Từ câu 76 đến câu 100
Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
76. Tam bổ sư bí
đa.
Kệ :
Phổ biến nhất thiết
thù thắng quang
Thượng chí Hữu Đảnh
hạ vô hương
Xuẩn động hàm
linh quân mông độ
Phát bồ đề tâm kiến
đạo tràng.
Tạm dịch :
Quang minh thù thắng
chiếu khắp cả
Trên đến Hữu Ðảnh
dưới địa ngục
Hết thảy hàm linh
đều được độ
Phát tâm bồ đề lập
đạo tràng.
Giảng giải : Tam
Bổ tức là "Khắp cả". Quang minh thù thắng tức là quang minh của Phật
rất thù thắng, siêu quá tất cả quang minh khác.
‘’Quang minh thù
thắng chiếu khắp cả.’’ Khắp cả tức là khắp pháp giới, không có một nơi nào mà
quang minh của Phật không chiếu đến.
‘’Trên đến Hữu Ðảnh
dưới địa ngục.’’ Trên thì chiếu đến trời Hữu Ðảnh, dưới thì chiếu đến địa ngục
vô gián.
‘’Tất cả hàm linh
đều được độ.’’ Hàm linh có nhiều loài không có trí huệ, chỉ biết chạy nhảy, một
chút trí huệ, tri thức cũng chẳng có, rất là ngu si. Hàm linh không nhất định
có linh tính, nhưng chúng có chút chút, chỉ có một chút chút, ẩn chứa trong đó.
Hàm linh gọi là gì ? Ví dụ như gạo chúng ta ăn, nhìn xem rất là sạch, chẳng có
một sinh vật nào trong đó, nhưng nếu bạn để vào nơi nào đó không chú ý đến, hoặc
có sự ẩm ướt, hoặc có một chút nhân duyên nào đó, thì gạo sẽ sinh ra sâu mọt.
Có sâu mọt sinh ra đó là hàm linh. Trong gạo nhất định có hàm linh, bất quá
chúng không hiện ra, đến khi bạn nấu chín rồi thì hàm linh đều chết hết, không
còn. Nhưng nếu bạn đem cơm chín để vào nơi nào đó, thời gian lâu lại sinh ra một
thứ sinh vật, tế khuẩn, tiểu trùng. Lại ví như khuẩn trà, khuẩn trà nguyên lai
gì cũng chẳng có, chỉ một khối khuẩn, nó lớn dần, lại chua, đó là một thứ trùng
phát triển lớn dần trong đó. Ðó đều là hàm linh.
‘’Hết thảy hàm
linh đều được độ’’, đều bị quang minh chiếu đến, khiến cho nghiệp chướng đều
tiêu trừ, căn lành của họ sẽ tăng trưởng, từ chúng sinh nhỏ đi làm chúng sinh lớn,
lại có thể tu hành, thì có thể sẽ thành Phật, cho nên đều có thể độ, phát bồ đề
tâm kiến lập đạo tràng. Chúng ta là người hiểu Phật pháp, cứ làm Phật sự như
trăng dưới nước, cũng giống như trăng sáng trong nước, chỉ có bóng mà không có
hình. Nhưng chúng ta lập đạo tràng không nhất thiết phải có tâm nói rằng tôi lập
đạo tràng, có nhiều công đức, đừng có tâm như thế, lập đạo tràng phát bồ đề
tâm, đây là bổn phận của mình, hành sở vô sự đừng chấp trước hình tướng.
77. Tát lân nại
ra lặc xà gia.
Kệ :
Nam Mô Sa La Thụ
Vương Phật
Kiên cố tinh
chuyên lập công đức
Lục độ vạn hạnh
viên mãn nhật
Năng sử tử giả biến
thành hoạt.
Tạm dịch :
Nam Mô Sa La Thụ
Vương Phật
Kiên cố tinh
chuyên lập công đức
Lục độ vạn hạnh
được viên mãn
Sẽ khiến kẻ chết
biến sống lại.
