tấn, tu đạo rất kiền
thành. Chư Thiên cũng có Thánh nhân, cũng có phàm phu, chúng ta đối với họ đều
phải cung kính, tại sao ?
‘’Cống cao ngã mạn
trừ khử sạch.’’ Tu đạo việc cần nhất là đừng cống cao ngã mạn, mà phải tự hạ
mình xuống. Thái độ cống cao ngã mạn nhất định phải trừ, cho nên chúng ta tuy
nhiên là người xuất gia, làm sư biểu trời người, tốt nhất đừng tồn tại tâm cống
cao ngã mạn, phải trừ sạch, một khi có tâm cống cao ngã mạn thì không dễ tu
hành.
28. Nam mô bạt ra
ha ma ni.
Kệ :
Ly cấu thanh tịnh
đại Phạm Thiên
Oai đức lẫm lẫm
thậm trang nghiêm
Bà La Môn giáo vi
tông chủ
Thiểu dục tri túc tự an nhiên.
Tạm dịch :
Lìa dơ thanh tịnh Ðại Phạm Thiên
Oai đức lẫm liệt rất trang nghiêm
Làm tông chủ Bà La Môn giáo
Ít dục biết đủ tự an nhiên.
Giảng giải : Câu này là "Quy kính đảnh lễ Ðại Phạm
Thiên Vương và Ðại Phạm Thiên chúng". Ðại Phạm Thiên chúng dịch là "Hảo
ly cấu". Lìa khỏi tất cả nhiễm ô, tu phạm hạnh thanh tịnh.
‘’Lìa dơ thanh tịnh Ðại Phạm Thiên.’’ Vì họ tu trì phạm hạnh
thanh tịnh, giữ giới luật cho nên có oai đức lẫm liệt, rất trang nghiêm tự tại.
‘’Làm tông chủ Bà La Môn giáo.’’ Bà La Môn giáo tôn Ðại Phạm
Thiên Vương là giáo chủ của họ.
‘’Ít dục biết đủ tự an nhiên.’’ Họ luôn luôn thiểu dục tri
túc, chẳng tham gì, cũng không cầu gì, cho nên tri túc thường lạc, họ đều luôn
luôn khoái lạc, không có phiền não.
Chú Lăng Nghiêm bắt đầu từ câu thứ nhất ‘’Nam Mô Tát Ðát Tha
Tô Già Ða Gia ’’ đến ‘’Nam Mô Nhân Ðà La Gia‘’ có 29 câu. Hai mươi chín câu
này, chúng ta người tu đạo phải quy mạng đảnh lễ hết thảy chư Phật, Bồ Tát, A
La Hán, Thánh hiền, Thiên, tiên .v.v... Hai mươi chín câu Chú này, một khi niệm
ra thì sẽ xuất hiện một cảnh giới, có thể nói cảnh giới này vốn là thật, cũng
có thể nói là huyễn. Tại sao ? Vì tất cả thiên ma ngoại đạo nhìn cảnh giới này
thì là thật, người tu đạo thì tự mình biết. Ðây đều là do thần lực của Chú hiện
ra chứ không phải chính mình, là sức lực của tam muội, là sức lực của Chú. Cho
nên cũng có thể nói là huyễn, tụng trì hai mươi chín câu Chú này, thì sẽ hiện
ra cảnh giới như sau : Hành giả hiện một thứ thân pháp, bốn mặt tám phương có rất
nhiều, rất nhiều hoa sen đỏ đến ủng hộ người trì Chú này, cho nên nói : ‘’Ngàn
đóa sen đỏ hộ người trì.’’ Nếu bạn đầy đủ tâm thành, thì nhiều hơn nữa không chỉ
ngàn đóa thôi. ‘’Ngồi cỡi con kỳ lân đen‘’ lúc này chỗ ngồi không phải là máy
bay, không phải là xe lửa, cũng không phải là xe buýt, mà là con kỳ lân, vì có
oai đức tướng hiện ra, cho nên yêu ma quỷ quái thấy thì phải chạy xa.
Vào thời nhà Tống, Tế Ðiên tức là Tế Công hòa thượng, thường
thường dùng đoạn Chú này để hàng phục thiên ma, khống chế các ngoại đạo rất
linh nghiệm cảm ứng. Do đó, chúng ta học Chú Lăng Nghiêm phải biết sự diệu dụng
của Chú, đoạn Chú Lăng Nghiêm này là pháp khuất phục, khi bạn tụng Chú này, thì
bàn môn tả đạo, ma quỷ tà thần, đều không dám tác quái, đều lão thực.
29. Nam mô nhân đà la gia.
Kệ :
Thiên chủ chân thần Nhân Đà La
Vi thật thí quyền đại Bồ Tát
Tích thiện tu phước hành lục độ
Thích Phạm Thánh chúng tôn trọng tha.
Tạm dịch :
Thiên chúa chân thần Nhân Ðà La
Chân thật thí quyền đại Bồ Tát
Tích thiện tu phước hành lục độ
Thích Phạm Thánh chúng đều tôn trọng.
Giảng giải : Câu này là nói chúng ta phải "Quy y thiên
chủ" (chủ chư Thiên), nhân gian thì có nhân chủ (ông vua), đất đai thì có
địa chủ (chủ cai quản đất đai). Thiên địa nhân đều có chủ, địa chủ tức là địa
chủ công (thần thổ địa).
Tại Trung Quốc tỉnh Quảng Ðông có phong tục, là mỗi nhà đều
cúng thổ địa, và có thần xã tắc, thổ địa thành hoàng, thổ địa là dương trong
âm, quản đất đai tức là quản việc âm gian, âm gian tức là thế giới của loài quỷ,
dương gian là thế giới của loài người. Thế giới của loài quỷ thuộc âm, nhưng thần
thổ địa quản loài quỷ là dương trong âm, thần thổ địa như là huyện trưởng,
thành hoàng như là tỉnh trưởng, đất có địa chúa, người cũng có nhân chúa tức là
làm quan.
Người là nửa âm nửa dương, cho nên làm quan cũng là nửa âm nửa
dương, hoặc có thể nói là âm trong dương. Vì có những sự tham quan ô sử, không
lo cho bá tánh, làm những việc xấu ác, bổn lai là nửa âm nửa dương, nhưng hoàn
toàn biến thành âm. Ðây là nói chủ nhân gian tức là hoàng đế. Ðịa chủ là vì quá
khứ y làm việc thiện. Nhân chủ là do mọi người ủng hộ y làm hoàng đế, hoặc làm
tổng thống. Chủ cõi trời làm thế nào để làm được ? Không phải là do tuyển chọn
mà là do nghiệp cảm quả báo sở hiện.
Trong vô lượng kiếp trong quá khứ có một người nữ đi các nơi
giúp người làm việc, một ngày nọ cô ta thấy trong ngôi chùa cổ có tượng Phật cũ
kỹ tróc sơn, chùa cũng hư hại dột nát. Trong tâm không đành làm ngơ, bèn đi tìm
người phụ giúp, tìm được ba mươi hai người nữ, cùng đi các nơi hóa duyên để
trùng tu chùa lại. Người nữ này làm chủ công đức đề xướng sửa chùa, sơn tượng lại
trang hoàng đẹp đẽ. Do công đức này sở cảm, sau khi chết được sinh lên cõi trời
Ðao Lợi, do thiện nghiệp sở cảm được làm Thiên chủ, tức là phần đông thường nói
là chân thần.
Chung quanh trời Ðao Lợi, đông tây nam bắc mỗi hướng có tám
cõi trời cộng thành ba mươi hai với chính giữa cộng thành ba mươi ba ! Thiên chủ
cõi trời Tam Thập Tam là tiền thân của người nữ ấy, tức cũng là chân thần, thượng
đế, chủ tể vạn vật mà Gia Tô Giáo, Thiên Chúa Giáo sùng bái. Vì y làm Thiên chủ
cõi trời và cai quản nhân gian.
Nhân Ðà La dịch là "tôn trọng", vì trời người đều
tôn trọng. Cho nên tạo chùa, tạo tượng, đều có công đức.
Hai mươi chín câu Chú này là xua đuổi thiên ma quỷ quái. Tuy
là thế nhưng bạn phải tu hành, có đạo đức thì tụng trì Chú này mới linh nghiệm.
Nếu bạn không tu hành, không có đạo đức thì tụng Chú gì cũng không linh. Vì bạn
không tu hành, không có đức hạnh, tất cả chúng thần không nghe Chú của bạn,
không nghe bạn chiêu hô, không y giáo phụng hành.
Vạn Phật Thành trước đây mấy năm, cũng tụng hai mươi chín
câu Chú này để thanh tịnh pháp giới, thanh tịnh chu vi đạo tràng mấy trăm mẫu.
Lúc đó tôi kêu các bạn tụng, nhưng các bạn không biết nguyên nhân, bất quá tụng
Chú không cần biết Chú có oai lực gì, biết rồi ngược lại tâm không chuyên nhất,
không biết mới là diệu, biết rồi thì không diệu nữa. Diệu tức là không thể nghĩ
bàn, có thể nghĩ thì không diệu. Cho nên tại sao không giải thích Chú cũng là
vì bảo trì sự diệu này, nếu bạn biết rồi, thì không còn diệu nữa. Bạn tụng Chú
thì biết oai lực của Chú không thể nghĩ bàn, cũng giống như ăn cơm, chúng ta biết
nó có công năng. Công năng này tức là làm cho chúng ta không đói, không cần biết
ngon hay dở, tiêu hay không tiêu, mặc y phục cũng như thế, tụng Chú cũng như thế.