Giảng giải : Ðây
là "Sa La Thụ Vương Phật" cho nên nói Sa La Thụ Vương Phật. Sa La Thụ
dịch là "Kiên cố", kiên cố thì không lay chuyển, ngàn ma không đổi, vạn
ma không lùi. Tinh chuyên, tinh tức là tinh tế, chuyên là chuyên nhất, lập công
đức, phải làm đủ thứ việc tốt.
‘’Lục độ vạn hạnh
được viên mãn.’’ Tu lục độ, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ. Vạn hạnh mà tu được viên mãn, thì dù người chết, bạn muốn kêu họ sống
lại, thì họ sống lại, đó là sự thần thông diệu dụng, bạn nói sao thì được như
thế, vì bạn tu chưa thành, chưa thấy qua, cho nên cho rằng không thể được, nếu
bạn tu thành tựu lục độ vạn hạnh viên mãn, thì không những có việc này, mà còn
có thể toại tâm như ý tất cả mọi sự việc.
78. Đa tha già đa gia.
Kệ :
Kiền thành khẩn thiết niệm niệm chân
Phổ lễ Như Lai chúng môn nhân
Chuyên nhất bất nhị cầu thâm nhập
Viên thành giác đạo hiện pháp thân.
Tạm dịch :
Kiền thành khẩn thiết niệm niệm chân
Khắp lễ Như Lai chúng môn đồ
Chuyên nhất không hai cầu thâm nhập
Viên thành giác đạo hiện pháp thân.
Giảng giải: Ðây là "Phổ lễ tất cả môn đồ của Phật",
chúng ta nên lễ khắp các đức Phật, chúng ta kính Phật thì phải trọng Tăng. Người
tin Phật không thể một bên tin Phật, một bên tạo nghiệp, phải tinh thuần lại
tinh thuần. Về mặt tín ngưỡng phải chánh tín, không mê tín, không tà tín, không
tin lệch lạc. Tà tín tức là không tin chánh pháp, mà tin bàn môn tả đạo. Tin lệch
lạc tức là tin một cách mơ hồ, nói lý luận không đúng đắn, lệch lạc về một bên,
ngoan cố không sửa đổi, y nhận rằng y là đúng. Chánh tri chánh kiến là không có
tâm kiêu ngạo, không có tâm cống cao ngã mạn. Tà tín, mê tín và tin lệch lạc đều
có tư tưởng cống cao ngã mạn trong đó, hoặc có người nghe nói một chữ ‘’mật‘’
liền bị thu hút theo, cho rằng bí mật nhất định là tốt, cho nên Phật giáo đại
thừa phải lễ khắp tất cả môn nhân của Như Lai, tận hư không biến pháp giới tất
cả đệ tử đều đảnh lễ, chẳng phải nói chỉ lạy Phật, còn đệ tử của Phật thì khinh
khi, nên cung kính đối với hết thảy đệ tử của Phật. Cho nên nói kính Phật thì
trọng Tăng. Ví dụ như bạn nói tôi kính sư phụ, tin sư phụ, nhưng không kính đồ
đệ của sư phụ, nếu bạn không cung kính đồ đệ của sư phụ, thì cũng như không
cung kính sư phụ. Nếu bạn cung kính sư phụ thì cũng phải cung kính đệ tử của sư
phụ. Cho nên nói : ‘’Chí thành khẩn thiết niệm niệm chân.’’ Chí thành thì một
chút giả dối cũng không có, rất khẩn thiết thì tơ hào cũng không lôi thôi, mỗi
một niệm đều dùng chân tâm, không dùng tâm hư ngụy, không dùng tâm tà tri tà kiến,
không dùng tâm lệch lạc, không dùng tâm mê tín, niệm niệm đều dùng chân tâm.