Nhân Ðà La này là Trời Ðế Thích, một danh hiệu trong 108
danh hiệu. Trong Kinh Di Ðà xưng là Thích Ðề Hoàn Nhân. Thích dịch là
"năng", Ðề Hoàn dịch là "Thiên" (trời), Nhân tức là Nhân Ðà
La Gia dịch là "chủ" (chúa), tức là năng thiên chủ, có khả năng làm
chủ cõi trời. Thiên Chúa Giáo đồ nghe đoạn này rồi, sẽ nói chúng ta tin Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa này. Vậy Thiên Chúa nào ? Nếu không phải là Thiên
Chúa này, chẳng lẽ có hai Thiên Chúa, tôi đây có một Thiên Chúa, bạn đó cũng có
một Thiên Chúa, trong đó có một Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa giả ! Cứu kính
cái nào là thật ? Bạn muốn bạn là Thiên Chúa thật, tôi muốn tôi là thật Thiên
Chúa. Vậy có gì thật giả, bạn cũng không thấy qua Thiên Chúa, tôi cũng không thấy
qua Thiên Chúa. Thiên Chúa thật hay giả không cần bình luận. Nếu y không phải
thật, bạn nói là thật cũng không thể làm cho y trở thành thật. Nếu y không phải
giả, bạn nói y là giả, cũng không thể làm y trở thành giả, con người tùy tiện
dùng tư tưởng ngôn ngữ để hình dung Thiên Chúa, cứu kính có thể biết sự thật về
Thiên Chúa chăng ? Bạn nói Thiên Chúa giáo đồ Thích Ðề Hoàn Nhơn là Thiên Chúa,
họ nói không phải, vì Thiên Chúa của họ là vạn năng. Sao bạn biết Thích Ðề Hoàn
Nhơn này không phải là vạn năng, vô sở bất năng ! Ðây là tướng điên đảo của
chúng sinh, tin Phật thì nói giúp cho Phật, tin Thiên Chúa thì nói giúp cho
Thiên Chúa, tôi là thật, là chánh, còn bạn thì giả, không thật, sự chấp trước của
chúng sinh là như thế. Cho nên Thiên Chúa, chân thần, thật ra là Nhân Ðà La,
Nhân Ðà La là Chúa, Chúa tức là Chúa, còn có gì thật với giả.
‘’Chân thật thí quyền đại Bồ Tát‘’, Thiên Chúa cũng hành Bồ
Tát đạo. Y là Phật Pháp chân thật lại hành quyền pháp, dạy bạn tin Thiên Chúa,
tin Gia Tô, tin thần thổ địa, tin Ngọc Hoàng. Ðây chỉ là đến dẫn dụ bạn hướng từng
bước từng bước đi trên đại lộ, đây gọi là chân thật thí quyền, vì chân thật,
trước hết cho bạn một phương pháp quyền xảo phương tiện, dạy bạn tu hành, đây
là đại Bồ Tát. Thiên Chúa trong quá khứ cũng đã từng tích thiện tu phước hành bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, lục độ.
‘’Thích Phạm Thánh chúng đều kính trọng‘’, hết thảy chư
Thiên, Đại Phạm Thiên Vương, đều rất khách sáo đối với Thiên Chúa. Mọi người đừng
tin Thiên Chúa liền mê Thiên Chúa, tin Phật liền mê Phật, vì Thiên Chúa, vì Phật
mà tranh chấp kiện tụng.
30. Nam mô bà già bà đế.
Kệ :
Đa hàm bất phiên Bạt Già Phạm
Tự tại sí mãnh diệu đoan nghiêm
Danh xưng phổ văn cát tường xứ
Tôn quý nhân Thiên đồng chiêm ngưỡng.
Tạm dịch :
Nhiều nghĩa không dịch Bạt Già Phạm
Tự tại sí thạnh diệu đoan nghiêm
Nghe đến danh hiệu được cát tường
Trời người tôn quý cùng chiêm ngưỡng.
Giảng giải : Bà Già Bà Ðế dịch là "Bạt Già Phạm".
Bà Già Bà Ðế và Bạt Già Phạm là tiếng Phạn, có sáu nghĩa :
1. Tự tại.
2. Sí thạnh.
3. Ðoan nghiêm.
4. Danh xưng.
5. Cát tường.
6. Tôn quý.
Vì có sáu nghĩa này, cho nên Bạt Già Phạm trong Kinh văn, hoặc
trong Chú, đều không phiên dịch. Ðây gọi là "đa hàm không dịch", là một
trong năm loại không dịch.
Tự tại là gì ? Tức là vô tại vô bất tại. Phật thì vô tại vô
bất tại. Bạt Già Phạm là một danh hiệu của đức Phật. Sí thạnh là hình dung oai
đức của Phật, rực sáng như lửa. Ðoan là đoan chánh. Nghiêm là oai nghiêm, đây
là Phật có 32 tướng, 80 vẻ đẹp, rất đoan nghiêm. Danh xưng của Phật nghe khắp,
cho nên chúng sinh đều biết. Bất cứ ai gặp được Phật, đều đắc được cát tường,
tùy tâm mãn nguyện, cát tường như ý. Tôn quý là nói mười tướng tốt của Phật, là
trời người đều tôn quý trong tam giới cho nên nói ‘’Nhiều nghĩa không dịch Bạt
Già Phạm - Tự tại sí thạnh diệu đoan nghiêm.’’ Ngài rất tự tại sí thạnh đoan
nghiêm.
‘’Nghe đến danh hiệu được cát tường.’’ Bất cứ ai nghe đến
danh hiệu của Phật đều đắc được cát tường, nơi nơi đều cát tường.
‘’Trời người tôn quý đồng chiêm ngưỡng.’’ Trời người đều
cung kính Ngài, chiêm ngưỡng Ngài, Phật giống như mặt trời.
31. Lô đà ra gia.
Kệ :
Thiên thần quyến thuộc tự tại tiên
Địa kỳ đẳng chúng hộ vệ tiền
Hành giả nhất tâm tu chân đế
Thường tuỳ bảo hữu vật sân tham.
Tạm dịch :
Thiên thần quyến thuộc tự tại tiên
Ðịa kỳ đẳng chúng đồng hộ vệ
Hành giả nhất tâm tu chân đế
Thiện thần gia bị chớ sân tham.
Giảng giải : Câu này là nói về thân nhân quyến thuộc của Trời
Ðại Tự Tại. ‘’Thiên thần quyến thuộc tự tại tiên.’’ Ðịa kỳ là nói thần thổ địa,
thổ địa công, thành hoàng và quyến thuộc, chúng bảo hộ người tu hành, người trì
Chú.
‘’Ðịa kỳ đẳng chúng đồng hộ vệ.’’ Nếu hành giả nhất tâm tu
hành chân đế, nhất tâm trì Chú.
‘’Hành giả nhất tâm tu chân đế.’’ Nếu bạn tu hành thì tám vạn
bốn ngàn thiện thần hộ pháp, Kim Cang Tạng Bồ Tát thường theo bảo hộ bạn, người
tu hành nên nhớ đừng sinh tâm sân hận, sinh tâm tham, nếu không thiện thần hộ
pháp không bội phục bạn nữa, họ sẽ nói bạn vẫn còn tâm quá nóng giận, không tu
hành, họ sẽ không vui. Nếu Bồ Tát Hộ pháp không vui, thì tu hành không dễ gì,
cho nên người trì Chú quan trọng nhất là đừng có tâm sân hận, tâm tham lam và
tâm si mê.
32. Ô ma bát đế.
Kệ :
Tối thắng mãnh tật
đại phong thần
Đảo xá bạt thụ thậm
kinh nhân
Tam thiên do cụ thử tai nạn
Sân khuể cảm chiêu tự trầm luân.
Tạm dịch :
Tối thắng dũng mãnh đại phong thần
Nhà xập cây ngã rất kinh người
Tam Thiền đều sợ tai nạn này
Sân hận chiêu cảm tự trầm luân.
Giảng giải : Câu này dịch là "tối thắng",
"mãnh tật", là tên của vị phong thần (thần gió). Vị thần này khí lực
rất lớn, thường thường muốn tranh thắng, rất mãnh liệt, làm việc rất nhanh. Gió
có nhiều loại như gió mát, gió ấm, gió này chẳng hại người, lúc thái bình thịnh
thế, khi thì mưa, khi thì gió, thời tiết khí hậu điều hòa.
Ô Ma Bát Ðế này là chủ thần gió, có thế lực rất lớn, ra oai
rất là lợi hại, nhà cửa phòng ốc đều thổi ngã xập, cây cối trốc gốc, khí lực rất
mãnh liệt, cho nên nói : ‘’Tối thắng dũng mãnh đại phong thần.’’ Ai có nóng giận
tức là thần gió này trợ giúp. Cho nên nói: ‘’Nhà xập cây ngã rất kinh người.’’
Tôi còn nhớ trước đây hai năm, có một trận bão, làm ngã mấy cây cổ thụ ở Vạn Phật
Thành.
‘’Tam Thiền đều sợ tai nạn này.’’ Lửa thiêu đốt đến cõi trời
Sơ Thiền, nước tràn ngập đến cõi trời Nhị Thiền, gió thổi tan cõi trời Tam Thiền.
Cho nên có câu :
‘’Lục dục chư Thiên cụ ngũ suy,
Tam Thiền thiên thượng hữu phong tai,
Nhậm quân tu đáo
Phi Phi Tưởng,
Bất như Tây
Phương quy khứ lai.’’
Cho nên tu hành đừng
mong cầu sinh về cõi trời, vì khi hưởng hết phước báu cõi trời thì phải đọa lạc.
Cõi trời lục dục có năm tướng suy hiện ra, thì mạng trời đã hết, bèn sinh xuống
nhân gian theo nghiệp thọ quả báo, tùy theo mình tạo nghiệp thiện, hoặc nghiệp
ác mà thọ quả báo. Năm tướng suy là :
1. Hoa trên đầu
héo. Người trời đội cái mũ được làm bằng các loại hoa rất đẹp và trang nghiêm,
hoa cũng không rớt, đợi đến khi thọ mạng hết, thì hoa trên mũ liền rụng và khô
héo, đây là một thứ tướng suy.
2. Y phục dơ bẩn.
Người trời mặc y phục không giống như y phục thế gian hay dơ bẩn, mỗi khi thay
phải giặt. Y phục người trời mặc không cần giặt, tự nhiên sạch sẽ, họ không cần
mua bột giặt, cũng không cần mua máy giặt đồ. Người thế gian cho rằng mình có
máy giặt đồ là quá tốt, chẳng biết đó vẫn là việc vô ích. Y trời vốn không cần
phải giặt, tự nhiên sạch sẽ. Nhưng năm tướng suy hiện thì y phục dơ bẩn.
3. Thân ra mồ
hôi. Thân người trời vốn không ra mồ hôi, cho nên y phục cũng không hôi, nhưng
năm tướng suy hiện thì trên thân ra mồ hôi.
4. Thân có mùi
hôi thối. Thân người trời thường có hương thơm, mùi hương thơm tự nhiên từ
trong thân toả ra, chẳng phải thoa son, đánh phấn, sức nước hoa, như người thế
gian, nhưng khi năm tướng suy hiện thì bèn có mùi hôi thối.
5. Tâm tán ý loạn, bất an. Người trời thường ngồi thiền nhập
định, nhưng khi năm tướng suy hiện ra, thì ngồi không yên, tâm ý tán loạn,
không có định lực, cho nên đi đứng nằm ngồi đều bất an liền biết thọ mạng sắp hết.
Nếu nghiệp thiện của họ thành thục, thì đầu thai làm người giàu có, nếu nghiệp
ác thành thục, thì đầu thai làm ngạ quỷ, hoặc súc sinh, hoặc đọa địa ngục, đều
không nhất định. Cho nên làm người trời có những phiền não như thế.
Khi nạn gió phát khởi thì chư Thiên cõi Tam Thiền cũng hết số.
Nạn gió này làm thế nào mà chiêu lại ?
‘’Sân hận cảm chiêu tự trầm luân.’’ Vì làm người thì sự nóng
giận quá lớn, tuy nhiên tu phước được sinh về cõi trời, nhưng phải thọ thứ quả
báo nạn gió này. Gốc sân hận mà không đoạn trừ thì kết quả phải thọ quả báo đó.
33. Ta hê dạ gia.
Kệ :
Liệt hoả viêm
viêm nhiệt nan đương
Thử tai hiện thời
thất thái dương
Sơn khô hải can vô sinh vật
Thành trụ hoại không nghiệp mang mang.
Tạm dịch :
Lửa mạnh hừng hực chịu không thấu
Nạn nầy đồng hiện với bảy mặt trời
Núi khô biển cạn không vật sống
Thành trụ hoại không nghiệp mênh mông.
Giảng giải : Ta Hê Dạ Gia là "Thần lửa". Thứ thần
lửa này rất nóng vô cùng. Vì nóng quá cho nên nói : ‘’Lửa mạnh hừng hực chịu
không thấu.’’ Rất lợi hại, nóng khiến người không chịu nổi. Nóng quá sẽ khiến
người chết. Nạn lửa xuất hiện thì trên không trung có bảy mặt trời đồng thời
cũng xuất hiện, thiêu hủy hết thảy sơn hà đại địa, biển cả cũng khô cạn, chẳng
có vật gì còn sống sót lại. Lửa có thể thiêu đến cõi trời Sơ Thiền. Nhị Thiền
và Tam Thiền cũng có tai nạn. Vậy trời Tứ Thiền có bảo đảm chăng ? Không. Cho
nên nói : ‘’Nếu tu được sinh về Trời Phi Phi Tưởng‘’ còn bị đọa lạc trầm luân.
‘’Bất như Tây Phương quy khứ lai.’’ Chẳng bằng đến Tây
Phương thành Phật rồi, nương thuyền từ bi trở lại giáo hóa chúng sinh. Tôi còn
nhớ mười mấy năm về trước, tôi giảng về cõi Trời Tứ Thiền, có mấy người Mỹ hỏi
: Trời "ngũ thiền" như thế nào ? Bạn xem, không hiểu Phật pháp rất buồn
cười.
‘’Thành trụ hoại không nghiệp mênh mông.’’ Một tăng một giảm
là một kiếp, bây giờ là kiếp giảm. Kiếp tăng thì một trăm năm thọ mạng của con
người tăng một tuổi, thân người cũng cao thêm một tấc, kiếp giảm thì một trăm
năm thọ mạng con người giảm một tuổi, thân người giảm xuống một tấc. Kiếp giảm
thì từ tám vạn bốn ngàn tuổi giảm xuống đến mười tuổi thì sau đó mới tăng, tăng
đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Một tăng và một giảm gọi là một kiếp. Một ngàn kiếp
gọi là một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp thành một trung kiếp, bốn trung kiếp
thành một đại kiếp.
Con người sống trên thế gian mấy mươi năm, cũng giống như một
sát na (thời gian rất ngắn) nhắm mắt mở mắt mà thôi. Trong một sát na chẳng có
gì lưu luyến, đừng xem nghiêm trọng như thế. Thế giới thành có 20 tiểu kiếp, trụ
có 20 tiểu kiếp, hoại có 20 tiểu kiếp, không có 20 tiểu kiếp. Thành trụ hoại
không trải qua bốn trung kiếp, hợp lại là một đại kiếp. Trong thành trụ hoại
không, mỗi người tạo không biết bao nhiêu là biển nghiệp. Cho nên nói ‘’nghiệp
mênh mông‘’ không có bờ mé. Mỗi người có nghiệp cảm khác nhau, mỗi người có tư
tưởng khác nhau, do đó mỗi người tạo nghiệp cũng khác nhau, nếu nghiên cứu kỹ
càng thì vô cùng vô tận, mênh mông như biển cả không có bờ mé.
34. Nam mô bà già bà đế.
Kệ :
Quy mạng Thế Tôn Bạt Già Phạm
Vô tận Pháp Bảo diệu trạm nhiên
Thập phương hiền Thánh đồng tụ hội
Nhất tâm đảnh lễ Thiên Trung Thiên.
Tạm dịch :
Quy mạng Thế Tôn Bạt Già Phạm
Vô tận Pháp bảo thường tịch nhiên
Mười phương hiền Thánh cùng tụ hội
Một lòng đảnh lễ Thiên Trung Thiên.
Giảng giải: Bà Già có sáu ý nghĩa, bây giờ lược giảng như
sau :
1. Tự tại: Tức là không có vọng tưởng, có vọng tưởng thì
không tự tại, tức là chạy đi, cho nên không tự tại, chạy đi đâu ? Bạn vọng tưởng
cái gì thì chạy đến đó. Khởi vọng tưởng ăn, thì chạy đến chỗ có đồ ăn. Khởi vọng
tưởng mặc, thì chạy đến tìm đồ mặc, cũng không tự tại. Cho nên nói :
‘’Dấy niệm thì gì cũng có,
Bặc niệm thì gì cũng không.
Tâm ngừng niệm bặc giàu sang thật,
Lòng dục dứt sạch thật giàu có.’’
Bạn chẳng còn ham muốn gì nữa, cũng chẳng hướng vào trong cầu,
cũng chẳng hướng ra ngoài cầu, cầu mà chẳng được thì là khổ. Người có khổ thì đừng
nói đến giàu sang, đều là người nghèo. Có tâm tham thì có khổ, không có tâm
tham, đến chỗ vô cầu thì không có lo lắng gì, vô sở cầu thì chẳng còn tham nữa,
chẳng còn u sầu nữa. Tham ăn ngon, chỗ ở tốt, ngủ nhiều, tham không được thì có
phiền não. Không biết bạn có kinh nghiệm gì chăng ? Nếu trong tâm thúc dục, thì
trong miệng bèn khổ ghê lắm, giống như ăn lửa than, giống như bị lửa cháy. Dụng
công cũng dụng chẳng tốt. ‘’Tâm ngừng niệm bặc giàu sang thật - Lòng dục dứt sạch
thật giàu có.’’ Nếu thật minh bạch hai câu này, thì một đời dùng không hết, nói
là nói như thế, chứ tâm tham thì không thể dừng lại, cho nên ưu sầu lo lắng đều
có, lại sợ cái này, lại sợ cái kia, có sự sợ sệt thì không được chân chánh, đó
đều là không tự tại. Đức Phật vọng tưởng gì cũng chẳng có, tạp niệm gì cũng
không sinh, cho nên tự tại nhất.
2. Sí thạnh : Cũng giống như lửa sáng rực, có một thứ quang
minh. Trí huệ qung minh này phá hết thảy ngu si đen tối. Nếu việc đến mà sáng
suốt rõ rang, thì không bị sự việc làm mê tức là sí thạnh.
3. Ðoan nghiêm : Ðoan là đoan chánh, chánh thì không lệch,
ngồi thẳng ngay ngắn không ngã về trước, không dựa phía sau, không nghiêng bên
trái, lệch bên phải. Nghiêm là luôn luôn không cẩu thả, không sơ xuất, không
phóng dật, không tùy tùy tiện tiện, không phải kỷ luật không nghiêm, mà chính
mình tha thứ cho chính mình.
4. Danh xưng: Danh là danh dự, xưng là xưng tán. Danh xưng
này chẳng phải cầu đến, chẳng phải mua danh chuộc tiếng khen, hoặc cố ý đối với
người tốt, để người nói bạn tốt, mua được cái danh như thế thì không đúng, vậy
người làm việc là một thứ phục vụ, chỉ hỏi lương tâm không hổ thẹn, mà đắc được
danh dự mới là chân. Chẳng phải biểu diễn công phu cho người khác xem. Giúp đỡ
kẻ khác phải vô sở cầu (không cầu gì hết), không cần kẻ khác cảm ơn bạn, nói với
bạn một lời tốt, danh chân thật thì chẳng phải cầu đến, chẳng phải giả dạng tu
hành để được tứ sự cúng dường ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thuốc men. Dùng tâm giả
dối để treo nhãn hiệu giả vào những gì có được, thì đều là giả, những vật chất
của cải đều là giả. Chân thật thì không cần như thế, chỉ cần hết lòng đi làm.
Cho đến tạp niệm nhỏ như sợi tóc cũng chẳng có, tuyệt đối không mưu đồ hư danh
thích giả tốt. Bạn ôm ấp giả tốt đến khi chết rồi, thì vua Diêm Vương sẽ hỏi bạn
ôm ấp cái gì đó. Lúc đó bạn mới biết là hư danh, giả tốt là vô dụng, chỉ là một
tân khách mà thôi. Bạn có thật thì danh tự nhiên sẽ đến, nhưng cũng không thể tồn
tại thứ tâm như vậy. Bất cứ người phê bình đánh giá mình như thế nào, mình vẫn
cứ làm ngay thật, thì kết quả những gì bạn được đều là chánh.
5. Cát tường : Nghĩ muốn được cát tường, thì đừng có nóng giận.
Phàm là người nóng giận, đều chẳng phải là chân cát tường, phải như Bồ Tát,
luôn luôn từ bi vui vẻ, không nóng giận đó mới là cát tường.
6. Tôn quý : Tôn quý tức là tất cả sự việc phải làm một cách
chân thật, đừng làm những việc không có giá trị, không chân thật thì không có
giá trị.