‘’Khắp lễ Như Lai chúng môn đồ.’’ Ðảnh lễ khắp hết thảy đệ tử
của Phật, như vậy mới là Phật tử chân chánh, mới là chân chánh cung kính Tam bảo.
‘’Chuyên nhất không hai cầu thâm nhập.’’ Tâm cung kính phải
chuyên nhất không hai, không có tâm thứ hai, phải một ngày so với một ngày chân
thật hơn.
‘’Viên thành giác đạo hiện pháp thân.’’ Khi bạn khai ngộ, chứng
được bồ đề giác đạo thì pháp thân sẽ hiện ra.
79. A ra ha đế.
Kệ :
Chí thành chí thành cánh chí thành
Cung kính cung kính phục cung kính
Phổ lễ ứng chân chúng vương tộc
Cứu kính Cực Lạc liên hoa sinh.
Tạm dịch :
Chí thành, chí thành lại chí thành
Cung kính, cung kính lại cung kính
Lễ khắp ứng chân chúng vương tộc
Rốt ráo Cực Lạc hoa sen sinh.
Giảng giải: ‘’Chí thành, chí thành lại chí thành.’’ Phải chí
thành, đừng có chút tâm cầu danh lợi giả dối nào xen vào, hoặc muốn cho người
khác xem mình thành tâm ra sao, xem mình là thật tu hành.
‘’Cung kính, cung kính lại cung kính - Lễ khắp ứng chân
chúng vương tộc‘’. Ứng chân tức là hiện thân của Phật, giáo hóa hết thảy chúng
sinh, hoặc hiện thân vua… Lễ khắp tất cả ứng chân vương tộc, lâu dần thì sẽ
thành tựu.
’’Rốt ráo Cực Lạc hoa sen sinh.’’ Sẽ đắc được Cực Lạc cứu
kính, sẽ hiện ra pháp thân bổn thể với Phật không hai không khác.
Ðộ người cũng đừng dụng tâm thái quá, nếu muốn độ người
không có niềm tin không phải dễ, sẽ gặp những người kỳ quái về tinh thần. Như
Tôn Giả Bạc Câu La trong tiền kiếp, phát nguyện độ mẹ của Ngài, khi Ngài sinh
ra thì ngồi kiết già, mẹ của Ngài cho rằng sinh ra quái vật, liền muốn thiêu chết
Ngài, nấu chết Ngài, nhận nước chết Ngài, nhưng làm cách nào cũng không chết,
vì Ngài tiền kiếp giữ giới không sát sinh, được quả báo năm thứ không hại chết
được.
80. Tam miệu tam bồ đà gia.
Kệ :
Quy mạng Chánh Giác Phật Thế Tôn
Tam Bảo từ bi đại oai thần
Nhất thiết hiền Thánh giai cung kính
Công viên đức mãn chứng trí thông.
Tạm dịch :
Quy mạng Chánh Giác Phật Thế Tôn
Tam Bảo từ bi đại oai thần
Tất cả hiền Thánh đều cung kính
Công đầy quả tròn chứng trí thông.
Giảng giải : Câu Chú này vẫn là "Quy mạng tất cả Chánh
Giác Phật Thế Tôn". Quy là tâm có chỗ trở về, có chỗ nương tựa. Mạng tức
là mạng sống, đem mạng sống của chúng ta ký thác cho Phật Chánh Giác. Chánh
Giác thì chẳng phải là tà giác. Tà giác cũng rất thông minh, có chút trí huệ,
nhưng đi vào đường tà, đi vào con đường bàn môn tả đạo, tà tri tà kiến, hành vi
bất chánh. Chúng ta quy y Chánh Giác Phật. Phật là do tự mình tu thành, chẳng
phải hoàng đế xưng Ngài là Phật.