Bạt Già Phạm đầy đủ sáu thứ ý nghĩa này. Sáu thứ ý nghĩa này
đều rất bình thường, chứ không phải thần kỳ gì, nên hết lòng cung hành thực tiễn,
đừng mang mặt nạ giả đi lường gạt người, đó là sáu nghĩa Bạt Già Phạm giải
thích đơn giản rõ ràng. Bất cứ giảng giải Kinh điển gì, đều phải thực dụng,
luôn thường dùng hàng ngày, đi đứng nằm ngồi đều dùng được. Sáu nghĩa này cũng
là những công việc hành động mỗi ngày chúng ta đều dùng được, đừng thích những
thứ cao xa, hoặc là nói được câu văn hay một chút, thì cho rằng là tốt. Bất cứ
Kinh điển, hoặc nghĩa của Chú hiểu rõ, thì phải thực hành, hoa mà không thật
thì vô dụng.
Câu thứ nhất ‘’Quy mạng Thế Tôn Bạt Già Phạm.’’ Thế Tôn, Bạt
Già Phạm đều là Phật, đây là Phật Bảo.
‘’Vô tận pháp bảo thường tịch nhiên.’’ Ðây là quy y Pháp Bảo,
pháp là thanh tịnh không có tự tánh, chỉ là phương pháp, không có thể tánh, bạn
dùng nó thì sẽ hiểu, sẽ có trí huệ. Nếu không hiểu, không dùng nó thì ngu si.
Trạm nhiên thường tịch là vắng lặng, chẳng phải có hình, có tướng.
‘’Thập phương hiền Thánh đồng tụ hội.’’ Ðây là Tăng Bảo. Hiền
Thánh tức Tăng Bảo, mười phương đại đức cao Tăng, đồng tụ hội với nhau.
‘’Nhất tâm đảnh lễ Thiên Trung Thiên.’’ Mười phương Tam Bảo
đồng tụ hội với nhau, vẫn phải lễ kính tất cả chư Phật, Phật là Thiên Trung Thiên.
35. Na ra dã.
Kệ :
Chưởng ác thuỷ tộc trụ long cung
Uông dương đại hải ba lãng dũng
Từ nhuận quán khái sinh vạn vật
Bành phái bàng đà diễn hồng mông.
Tạm dịch :
Cai quản thủy tộc ở cung rồng
Ðại dương biển lớn nổi ba đào
Tưới khắp thấm nhuần dưỡng vạn vật
Mênh mông ràn rụa diễn hồng mông.
Giảng giải: ‘’Cai quản thủy tộc ở cung rồng.’’ Thủy thần thì
cai quản chúng sinh trong biển, cho nên nói ‘’Ðại dương biển lớn nổi ba đào.’’ Ở
trong nước thường đi du ngoạn trong nước, xem cá bơi đi bơi lại, có ăn, không
có ăn, đều rất sung sướng.
‘’Tưới khắp thấm nhuần dưỡng vạn vật.’’ Hoa cỏ, thảo mộc,
cây cối ngũ cốc đều cần nước, đều nương nước mà sống.
‘’Mênh mông ràn rụa diễn hồng mông.’’ Nếu nước lớn thì âm
thanh lớn. Gia Tô giáo nói hồng thủy làm chết người thế gian, đều vì tin thần
giả, không tin thần thiệt, cho nên dùng nước làm chết bạn, nếu thật là như thế,
thì tin thần giả tức là phạm tội, vậy kẻ giết người, phóng lửa sao không làm chết
họ đi, tin thần ngược lại có tội, nói thẳng thật là vô lý. Tức là tin thần giả
so sánh với cái gì cũng đều không tin tốt những cái đó, gì cũng không tin vẫn
có tội, đây phải chăng thần thiệt làm cái hố kêu người tin y, nếu không tin thì
phải chết, đây thật là quá bất công, các vị nghiên cứu xem. Thần còn có thật giả
! Thật tức là thật còn có giả gì, có giả thì không thật, thật còn muốn tên thần
để làm gì.
36. Noa gia.
Kệ :
Vô hình vô tượng thuấn nhã đa
Thị chi bất kiến văn diệc hiết
Thành trụ hoại không nhị thập kiếp
Kim cang đại định vị từng na.
Tạm dịch :
Không hình không tượng tức là không
Nhìn cũng chẳng thấy nghe cũng không
Thành trụ hoại không hai mươi kiếp
Kim cang đại định chưa từng động.
Giảng giải : Noa Gia dịch là "Không", không tức là
Thần giới không. Thật ra không tức là không, còn phải tìm một vị thần cai quản,
thật là không có việc tìm việc làm, giống như chính phủ đặt ra một chức bộ trưởng
cải thiện không khí. Thần không như thế nào ? Không có hình dạng gì hết cho nên
: ‘’Không hình không tượng tức là không.’’ Thuấn nhã đa tức là không.
‘’Nhìn cũng chẳng thấy, nghe cũng không.’’ Không thì bạn
nhìn cũng chẳng thấy, nếu nhìn thấy thì chẳng gọi là không, cũng không thể ngửi
mùi vị thần không.
‘’Thành trụ hoại không hai mươi kiếp.’’ Mỗi đại kiếp có bốn
trung kiếp, một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, thành trụ hoại không. Mỗi kiếp
có hai mươi tiểu kiếp, hợp lại là một đại kiếp, thời gian rất dài, nhưng người
tu đạo nhập Kim Cang đại định, trong một đại kiếp đều như như bất động, cho nên
nói
‘’Kim cang đại định chưa từng động.’’ Một chút cũng không động,
động đất họ cũng chẳng sợ. Nếu hiểu lý không thì hết thảy đều không chướng ngại,
cho đến không cũng không, không cũng phá, chấp trước không cũng buông xả, chứng
được lý không thì cảnh giới cũng chẳng có, phiền não cũng không, cũng không người,
cũng không Phật, đại thiên sa giới như bọt nước, chứng đắc lý không là như thế.
37. Bàn dá ma ha.
Tam mộ đà da.
Kệ :
Ca nhạc đại hội
diễn diệu âm
A ba xướng tụng lung giả thính
Cổ mục lão ông tĩnh nhãn khán
Thổ mộc ngoã thạch hỉ dung dung.
Tạm dịch :
Ðại hội ca nhạc diễn diệu âm
Kẻ câm biết nói điếc nghe được
Kẻ già mù lòa mở mắt xem
Ðất gỗ ngói đá vui nhộn nhịp.
Giảng giải : Câu này dịch là "Đại hội ca nhạc",
nhưng không phải là nhảy múa như mấy trăm ngàn người tụ lại với nhau. Ðại hội
ca nhạc này thật là diệu không thể nói, vừa ca xướng, vừa tấu nhạc, lại có băng
và dĩa hát, lại có nhạc trời trên không, trời mưa hoa báu rơi xuống rực rỡ. Ai
ca xướng ? Người câm. Câm sao có thể ca xuớng ? Vậy mới kỳ quái ! Người câm ca,
người câm xướng, giống như truyền hình, có lúc biểu diễn không âm thanh, có lúc
có âm thanh. Ai nghe ? Người điếc nghe, thử nghe xem, nếu âm thanh không diệu,
thì người điếc sao nghe được ! Thật là quá diệu.
‘’Kẻ già mù lòa mở mắt xem.’’ Già cả mù lòa nhìn mọi người tấu
âm nhạc, tấu quá hay, họ liền mở mắt ra xem, không những nhìn được mà còn nói
chuyện, còn dùng mắt để ca xướng, không riêng gì như thế mà dưới đây còn thú vị
hơn.
‘’Ðất gỗ ngói đá vui nhộn nhịp.’’ Ðất gỗ ngói đá vốn là vô
tình, nhưng vô tình cũng vui vẻ, cười vui nhộn nhịp. Cho nên :
‘’Trời xanh nắng ấm,
Cây cỏ vui tươi.
Sóng gió ba đào,
Chim chóc thê lương’’.
Cho nên trời đất không thể một ngày không có hòa khí, lòng
người không thể một ngày không có hỷ thần. Sao lại nói người câm ca được, kẻ điếc
nghe được, người mù nhìn thấy được ? Người câm ca xướng được tức là ví dụ, lúc
tôi hỏi có vấn đề gì chăng, thì chẳng có ai lên tiếng, nhưng khi vô sự thì cứ
nói chuyện, lúc đó người câm cũng nói chuyện được. Người điếc nghe được, thì
cũng như có người giảng Kinh thuyết pháp, một chút cũng nghe không vào tai, giống
như người điếc không khác, nhưng đến khi nghe ca xướng thì họ nghe lọt vào tai.
Người mù vốn nhìn không thấy, nhưng khi họ nghe được Phật pháp, thì mắt cũng mở
ra được. Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn, cho đến đất gỗ ngói đá, là những
kẻ không tin Phật pháp. Chúng đối với Phật pháp cũng như đất gỗ ngói đá vốn
không hiểu, giống như vô tình, hữu tình vô tình đồng viên chủng trí. Ðại hội ca
xướng này có Cưu Bàn Trà, Khẩn Na La, Thiên Long Bát Bộ, đều tấu âm nhạc tại
đó, âm nhạc có thể giải trừ tâm sân hận của con người.
Chúng ta học Phât pháp, hết thảy thế gian cũng không ngoài
Phật pháp, đừng khinh khi người khác. Có người đến diễn giảng phải chú ý nghe.
Bạn không biết người đó mang chìa khóa đến mở cửa vô minh cho bạn.
Hỏi : Ngủ thì nằm chiêm bao có phải là tạo nghiệp chăng ?
Ðáp : Những gì làm trong mộng không phải tạo nghiệp, tỉnh mộng
chớ tạo thì được, nhưng nếu bạn nói tôi muốn cố ý nằm mộng, trong mộng có thể tạo
rất nhiều nghiệp, như thế thì tội nghiệp, nếu bạn không khởi vọng tưởng muốn
trong mộng tạo nghiệp thì chẳng quan hệ gì với bạn, cho đến lúc tỉnh táo bình
thường có (vọng) niệm tạo nghiệp, nhưng không đi làm, đó là hoặc, không phải
nghiệp.
Hỏi : Trong Kinh Di Ðà nói: Chúng ta nên phát nguyện sinh về
cõi cực lạc, vì tại đó không có ba đường ác, nếu chúng ta sinh về cõi Cực Lạc,
thì không độ, không cứu chúng sinh trong ba đường ác chăng ?
Ðáp : Bạn đừng lo cho họ, có người khác lo, nếu bạn muốn lo
thì tại thế giới Cực Lạc thành Phật rồi thì có thể trở lại lo, Phật Di Ðà là
như thế.
Hỏi : Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, Chú Ðại Bi và Phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện có thể sinh về cõi cực lạc chăng ?
Ðáp : Có thể. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là hướng về Cực Lạc.
Hỏi : Hết thảy pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, vậy gì là
pháp vô vi ?