Một số người vô tri thức, không hiểu Phật pháp, khoa trương
nói tự mình đã thành Phật hoặc nói Ngọc Hoàng Ðại Ðế phong cho y là Phật, mà ý
nghĩa Phật đều không hiểu, sao gọi là Phật ? Có những ngoại đạo công nhiên nói
họ cũng là Phật, không sai, Phật rất nhiều, nhưng chẳng phải loại người đó có
thể thành Phật. Loại người đó cho rằng Phật là nhờ người khác phong, đó đều là
tà thuyết ngoại đạo.
Phật là nửa chữ Phạn ngữ, đầy đủ gọi là Phật Ðà Gia vì người
Tàu thích gọi tắt cho nên chỉ gọi một chữ Phật, dịch là "Giác giả",
giác có ba loại là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Giác tha tức là dùng
những đạo lý mình đã hiểu, khiến cho kẻ khác cũng hiểu. Tự giác trong Nho giáo
là minh minh đức, đem đức hạnh của mình hiện ra quang minh, minh mà lại minh, bổn
hữu trí huệ quang minh lộ ra. Giác tha tức là dùng đức hạnh minh minh đức của
mình giáo hóa kẻ khác, khiến cho họ cũng minh minh đức đạt đến mức chí thiện, đến
chí thiện rồi tức là giác hạnh viên mãn. Cho nên Phật giáo và Nho giáo danh từ
tuy không giống nhau, nhưng nghĩa lý là một, nhưng Nho giáo chỉ là lý luận mà
không có chứng đắc. Phật giáo không những minh bạch nghĩa lý, mà còn chứng đắc
lý thể thực tế. Trí huệ chân thật chẳng phải là thiền ở đầu miệng, chẳng phải
là một thứ lý luận. Nho giáo là diễn thuyết gia, giảng rất giỏi. Phật giáo là
thực hành gia, cung hành thực tiễn, làm một cách chân thật, không chú trọng thiền
ở đầu miệng. Ðây là chỗ khác nhau giữa Nho giáo và Phật giáo, trên thực tế quy
nạp đạo lý lại với nhau thì là một.
Tự giác tức là A
La Hán khác với phàm phu. Phàm phu thì không giác, A La Hán là tự giác, tự mình
minh bạch, nhưng chỉ mình minh bạch chứ không giáo hóa kẻ khác minh bạch. Nếu
đem đạo lý này giáo hóa kẻ khác, thì gọi là giác tha. Giác tha tức là Bồ Tát, Bồ
Tát chính mình tốt rồi, hoan hỷ người khác cũng tốt, cho nên Bồ Tát không sợ
phiền não, luôn luôn đi giáo hóa kẻ khác. Bồ Tát giáo hóa kẻ khác, cũng có lúc
viên mãn, cũng có lúc chưa được viên mãn. Giống như bạn muốn đi đến Nữu Uớc, bước
thứ nhất bắt đầu là giác tha, đợi khi nào bạn đến Nữu Ước, đi hết con đường này
thì là giác mãn. Giác cũng viên mãn, hạnh cũng viên mãn. Giác hạnh viên mãn thì
thành Phật. Phật và hàng nhị thừa khác nhau, nhị thừa chỉ tự giác, mà không
giác tha. Phật và Bồ Tát khác nhau. Bồ Tát chỉ giác tha mà chưa được giác mãn.
Phật thì giác hạnh viên mãn, cho nên nói : ‘’Quy mạng Chánh Giác Phật Thế
Tôn.’’ Thế Tôn là tôn quý nhất trong thế gian.
‘’Tam Bảo từ bi đại
oai thần.’’ Phật Pháp Tăng gọi là Tam Bảo. Tam Bảo là tôn quý nhất trong thế
gian. Muốn học Phật pháp thì trước phải hiểu Phật pháp, muốn hiểu Phật pháp thì
phải quy y Tăng, pháp nhờ Tăng truyền, cho nên phải quy y Tăng. Tam Bảo : Phật
bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, công đức giống nhau, đều tôn quý giống nhau, cho nên
Chú Lăng Nghiêm bắt đầu là : ‘’Nam Mô Tát Ðát Tha, Tô Già Ða Gia, A La Ha Ðế,
Tam Miệu Tam Bồ Ðà Toả.’’ Ðây là quy mạng tận hư không biến pháp giới, mười
phương ba đời vô tận thường trụ Tam bảo Phật Pháp Tăng. Vì khi bạn xưng Phật
Pháp Tăng Tam Bảo, thì trong hư không khắp pháp giới quyến thuộc của Phật, quyến
thuộc của ma, quyến thuộc của chư thiên, quyến thuộc của loài người đều một
lòng cung kính phát tâm đại bồ đề. Do đó tín ngưỡng Tam Bảo nên nhớ đừng hủy
báng Tam Bảo, hủy báng Tăng tức là hủy báng Phật, hủy báng Pháp tức là hủy báng
Phật, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp trong cửa Phật, thiện ác xen tạp, biết
tin Phật là có căn lành, nhưng lại hủy báng Tăng liền trồng xuống nhân địa ngục,
tuyệt đường bồ đề, mở cửa địa ngục.
Người học Phật bất
cứ thế nào, không thể tùy tiện hủy báng Tam Bảo. Tam Bảo từ bi, Phật bảo từ bi,
Pháp bảo từ bi, Tăng bảo từ bi, hết thảy Thánh hiền không thấy lỗi lầm của chúng
sinh, nhưng bạn tạo tội nghiệp, thì chính bạn thọ quả báo, chứ không phải Tam Bảo
trừng trị tội của bạn, kêu bạn thọ quả bào, mà là bạn ở trong Phật giáo cứ làm
những việc thiện ác hỗn tạp, lại gieo nhân lành, lại trồng nhân ác, tại nhân địa
không chân thật thì quả chiêu lại sẽ cong vạy, cho nên quả báo đến rất là thống
khổ.
Ðại oai thần là
nói Tam bảo đều từ bi, có đại oai thần quay càn chuyển khôn, khởi tử hồi sinh,
dời núi lấp biển. Có thể đem thế giới phương đông chuyển đến phương tây, đem thế
giới phương tây chuyển đến phương đông. Chuyển thế giới phương nam đến phương bắc,
thế giới phương bắc chuyển đến phương nam, có thể hổ tương di chuyển các thế giới
nhiều như số hạt bụi, bất quá người trong quả địa cầu này giống như con kiến
trên một chiếc thuyền lớn, chẳng biết thuyền đi đến đâu. Con kiến ngồi trên
thuyền trong biển phiêu lưu, chẳng biết đến nơi nào. Con người ở trong hư không
cũng như con kiến ở trên thuyền. Quả địa cầu của chúng ta tựa như chiếc thuyền ở
trong hư không, trôi lại trôi đi, chúng ta gì cũng đều không biết. Bạn nói hiện
tại khoa học nghiên cứu gì cũng đều biết được, tốt ! Tôi hỏi bạn có biết bạn ăn
bao nhiêu hạt gạo chăng ? Có biết lông mi trên mắt có bao nhiêu sợi chăng ? Có
bao nhiêu sợi tóc ? Có bao nhiêu lỗ chân lông chăng? Nếu bạn nói biết, thì biết
cũng là một thứ đại khái ước lượng mà thôi. Ðại oai thần lực là không thể nghĩ
bàn. Cho nên người học Phật thấy tất cả hiền Thánh đều cung kính, trồng phước
trước cửa Tam Bảo, tu phước cầu phước.
‘’Công tròn phước
đầy chứng trí thân.’’ Công thì phải lập, lập công chẳng phải nói bạn nên làm
thì đi làm, không nên làm thì không làm, bất cứ việc thiện gì đều phải tận lực
đi làm mới là công, lập công lập nhiều rồi thì thành đức, công đầy đức tròn,
công cũng không thiếu không thừa, đức cũng được tối viên mãn thì sẽ chứng được
thân trí huệ, hiển lộ đại quang minh tạng, đắc được thân trí huệ, tất cả đều là
trí huệ, tất cả đều là quang minh.