Ðáp : Nghĩ kỹ thì biết pháp vô vi có sáu. Trong Trăm Pháp
Minh Môn Luận : Sắc pháp có 11, tâm pháp có 8, tâm sở pháp có 51, bất tương ưng
pháp có 24, vô vi có 6, cộng thành trăm pháp.
Chúng ta cảm thấy trên thế gian gì cũng là thật, đó chính là
tự mình gạt mình. Những gì trên thế gian này đều là hư vọng vô thường, vì vậy
cho nên có sinh già bệnh chết, có người sinh rồi, chưa già đã chết, có người đợi
đến già mới chết, có người già rồi lại có bệnh mới chết, có người già rồi không
có bệnh mà chết, không tật mà chết. Phương pháp chết không giống nhau, cảnh giới
mỗi người cũng không giống nhau. Sinh, già, bệnh, chết, của mỗi người cũng
không giống nhau. Có người bệnh rất lâu mới chết, có người chẳng có bệnh hoạn
gì thì chết, buồn vui ly hợp, đến lúc chia ly cách biệt thì buồn rầu, hợp thì
vui vẻ, đó đều bị cảnh giới lay chuyển. Chúng ta phải nhìn xuyên thủng, buông xả,
không bị lưới thế gian trói buộc. Lúc nào cũng nghĩ, đừng trói chặt chính mình,
phải giải thoát, thì gì cũng đều chẳng chấp trước, hết thảy không chấp trước là
một thứ pháp môn rất diệu vô cùng. Ai đối với mình tốt cũng được, ai đối với
mình không tốt cũng được, không bị cảnh giới thuận nghịch làm giao động, phải
nhận diện cảnh giới, đừng tùy theo cảnh mà thay đổi. Nhưng nói là nói, đến khi
cảnh giới đến thì đa số đều nhìn không thấu, tốt nhất là học trẻ con, chẳng có
một chút ưu sầu phiền não, rất chân thật tự tại, đến lúc ngủ thì ngủ, đến lúc
ăn thì ăn, đến lúc chơi thì chơi, đó là tâm của trẻ con, đến khi trưởng thành
thì chẳng giống, có nhiều phiền não, muốn đừng có nhiều phiền não thì phải nhìn
xuyên thủng tất cả, buông xả tất cả thì mới đắc được tự tại.
Ngày nào không có lỗi để sửa, thì ngày đó chưa lập được
công. Thực hành năm mươi năm, mới biết bốn mươi chín năm là sai lầm. Chúng ta
phải sửa lỗi lập công tích đức, sửa lỗi tức là trong quá khứ không đúng, nhất định
phải sửa đổi, đừng che dấu tội lỗi của mình, nếu không thì chẳng có gì tiến bộ.
Nghĩa là tội lỗi của những năm qua, thì phải sửa đổi lỗi làm mới, chúng ta phải
tìm phương pháp tự sửa đổi, nghĩ muốn thế giới sửa đổi tốt, thì trước hết phải
từ mỗi cá nhân chúng ta mà làm, trước hết phải đừng có lỗi lầm, đừng làm những
việc hại người, phải làm việc lợi người, việc đối với người có lợi thì làm, việc
có hại tuyệt đối đừng làm. Như vậy thì chúng ta mới thật hiểu ý nghĩa đối với
những lỗi lầm của những năm qua.
‘’Ngộ dĩ vãng chi bất gián,
Tri lai giả chi khả truy.’’
Nghĩa là :
Giác ngộ trong quá khứ không làm điều tốt,
Biết vị lai còn có thể theo đuổi được.
Cho nên :
‘’Ngộ lầm mê thì chưa xa lắm,
Biết hôm nay đúng mà hôm qua sai.’’
Cho nên nói :
"Biết đi trên con đường sai lầm vẫn chưa xa lắm,
Có thể thay đổi con đường khác".
Biết hôm nay là đúng, ngày hôm qua không đúng. Thế giới này
tại sao tệ hại như thế ? Ðều vì tâm ích kỷ của con người tác quái, ai ai cũng
ích kỷ, cho nên ai ai cũng tham, ai ai cũng chẳng làm lợi ích cho kẻ khác, bạn
cũng không chịu lợi ích cho kẻ khác, kẻ khác cũng không muốn lợi ích cho bạn.
Cho nên thế giới càng ngày càng đấu tranh kiên cố, khảo sát kỹ thì nguyên nhân
thế giới có chiến tranh, đều vì tâm tham và tâm ích kỷ của con người tác quái,
nếu ai ai cũng không có tâm ích kỷ, thì không có chiến tranh. Bạn nói điều này
không thể được, nhưng không màng được hay không, chúng ta phải từ chính thân
mình mà làm, cuối cùng chúng ta không ích kỷ, thì gia đình của chúng ta bình an
vô sự, họ cũng không tham không ích kỷ, thì gia đình họ cũng bình an, mỗi gia
đình bình an, thì xã hội thế giới cũng sẽ bình an. Cho nên chẳng phải là thế giới
này không bình an, mà là tâm tham và tâm ích kỷ của con người tác quái, nếu sửa
lỗi làm mới, không có tâm ích kỷ, thì thế giới không còn chiến tranh.
Có người hỏi tôi năm nay tại San Francisco thế nào ? (hỏi có
động đất chăng ?) Tôi nói nếu các vị không có nóng giận, thì chẳng có tai nạn,
ai nhiều nóng giận thì tai nạn sẽ đến, tai nạn là do tâm sân hận của con người
sinh ra. Ai ai cũng từ bi, không có tâm sân hận, thì thế giới chẳng có tai nạn
gì. Nói đến đây, tôi muốn nói mà mọi người cũng không tin đạo lý nầy, nhưng
không ai tin, tôi vẫn phải nói, tôi không màng bạn tin hay không, nếu cứ đợi có
người tin, thì chẳng có biện pháp. Bất cứ sự việc gì thật hay giả, cũng có người
tin, đừng nói là lời của tôi nói, mà lời của Phật nói, thiên ma ngoại đạo cũng
kêu quyến thuộc của chúng đừng tin, hà huống là tôi. Việc gì chúng không tin ?
Vào năm 1968, San Francisco thường thường bị động đất, lại
có nhà chiêm tinh, lại có nhà khoa học, lại có nhà kia, nhà nọ, bảy tám nhà ai
ai cũng nói San Francisco nhất định sẽ động đất, dọa nạt những người giàu bỏ chạy
rời khỏi San Francisco.
Năm đó vào ngày 01 tháng 01, tôi đã nói qua với mọi người,
chắc có người còn nhớ. Tôi nói : Tôi còn ở tại San Francisco một ngày, thì
không để cho San Francisco bị động đất. Bạn nói lời này có người tin chăng ? Chẳng
có ai tin, thậm chí nghe cũng chẳng có người dám nghe, nghe đều phạm pháp. Tại
sao ? Không cho phép ! Bạn có quyền gì nói không cho phép ! Bạn nói tôi không
có quyền này chăng ? Sao bạn biết ? Nếu tôi có quyền này thì bạn nói sao đây ?
Tôi còn ở tại San Francisco một ngày, thì không để cho San Francisco động đất,
không phải không động đất, mà là không để cho nó động đất. Chỗ này lại có một lối
giải thích, động đất lớn biến thành nhỏ, động đất nhỏ thì chẳng có, tuyệt đối
không có tai hại, nhưng năm nay thì không hợp, mấy ngày trước có động đất,
nhưng động đất ở chỗ khác, chứ không phải tại San Francisco, làm xưởng chế tạo
đạn hạch tâm bị hư hoại, đó là vì quốc gia này quá giàu có, nên làm cho hao hụt
bớt.
Chúng ta phải biết nguyên nhân động đất là gì ? Tức là yêu
ma quỷ quái quá nhiều, cho nên trái đất phải động làm cho chúng phải sợ, cứ làm
đồng tính luyến ái thì nguy lắm. Tương lai sẽ chết, động đất xảy ra làm cho
chúng chết ngay thì làm sao, cho nên chúng sẽ giác ngộ, phải giữ quy cụ, tôi
cũng không sợ người có thứ mao bệnh này không vui.
38. Nam mô tất yết rị đa gia.
Kệ :
Hải ấn Tam muội quang minh vân
Sâm la vạn tượng ảnh hiện trung
Như mộng như huyễn như bào mạt
Như sương như điện như thị cùng.
Tạm dịch :
Tam muội hải ấn mây quang minh
Sâm la vạn tượng hiện ở trong
Như mộng như huyễn như bọt nước
Hãy quán như sương cũng như điện.
Giảng giải : Chỗ này nói về những vị : Thần gió, Thần nước,
Thần không, Thần lửa, Thần đất, đừng cho rằng những vị Thần nầy địa vị nhỏ, phải
biết những vị Thần nầy, đều do Phật thị hiện, như : Thần đất là Phật Tỳ Lô Giá
Na thị hiện, Thần gió là Phật Thành Tựu ở phương Bắc thị hiện, Thần lửa là Phật
A Di Ðà ở phương Tây thị hiện, Thần nước là Phật A Súc ở phương Ðông thị hiện,
Thần không là Phật Bảo Sinh ở phương Nam thị hiện. Vì những vị thần nầy đều là
do các đức Phật thị hiện, do đó chúng ta không thể có tâm khinh mạn đối với những
vị thần nầy. Vì vậy phải quy mạng kính lễ, đừng cho rằng mình là Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, không nên lễ bái các bậc ấy, đó là kiêu mạn tự mãn.
Bây giờ nói về Thần hải ấn, hải ấn phát quang là cảnh giới một
giai đoạn của Thiền tông, khi bạn chứng được hải ấn phát quang tam muội, thì hết
thảy hết thảy đều là hình ảnh hải ấn đến trong định của bạn, cho nên nói :
‘’Tam muội hải ấn mây quang minh.’’ Nhập được hải ấn tam muội nầy thì ‘’Sum la
vạn tượng hiện ở trong.’’ Tất cả sum la vạn tượng trên thế giới, đều hiển hiện
ra tựa như sấm sét, lại tựa như vệ tinh thăm dò không gian, những sự việc khắp
nơi toàn thế giới đều hiện ra, cảnh giới này cũng có thể nói như nằm mộng, cũng
có thể nói giống như hư huyễn, vì trong đó là pháp hữu vi. Trong Kinh Kim Cang
có nói :
‘’Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương, cũng như điện
Nên quán chiếu như thế.’’