81. Nam Mô Bà Già
Bà Ðế.
Kệ :
Bạt Già lục nghĩa
cố bất phiên
Diệu Giác Như Lai
biến tam thiên
Tự tại cát tường
du pháp giới
Kiến tướng văn
danh tận siêu phàm.
Tạm dịch :
Bạt Già sáu nghĩa
nên không dịch
Diệu giác Như Lai
khắp các cõi
Tự tại cát tường
du pháp giới
Thấy tướng nghe
danh tận siêu phàm.
Giảng giải: Bạt
Già Phạm có sáu nghĩa nên không dịch, vì người dịch không có danh từ thích
đáng, cho nên giữ lại tiếng Phạn.
‘’Diệu giác Như
Lai khắp các cõi.’’ Diệu giác, Như Lai đều là danh từ chỉ cho đức Phật. ‘’Biến
tam thiên.’’ Ngài đi khắp cùng pháp giới, vô tại vô bất tại, nơi nào có chúng
sinh, thì nơi đó có Phật, nơi nào có Phật, thì nơi đó có chúng sinh. Phật thì
khắp cùng tất cả mọi nơi, cho nên nói là khắp tam thiên.
Tam thiên tức là
ba ngàn đại thiên thế giới. Một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn đại
châu gọi là một thế giới, một ngàn thế giới hợp lại gọi là tiểu thiên thế giới,
một ngàn tiểu thiên thế giới hợp lại gọi là trung thiên thế giới, một ngàn
trung thiên thế giới hợp lại gọi là đại thiên thế giới, đây gọi là tam thiên đại
thiên thế giới, cho nên tam thiên đại thiên thế giới vẫn còn có số mục, phải
nói lại thế giới là vô lượng vô biên vô cùng vô tận, cho nên gọi là khắp tam
thiên.
‘’Tự tại cát tường
du pháp giới.’’ Cũng đi khắp cùng pháp giới.
‘’Thấy tướng nghe
danh tận siêu phàm.’’ Thấy được tướng của Phật, hoặc nghe được danh hiệu của Phật,
đều là gieo trồng căn lành, tương lai nhất định sẽ siêu phàm nhập Thánh, Bồ Tát
bất thoái làm bạn lữ của bạn.
82. Xá kê dã mẫu
na duệ.
Kệ :
Vạn mộc tùng
trung đại thụ lâm
Đống lương chi diệp
âm chúng trân
Lương tài kham
năng kình cự hạ
Xư lịch kinh cức
phó bính đinh.
Tạm dịch :
Vạn đại thụ trong
đại tùng lâm
Rường cột cành lá
che bóng mát
Lương tài dùng
làm ngôi nhà lớn
Xư lịch kinh cức
phó bính đinh.
Giảng giải: Xá Kê
dịch là "Rừng cây thẳng" hoặc là "Rừng cây lớn". Có rừng cây
này chăng ? Có thể nói có, khắp nơi đều có rừng cây, đều có rừng cây lớn. Cũng
có thể nói không có, khắp nơi đều không có, đây là ví dụ. Ví dụ Phật Thích Ca
Mâu Ni đem theo những vị đệ tử cũng giống như rừng đại thụ, vậy cứu kính có
chăng, cũng có thể nói có, cũng có thể nói không.
‘’Vạn đại thụ
trong đại tùng lâm.’’ Vạn là một số mục nhiều, nhiều không cách chi hình dung
được, không nhất định là một vạn, hai vạn, nói không chừng chín ngàn chín trăm,
nói không chừng là một vạn một trăm, rất nhiều cây cối, không rõ lắm do đó nói
là vạn. Cây gì cũng đều bao quát trong đó, có cây rừng, có cây bách, có cây cứng,
có cây mềm, có cây thẳng, có cây cong, nói tóm lại đủ loại cây. Cho nên dùng chữ
vạn để hình dung nhiều loại cây. Tùng lâm hình dung rất nhiều cây cối sống với
nhau. Rừng đại thụ cũng biểu thị chỗ của Phật ở, cho nên đạo tràng gọi là tùng
lâm, tức là rất nhiều người xuất gia đều tụ hội lại một chỗ, người xuất gia bốn
phương tám hướng đều tụ hội với nhau, đây tức là đồng như vạn cây.
‘’Lương tài kham
năng kình cự hạ.’’ Lương tài tức là tài đống lương, tài liệu tốt nhất, tức là
nói phải có tài liệu tốt, có thiện trí thức thì Phật pháp tự nhiên sẽ tồn tại
lâu trên đời. Phật giáo cũng giống như một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà thì vĩnh viễn
không mục nát hư hoại, thường tồn tại đứng sừng sững bất động, nhưng phải có
lương tài, nhân tài tốt tức là người tu đạo chân chính, thiện trí thức chân
chính.
Thiện tri thức
chân chính phải làm cho Phật giáo phát dương quang đại, chớ chẳng phải ai cho
người đó nhiệm vụ, gọi vị đó lại làm cho Phật giáo phát dương quang đại, mà là
thấy rằng quang đại Phật giáo là trách nhiệm của chính mình, lấy Phật giáo làm
nhiệm vụ của mình. Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới thành lập ra, làm hết thảy mọi
việc đều là tự ý hoan hỷ làm, chớ không có ai bắt buộc họ đi làm, mà là tự ý
phát tâm làm. Ai muốn phiên dịch Kinh điển, biên văn chương, tam bộ nhất bái,
muốn làm gì thì làm, tơ hào cũng không thêm miễn cưỡng, đều tự ý cảm thấy nên
làm thì tận lực đi làm, đừng đợi người bảo bạn nên làm gì mới đi làm, tức là một
phần tử đại học pháp giới, thì nên tận hết khả năng của mình, làm gì được thì
làm cái đó, làm không được cũng không miễn cưỡng. Không nên sợ cái này, sợ cái
kia, sợ làm sai. Nếu bạn muốn làm đúng thì làm gì có sai, trừ khi bạn muốn làm
sai.
‘’Xư lịch kinh cức
phó bính đinh.’’ "Xư lịch" tuy là cây gỗ nhưng cong vạy, dùng làm củi
đốt nhưng cũng chẳng tốt lành gì. "Kinh cức" có bản sự rất lớn, giống
như trong một đoàn thể chuyên khuấy phá tạo ra sự bực dọc, gặp được thứ cây này
không dễ gì đối phó, đó là thứ ngựa hại bầy, bất cứ trong trường hợp nào đều có
lời để nói, không nói thị thì nói phi, đâm da người làm cho chảy máu. Thứ cây
này phải làm thế nào, phó cho Bính Ðinh. Bính Ðinh tức là lửa.
83. Ða tha già đa
gia.
Kệ :
Khán Phật kính
Tăng bồi tín căn
Tôn trọng đệ tử
báo sư ân
Hiếu thuận nãi thị
vụ đức bổn
Nhân thiện quả
lương đạo tự sinh.
Tạm dịch :
Kính Phật trọng
Tăng thêm niềm tin
Tôn trọng đệ tử
báo ân sư
Hiếu thuận mới là
gốc công đức
Nhân lành quả tốt
đạo tự sinh.