Cho nên nói : ‘’Như mộng như huyễn như bọt nước - Hãy quán
như sương cũng như điện.’’ Giống như sương vào buổi sáng, cũng như điện quang,
như lửa đá, đều không lâu bền, nên nghiên cứu như thế, cho hết lẽ hết tính.
39. Nam mô bà già bà đế.
Kệ :
Vô vọng tự tại đại định trung
Sí thạnh trí cụ chiếu Phạm cung
Đoan nghiêm oai nghi tam thiên giới
Cát tường như ý bất lão tùng.
Tạm dịch :
Không vọng tự tại trong đại định
Ðuốc trí sáng rực chiếu Phạm cung
Ðoan nghiêm oai nghi ba ngàn cõi
Cát tường như ý tùng xanh mãi.
Giảng giải: Không có vọng tưởng tức là tự tại, có vọng tưởng
thì không tự tại. Nếu tự tại thì ở trong định quang minh.
‘’Ðuốc trí sáng rực chiếu Phạm cung.’’ Ðuốc trí huệ chiếu
sáng Thiên cung. Ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp không thể sánh với sự
đoan nghiêm này, là sự tôn kính nhất của chúng sinh trong ba ngàn thế giới. Thứ
đoan nghiêm này tức có ba ngàn oai nghi và ba trăm lễ nghi, được như thế thì sẽ
như ý cát tường.
‘’Cát tường như ý tùng xanh mãi.’’ Giống như cây tùng vĩnh
viễn xanh tươi, nếu muốn nói tỉ mỉ thì nói không hết, bây giờ chỉ lược nói một
chút.
40. Ma ha ca ra
da.
Kệ :
Đại Phạm Thiên
Vương danh Đại Bi
Cứu hộ nhất thiết
chúng sinh quy
Tứ tí tam nhãn
quán tà chánh
Thưởng thiện phạt
ác thủ pháp đồng.
Tạm dịch :
Ðại Phạm Thiên
Vương tên Ðại Bi
Cứu hộ tất cả
chúng sinh quy
Bốn tay ba mắt
quán chánh tà
Thưởng thiện phạt
ác rất công minh.
Giảng giải : Ðây
là Ðại Phạm Thiên chúng của trời Ðại Phạm Thiên, gồm có phương đông, phương
tây, phương nam, phương bắc, trong đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Ðại
Bi, rất là từ bi, lại có một vị tên là Cứu Hộ Tất Cả, cho nên nói ‘’Ðại Phạm
Thiên Vương tên Ðại Bi - Cứu hộ tất cả chúng sinh quy.’’ Vị trời đó thấy chúng
sinh đi sai đường thì bèn nghĩ cách dạy họ trở lại, đừng lầm vào đường tà.
‘’Bốn tay ba mắt
quán chánh tà.’’ Nếu ai làm việc tốt, thì vị ấy thưởng cho họ, ai làm việc ác
thì phạt họ.
41. Địa rị bát lặc
na.
Kệ :
Quang minh biến
chiếu đại dũng vương
Bất không trí huệ
lộ chân thường
Nhiên Đăng cổ Phật
quyền thị hiện
Phổ nhiếp quần cơ
nhập pháp đường.
Tạm dịch :
Quang minh chiếu
khắp vua đại dũng
Bất không trí huệ
lộ chân thường
Nhiên Ðăng Cổ Phật
thị hiện ra
Nhiếp khắp quần
sinh vào Pháp Ðường.
Giảng giải: Ðây
cũng là Ðại Phạm Thiên. Ðịa Lị dịch là "Thâm dũng". Quang minh của Ðại
Phạm Thiên Vương chiếu khắp mười phương pháp giới, cũng là một vị vua đại dũng
mãnh.
‘’Bất không trí
huệ lộ chân thường.’’ Vị ấy có đại trí huệ, đều trên đạo chân thường, chân thường
tức là cảnh giới "tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên".
‘’Nhiên Ðăng Cổ
Phật thị hiện ra.’’ Vua đại dũng mãnh nầy là hiện thân của Nhiên Ðăng Cổ Phật.
‘’Nhiếp khắp quần
sinh vào Pháp Ðường.’’ Vị ấy nhiếp thọ khắp hết thảy chúng sinh vào trong Phật
pháp đường. Họ có thời nhận thức được chân lý, có lúc không nhận thức được chân
lý. Phật pháp tức là chân lý, nhận thức là sinh tâm tín ngưỡng. Không nhận thức
tức không sinh tâm tín ngưỡng. Nhận thức đều là những người có trí huệ. Không
nhận thức là vì bị vô minh che đậy, thấy được Phật pháp cũng không nhận thức,
đây là đạo lý nhất định.
42. Già ra tỳ đà
ra.
Kệ :
Thiên binh thiên
tướng dũng mãnh quân
Tảo đãng quần tà
trấn yêu khí
Pháp giới trừng
thanh công đức đại
Vệ hộ chánh giáo
vĩnh xương hưng.
Tạm dịch :
Binh trời tướng
trời đều dũng mãnh
Quét sạch quần tà
trấn yêu khí
Pháp giới trong sạch
công đức lớn
Hộ vệ chánh giáo
hưng thịnh mãi.
Giảng giải: Ðây
là binh trời tướng trời, quân đội trên trời. ‘’Quét sạch quần tà trấn yêu
khí.’’ Trên trời tại sao vẫn cần binh trời tướng trời ? Vì trên trời có A Tu La
và thiên ma ngoại đạo, chúng có phước trời, nhưng không có đức, muốn tác chiến
với trời Ðế Thích. Binh trời tướng trời dùng để bảo hộ trời Ðế Thích, quét sạch
quần ma, trấn áp yêu khí.
‘’Pháp giới trong
sạch công đức lớn.’’ Binh trời tướng trời quét trừ yêu ma trong thế giới được
công đức rất lớn.
‘’Hộ vệ chánh
giáo hưng thịnh mãi.’’ Bảo vệ Phật pháp luôn luôn được hưng thịnh. Câu Ca La
này là năm anh em trời, năm anh em trời này có năm luồng quang minh. A Ca La dịch
là màu trắng, A La Na dịch là màu đỏ, Ca La dịch là màu đen, Vĩnh Già dịch là
màu xanh, Kiền Ðà La dịch là màu vàng, tức thành năm thứ đại công đức quang
minh vân thiên. Trong tập Ðà La Ni nói Tỳ Ma La là hiện thân của Ðức Phật Vô
Ưu.
43. Ba noa ca ra
da.
Kệ :
Tứ trực công tào
tuần thế gian
Quán sát thiện ác
quá bất thiên
Niên nguyệt nhật
thời tử tế kí
Nhân quả báo ứng
hào phát đoan.
Tạm dịch :
Bốn trị công tào
tuần thế gian
Quán sát thiện ác
chẳng vị ai
Năm tháng ngày giờ
nhớ rõ ràng
Nhân quả báo ứng
chẳng sai lầm.
Giảng giải : Bốn
trị công tào là : Năm này, tháng này, ngày này và giờ này, đây là tứ trị công
tào đều đi tuần tra thế gian.
‘’Quán sát thiện
ác chẳng vị ai‘’. Thấy người làm thiện, người làm ác, rất công bằng không có
biên kiến.
‘’Năm tháng ngày
giờ nhớ rõ ràng’’, họ nhớ rất rõ ràng tại đâu, năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ
nào ?
‘’Nhân quả báo ứng
chẳng sai lầm.’’ Nhân thiện kết quả thiện, nhân ác kết quả ác, quả báo tơ hào
không sai lầm, rất công đạo, rất chánh trực.
Câu Ba Noa này dịch
là "Cứu kính". Ca Ra Da dịch là "Năng tác", tức là chuyên
làm việc tứ trị công tào chuyên thưởng phạt thiện ác người thế gian.
44. A địa mục đế.
Kệ :
Vô năng áp nghĩa thiện tư duy
Tam Thập Tam Thiên đẩu hung oai
Tứ đại bộ châu ngỗ nghịch giả
Ác báo nan đào đoạ luân hồi.
Tạm dịch :
Vô năng áp và thiện tư duy
Tam Thập Tam Thiên đại anh hùng
Bốn đại bộ châu kẻ ngũ nghịch
Ác báo khó tránh đọa luân hồi.
Giảng giải : Ý nghĩa A Ðịa Mục Ðế là "vô năng áp",
hoặc nghĩa là "thiện tư duy".
‘’Vô năng áp và thiện tư duy.’’ Vô năng áp tức là không thể
che đậy, không thể che đậy trí huệ của họ.
‘’Tam Thập Tam Thiên đại anh hùng.’’ Họ ở trên trời Tam Thập
Tam là đại anh hùng rất là oai phong.
‘’Bốn đại bộ châu kẻ ngũ nghịch.’’ Bốn đại bộ châu là Ðông
Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Câu Lưu Châu, trong
bốn châu thiên hạ nầy, những kẻ không hiếu thuận và ngỗ nghịch thì ‘’Ác báo khó
tránh đọa luân hồi.’’ Phàm là kẻ ngỗ nghịch với cha mẹ, hoặc không kính sư trưởng
đều làm ngạ quỷ, hay đọa vào địa ngục, hoặc làm súc sinh. Luân hồi có ba đường
lành và ba đường ác. Ba đường lành là trời, người, A tu la. Ba đường ác là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba đường ác thì thọ ác báo, thọ khổ.
45. Thi ma xá na nê.
Kệ :
Bảo kế hoả đảnh đại thiên thần
Phụng hành thập thiện tích công huân
Quỷ tiên linh vật lai chiêm lễ
Cung hành thực tiễn nhân quả chân.
Tạm dịch :
Bửu kế hỏa đảnh đại thiên thần
Tu hành thập thiện tích công đức
Quỷ tiên linh vật đến lễ bái
Cung hành thực tiễn nhân quả chân.
Giảng giải : Thi Ma Xá Na Nê dịch là "Bảo kế", lại
dịch là "Hỏa đảnh", đây là một vị thiên thần trên trời, tại sao vị ấy
đắc được tướng "bảo kế hoả đảnh" ? Vị vị đó phụng hành thập thiện,
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt,
không nói hai lưỡi, không chửi mắng, một chút tham sân si cũng chẳng có.
"Tu hành thập thiện tích công đức". Tích tập từng
chút từng chút công đức, lâu dần sẽ thành nhiều, cho nên "Quỷ tiên linh vật
đến lễ bái". Tất cả quỷ thần, tất cả chư tiên và tất cả những linh vật đều
đến chiêm ngưỡng lễ bái vị thần bảo kế hoả đảnh nầy.
"Cung hành thực tiễn nhân quả chân". Vị đó làm việc
gì cũng đều hết lòng, rất nhận chân và cung hành thực tiễn đối với nhân quả, một
chút cũng không dám bất cẩn, cho nên vị ấy có oai đức và tướng tốt bảo kế nầy.
Trong Chú Lăng Nghiêm bao quát hết thảy Thiên chúng thần,
chúng tướng trời, chúng công tào, tất cả Thiên Vương Thánh hiền, Phật Bồ Tát A
La Hán, khi chúng ta tụng Chú nầy, thì tất cả quỷ thần đều phải cung cung kính
kính, giữ quy cụ. Vì đó đều là tên của Vua Quỷ Thần, khi chúng nghe đến tên Vua
Quỷ Thần, thì đều tuân theo quy cụ phép tắc, không dám làm càn. Thường thường đắc
được đại cảm ứng, thế giới cũng không có tai nạn. Cho nên sức lực của Chú Lăng
Nghiêm thật là không thể nghĩ bàn.
Hiện tại chúng ta dùng câu văn rất nông cạn để diễn đạt một
phần ý nghĩa trong vạn phần của Chú Lăng Nghiêm. Tuy nhiên chỉ có một phần
trong vạn phần, nhưng bạn đừng ngại hãy cố gắng ghi nhớ, vì chỉ có chút chút mà
có thể minh bạch được nhiều. Giảng Chú Lăng Nghiêm, đây là lối giảng pháp chưa
từng có. Hy vọng mọi người hiểu chỗ diệu của Chú Lăng Nghiêm. Như vậy thì thế
giới sẽ bình an, cho nên hiện nay chúng ta giảng chú Lăng Nghiêm cũng là di
chuyển tai nạn của thế giới.
46. Bà tất nê.
Kệ :
Sở hướng vô địch hiệu thắng quân
Bất chiến mà hàng khí giáp binh
Dĩ đức phục nhân nhị tai hoạ
Vọng phong phi ma hộ an bình.
Tạm dịch :
Hướng đến vô địch hiệu thắng quân
Không đánh mà hàng bỏ binh giáp
Lấy đức phục người dứt tai họa
Quét sạch kẻ thù sẽ thái bình.
Giảng giải : Bà Tất Ni dịch là "Thắng quân", lại dịch
là "ngoại đạo". Ngoại đạo ở cõi Trời Vô Tưởng, nơi đó đều chẳng có việc
gì, nên tìm việc làm. Có quân đội gọi là thắng quân, là nhóm chúng Thiên thần,
giống như đội du kích ở trên trời, đội du kích này đến đâu thì thắng đến đó, bất
cứ đến đâu cũng nhất định thắng lợi. Hướng đến vô địch, chỉ cần cờ của quân đội
đến đâu, thì quân đội kia đánh không lại.
‘’Hướng đến vô địch hiệu thắng quân.’’ Quân này gọi là
"thường thắng quân đội", bất cứ lúc nào cũng không bị thua.
‘’Không đánh mà hàng bỏ binh giáp.’’ Không đánh mà hàng có
hai ý nghĩa, một là cứ đánh cho đối phương thua bại, thì nào mũ giáp, đao
thương, kiếm kích, vứt bỏ mà chạy. Ðây gọi là bỏ binh giáp mà chạy, hoặc chạy
khoảng một trăm dặm thì hạ trại, hoặc năm mươi dặm thì hạ trại. Binh chạy năm
mươi dặm thì cười quân đội chạy một trăm dặm vô dụng quá, chạy xa như thế, bạn
xem tôi chỉ chạy năm mươi dặm. Năm mươi dặm cười trăm dặm, nói quân đội không
có nhuệ khí chiến đấu, không đủ dũng cảm. Lấy năm mươi dặm cười trăm dặm. Bạn
nói nên hay chăng ? Có đúng chăng ? Ðều là bỏ chạy, chỉ là chạy chậm một chút,
sao lại cười người chạy xa không có gan ! Ðây là không đánh mà hàng bỏ binh
giáp. Ngoài ra còn có lối nói khác, bổn thân của bạn quân đội thường thắng, một
khi đi đến đâu là vô địch đến đó, đối phương một khi nghe "quân đội thường
thắng" đến thì bèn bỏ giáp mà chạy. Bỏ binh giáp tức là cởi mũ giáp, buông
đao thương xuống hết mà bỏ chạy, đó là đối phương hướng bạn đầu hàng, không
đánh mà hàng bỏ binh giáp. Bỏ binh giáp lại có hai ý nghĩa là bỏ giáp mà chạy,
buông vũ khí xuống đầu hàng, nghe bạn chỉ huy.
‘’Dùng đức phục người dứt tai họa.’’ Quân đội này phải lấy đức
đối đãi với người, chứ không phải dùng sự đánh ngưng đánh, dùng tinh thần thượng
võ giết càng nhiều càng tốt, cho nên đánh tranh giành đất đai, thì giết người đầy
đồng, đánh lấy thành thì giết người đầy thành, dùng sự giết người để so tài thì
không đúng. Cho nên binh lính không đầu rơi máu đổ khắp nơi, mọi người đều dựng
cờ trắng đầu hàng, dùng đức hạnh để xử lý quân đội, đừng dùng sự giết người làm
tài năng, đừng giống như đại tướng Bạch Khởi nước Tần, chôn sống hai mươi vạn
quân đầu hàng của nước Triệu trong một hố lớn rộng mấy mẫu. Cho nên tướng Bạch
Khởi cho đến bây giờ còn thọ quả báo địa ngục, súc sinh, còn làm heo, vì y quá
tàn nhẫn, cho nên phải lấy đức đãi người, thì mới dứt tai họa, tiêu diệt tai họa
của thế giới.
‘’Quét sạch kẻ thù sẽ thái bình.’’ Nếu lấy đức đãi người thì
kẻ địch bị tiêu diệt bỏ binh giáp đầu hàng, thế giới sẽ được thái bình.
47. Ma đát rị dà
noa.
Kệ :
Vân đồng mộc mẫu ngự
phong hành
Thiểm điện phích
lịch tỉnh quý lung
Vạn vật tịnh tác
nguyên vô sự
Chân tục hổ dụng
bổn viên thông.
Tạm dịch :
Mây đồng mẹ gỗ ngự
phong hành
Ðiện sẹt sấm sét
tỉnh mù điếc
Vạn vật tịnh tác
nguyên vô sự
Chân tục cùng dụng
vốn viên thông.
Giảng giải:
"Mây đồng mẹ gỗ ngự phong hành". Ma Nạp Phược Ca dịch là "mây đồng",
Ma Ðát Lý Ca dịch là "bổn mẫu", tôi cả gan sửa lại thành mộc mẫu (mẹ
gỗ), vì mây đồng mẹ gỗ đều thuộc về đằng vân giá vũ ở trên trời. Nếu nói là bổn
mẫu thì hình như không hợp với ý nghĩa mây đồng. Mây đồng thuộc về kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ, ngũ hành biến hóa. Nói tóm lại câu Chú nam nữ trời này, cũng có thể
nói là mây đồng, cũng có thể nói là bổn mẫu, cả hai lối dịch đều được. Lối dịch
này không dịch hết hoàn toàn ý nghĩa, cho nên tôi không màng đúng hay không, dịch
nó thành bổn mẫu, vì nam nữ trời này, dùng danh từ mộc mẫu (mẹ gỗ) chẳng có giảng
pháp gì. Lúc trước giáo sư họ Ngô nói Kinh Hoa Nghiêm là bổn mẫu, đó là Kinh
Hoa Nghiêm, nhưng trong Chú Lăng Nghiêm không thể nói như thế, vấn đề học vấn
không thể lôi thôi, cũng không thể ngàn lần giống nhau, phải có trí huệ nhạy
bén.
‘’Mây đồng mẹ gỗ
ngự phong hành’’. Đi trong gió ‘’Ðiện sẹt sấm sét tỉnh mù điếc’’. Người mắt
sáng thì thấy được điện sẹt. Khi trời sấm sét thì kẻ điếc cũng nghe được, vì âm
thanh sấm sét rất lớn, cho nên làm thức tỉnh kẻ mù điếc.
‘’Vạn vật tịnh
tác nguyên vô sự.’’ Sự việc trong trời đất, sinh sinh hóa hóa, hóa hóa sinh
sinh, tự có hóa không, tự không hóa có, đó là bổn lai của một đạo lý, nguyên
lai là vô sự chẳng phải đầu lại thêm đầu cố ý tạo ra, bổn lai chẳng có sự việc
gì, vạn vật đều làm nên mà chẳng hại nhau, có đạo đều hành mà chẳng trái nhau,
vạn vật đều sống với nhau. Nếu như nói thượng đế cai quản thế gian này, chẳng
phải là mỗi sự việc đều quản, nhìn xem loài kiến như thế nào ? Loài muỗi như thế
nào ? Thượng đế chẳng quản sự việc nhiều như thế ! Sinh sinh hóa hóa, hóa hóa
sinh sinh, đây là một thứ đạo lý rất tự nhiên.
‘’Chân tục cùng dụng
vốn viên thông.’’ Chân không ngại tục, tục không ngại chân, chân tục hổ tương dụng
nhau, không tốt cũng thành tốt. Nếu không dụng nhau, thì tốt cũng biến thành
không tốt. Dụng nhau thì có thể phong hung hóa cát, ẩn xấu hiển lành, không hội
nhau thì rất nhiều tai nạn sẽ phát sinh. Không biết giữ lấy thân, hãy học theo
Gia Cát một đời cẩn thận, cho nên đạo lý này vốn là việc tốt, mà đến bên bạn mà
bạn không thể làm được, thì trở thành xấu; vốn không tốt, nếu bạn làm được nó,
thì sẽ thành tốt. Cho nên hết thảy các pháp không có pháp cố định, không có nhất
định, tức là xem bạn dụng được, hay không dụng được. Bạn phải hiểu bất cứ việc
gì, cũng đừng nhận chân chấp trước như thế, có gì để chấp trước ! Ðến khi chết,
xem bạn chết hay không, bạn chấp trước, bạn nói tôi không chết, đến lúc cũng chết
giống nhau, bạn tin chăng ? Cho nên Phật pháp là viên dung, đừng nhìn không
xuyên thủng, thật hiểu thì mọi sự đều OK.
48. Nam mô tất yết rị đa gia.
Kệ :
Năng lễ sở lễ tánh tướng không
Cảm ứng đạo giao mặc nhiên thông
Như thị quyền thật hiện Thiên chúng
Tất giai quy mạng vĩnh vô cùng.
Tạm dịch :
Kẻ lễ được lễ tánh tướng không
Cảm ứng đạo giao thảy đều thông
Như vậy quyền thực hiện chúng trời
Thảy đều quy mạng vĩnh vô cùng.
Giảng giải : Câu này ở trên đã tụng qua rồi, mà mỗi câu Chú
đều có vô lượng ý nghĩa, ý nghĩa câu nầy tức là lễ bái chư Thiên, tất cả chúng
trời, binh trời, tướng trời, chúng thiên tào, chúng nam nữ trời. Ðừng tồn tại
tâm cống cao, đều phải hướng về họ lễ bái. Cho nên nói ‘’Kẻ lễ được lễ tánh tướng
không.’’ Năng lễ là chúng ta lễ bái, sở lễ là hết thảy Thiên chúng, tánh tướng
không, tức cũng là năng lễ và sở lễ đều đừng chấp tướng, vô tướng, đừng chấp
trước nói tôi là một người năng lễ, tất cả Thiên chúng sở lễ tôi, đừng chấp trước
tánh, cũng đừng chấp trước tướng, lìa tánh vô tướng, tánh tướng đều không.
‘’Cảm ứng đạo giao thảy đều thông.’’ Tuy nhiên là không,
nhưng đừng làm tổn đức hao phước, bạn trồng nhân gì sẽ có kết quả đó, cho nên :
‘’Kính người thì người kính mình
Lễ người thì người lễ mình.’’
Bạn lễ bái tất cả chư Thiên, thì họ cũng hoan hỷ đối với bạn,
giúp đỡ bạn. Tuy nhiên giúp đỡ bạn nhưng đừng tồn tại tâm như thế, đừng nói tôi
lễ lạy thì đắc được kết quả gì, hết thảy Thiên chúng sẽ đến giúp đỡ tôi, một
khi có tâm như thế tức là chấp tướng rồi.
‘’Như vậy quyền thực hiện chúng trời.’’ Tất cả chư Thiên,
binh trời, tướng trời, Thiên tào, Thiên chúng, nam nữ trời, đều đại quyền thị
hiện ra, để duy trì quy luật của pháp giới, vì như thế cho nên phải : ‘’Thảy đều
quy mạng vĩnh vô cùng.’’ Chúng ta phải quy mạng đảnh lễ, cung cung kính kính,
không thể có tâm cống cao ngã mạn.
49. Nam mô bà già bà đế.
Kệ :
Đâu Suất hàng thế nhập mẫu thai
Xuất gia thành đạo khổ tu lai
Đại chuyển pháp luân độ quần chúng
Vô thượng bồ đề chánh pháp khai.
Tạm dịch :
Ðâu Suất giáng trần nhập thai mẹ
Xuất gia thành đạo tu khổ hạnh
Chuyển bánh xe pháp độ chúng sinh
Mở chánh pháp bồ đề vô thượng.
Giảng giải : ‘’Ðâu Suất giáng trần nhập thai mẹ.’’ Ðức Phật
Thích Ca Mâu Ni từ cung trời Ðâu Suất nội viện, đợi đến thời kỳ bèn hạ sinh xuống
nhân gian, Ngài trước hết tuyển chọn cha mẹ, ai có thể làm cha mẹ của Ngài !
Tuyển đi tuyển lại, tuyển đến xứ Ấn Ðộ vua Tịnh Phạn và Ma Gia phu nhân, Ngài cảm
thấy hai vị này đức hạnh đầy đủ. Vua Tịnh Phạn có thể làm cha của Ngài. Ma Gia
phu nhân có thể làm mẹ của Ngài. Cho nên Ngài từ Ðâu Suất nội viện hàng sinh xuống
nhân gian, nhập vào thai mẹ, trụ thai thì ở trong thai mẹ như ở trong đại lầu
các báu, lại vì chúng quỷ thần thuyết pháp, đản sinh lớn lên đi xuất gia, tu khổ
hạnh trong núi tuyết sáu năm, sau đó thành đạo dưới cội bồ đề. Ðức Phật trồng
công đức như thế mà phải chịu khổ hạnh sáu năm mới thành đạo. Bổn lai Phật tu,
hay không tu khổ hạnh đều như nhau, bất quá Ngài muốn thị hiện làm gương cho
chúng sinh. Cho nên Ngài sinh ra trong cung vua, phú quý đến cực điểm, mượn sự
giàu sang phú quý hiện hữu tu đạo không tốt chăng ? Nhưng Ngài xả bỏ ngôi vua
còn phải tu khổ hạnh trong núi tuyết sáu năm, sau đó mới đến cội bồ đề ngồi bốn
mươi chín ngày, bỗng thấy sao mai mọc mà ngộ đạo. Ngộ đạo rồi, chuyển đại pháp
luân giáo hóa hết thảy chúng sinh. Cho nên
‘’Chuyển bánh xe pháp độ chúng sinh.’’ Chuyển bánh xe pháp độ
hết thảy mọi loài chúng sinh.
‘’Mở chánh pháp bồ đề vô thượng.’’ Chuyển bánh xe pháp giáo
hóa chúng sinh, Ngài đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chánh pháp nhãn
tạng, hoằng dương chánh pháp, giáo hóa hết thảy chúng sinh, đây là con đường tu
đạo, Phật đã trải qua, chúng ta nên đặc biệt chú ý, dũng mãnh tinh tấn.
50. Đa tha già đa câu ra gia.
Kệ :
Trung ương Phật bộ Tỳ Lô tôn
Như Lai chủng tộc hoá quần luân
Phổ tu vạn hạnh
Ba La Mật
Chư pháp vô ngã
chứng viên thông.
Tạm dịch :
Chính giữa Phật bộ
đấng Tỳ Lô
Chủng tộc Như Lai
hóa quần sinh
Khắp tu vạn hạnh
Ba La Mật
Các pháp vô ngã
chứng viên thông.
Giảng giải : Ða
Tha Già Ða dịch là "Như Lai", tức cũng là Phật Bộ, Chú Lăng Nghiêm có
năm bộ, phân làm năm hướng. Chính giữa là Phât Bộ, Phật Tỳ Lô Giá Na là giáo chủ.
Phương tây là Liên Hoa Bộ, Phật A Di Ðà là giáo chủ. Phương đông Kim Cang Bộ,
Phật A Súc là giáo chủ, tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Phương nam
là Bảo Sinh Bộ, Phật Bảo Sinh là giáo chủ. Phương bắc Yết Ma Bộ, Phật Thành Tựu
là giáo chủ. Cộng thành năm bộ. Thế gian này có năm bộ giáo chủ đến quản lý và
trấn áp năm đại ma quân. Năm đại ma quân mới tuân theo quy cụ không dám quấy
phá, tuy nhiên tuân theo quy cụ nhưng chúng cứ muốn làm cho thế giới này tệ hại
từng chút từng chút.
Thế giới này có đủ
thứ tai nạn phát sinh, là do thiên ma ngoại đạo làm ra, chúng tuy nhiên sợ
thiên hạ không loạn, tuy sợ thế gian này không sớm tệ hại, nhưng năm phương Phật
trấn áp tại đó, chúng rình rình phá hoại, không dám xuất đầu lộ diện. Trên thế
gian thì Phật và ma đối lập với nhau. Phật thì giáo hóa chúng sinh sớm thành Phật
đạo, ma thì giáo hóa chúng sinh sớm thành ma đạo. Nhưng Phật là nhờ ma giúp
Ngài tu thành. Do đó, ma chính là thiện trí thức của Phật giáo đồ. Người tu đạo
cảnh nghịch đến, thì phải thuận mà thọ, nên phản diện nhận thức chỗ tốt. Chúng
ta phải cung kính Phật, cũng không phản đối ma vương. Kẻ oán người thân đều
bình đẳng. Phật ma như một, phải không có sự thương ghét, không thiện cũng
không ác. Cảnh giới này gần như nhau. Năm Bộ chú Lăng Nghiêm này về sau mới giảng
đến rõ ràng.
Câu Ra Gia dịch
là "Chủng tộc của Phật", "Chủng tộc của Như Lai", tức là Phật
giáo đồ tin Phật.
‘’Chính giữa Phật
bộ Ðấng Tỳ Lô.’’ Chính giữa là Phật bộ, thuộc về thổ (đất). Ðất hay sinh vạn vật,
đất thịnh cả bốn mùa, một năm bốn mùa đất đều thịnh vượng, Xuân hạ thu đông.
Mùa xuân thì mộc thịnh, mùa hạ thì hỏa thịnh, mùa thu thì kim thịnh, mùa đông
thì thủy thịnh. Một năm chỉ có bốn mùa sao lại có ngũ hành, phải giải thích làm
sao ? Vì thổ là chính giữa, kim mộc thủy hỏa là bốn bên, cho nên xuân hạ thu
đông là bốn mùa. Xuân thuộc mộc thịnh, hạ thuộc hỏa thịnh, thu thuộc kim thịnh,
đông thuộc thủy thịnh.
Trong bốn mùa
không có thổ lại làm thế nào ? Thổ thịnh vượng cả bốn mùa, mùa xuân ba tháng,
trong ba tháng chín mươi ngày, có thổ ở trong thì năng sinh. Mùa hạ, mùa thu,
mùa đông, đều có thổ. Cho nên chính giữa là Mậu Kỷ thuộc thổ, phương đông là
Giáp Ất thuộc mộc, phương nam là Bính Ðinh thuộc hỏa, phương tây là Canh Tân
thuộc kim, phương bắc là Nhâm Quý thuộc thủy. Ðây là ngũ hành tương sinh tương
khắc. Chính giữa Phật Bộ đấng Tỳ Lô. Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch
là "biến nhất thiết xứ".
‘’Chủng tộc Như
Lai hóa quần sinh.’’ Chính giữa là Phật Bộ. Chủng tộc của Phật đến giáo hóa hết
thảy chúng sinh.
‘’Khắp tu vạn hạnh
Ba la mật.’’ Khắp tu vạn hạnh, lục độ vạn hạnh, thập độ vạn hạnh, pháp Ba La Mật
đến bờ kia.
‘’Các pháp vô ngã
chứng viên thông ’’ đắc được các pháp vô ngã, các pháp vô thường, chứng diệu lý
viên thông, hết thảy đều viên dung vô ngại.
No comments:
Post a Comment