Giảng giải : Chúng
ta không chỉ quy y Phật, còn phải quy y tất cả đại đệ tử của Phật. Người xuất
gia là ruộng phước Tăng thanh tịnh, thanh tịnh tức không có tiền, không có vật
gì hết, gì cũng không cần, tất cả đều buông xả, thậm chí vọng tưởng cũng không
còn. Tăng là người truyền Phật pháp, là người đảm đang gia nghiệp của Như Lai,
khiến cho Phật giáo phát dương quang đại. Nếu muốn học Phật pháp, thì phải học
với người xuất gia. Pháp là nhờ Tăng truyền. Do đó tin Phật thì phải cung kính
đệ tử của Phật. Ðây là bồi đắp tín căn. Tin là nguồn đạo mẹ công đức, nhất định
trước phải có tín tâm, nếu không có tín tâm, thì dù Phật pháp có nói tốt như thế
nào cũng không thể tiếp thọ.
‘’Tôn trọng đệ tử
báo ân sư.’’ Tôn trọng đệ tử của Phật, tức là báo ân thầy, báo ân Phật.
‘’Hiếu thuận mới
là gốc công đức.’’ Hiếu thuận là hiếu thuận cha mẹ, sư trưởng, đừng có ở chỗ sư
phụ nói gì thì trước mặt không dám nói, nhưng khi ở chỗ khác thì nói sư phụ cứ
nói người, sư phụ nóng quá. Sư phụ vốn không nóng giận. Tôi nói pháp thì chân tục
đều dụng, có lúc thì nói chút chân đế, có lúc thì nói tục đế. Có vẻ làm người
khác bực mình, thực ra thì không phải vậy, tôi dùng phương pháp này giáo hóa
người, dù nhẫn không được bạn cũng phải nhẫn, nhường không được bạn cũng phải
nhường. Bạn đi chỗ khác nói đâm thọc, nói sư phụ hôm nay nóng giận, khiến cho
tôi chịu không được, lời của tôi nói là vô tâm, là đối cơ thuyết pháp. Các pháp
từ duyên sinh, các pháp từ duyên diệt, bạn muốn tạo nghiệp thì tạo nghiệp, muốn
tu phước thì tu phước, muốn bồi tín căn thì bồi tín căn, muốn tín căn vứt đi
thì vứt đi.
‘’Nhân lành quả tốt
đạo tự sinh.’’ Trồng nhân tốt thì kết quả tốt, tu đạo tự nhiên sẽ thành công.
84. A ra ha đế.
Kệ :
Sinh quý trụ cư
Pháp Vương gia
Tam thân tứ trí
diệu quán sát
Ngũ nhãn lục
thông thành sở tác
Đại viên cảnh chiếu
bình đẳng đạt.
Tạm dịch :
Sinh quý trụ ở
nhà Pháp Vương
Ba thân bốn trí
diệu quán sát
Năm nhãn sáu
thông thành sở tác
Ðại viên cảnh chiếu
bình đẳng đạt.
Giảng giải : A Ra
Ha Ðế tức là "Lễ khắp ứng cúng tất cả vương tộc". Một câu Chú của Chú
Lăng Nghiêm nếu biên tả mấy ngàn câu, mấy vạn câu, cũng nói không hết được,
nhưng tâm lượng của chúng ta có hạn, trí huệ cũng chưa khai thông, hiện chỉ tả
đơn giản mấy câu, lược nói ý nghĩa của Chú, chỉ nói ít phần của Chú, ứng chân tất
cả vương tộc đều gọi là quý tộc.
Trong Kinh Hoa
Nghiêm Phẩm Thập Trụ có "Nhất sinh quý trụ" là cảnh giới của Bồ Tát,
sinh quý trụ cũng có thể nói là vương tộc, cho nên nói : ‘’Sinh quý trụ ở nhà
Pháp Vương.’’ Sinh trong nhà Phật chẳng phải ai ai cũng có thể sinh, phải có sự
tu hành.
‘’Ba thân bốn trí
diệu quan sát.’’ Ba thân là pháp thân, báo thân, hóa thân (còn gọi là ứng
thân). Pháp thân là thanh tịnh, khắp tất cả mọi nơi. Báo thân có ba mươi hai tướng
đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Hóa thân là thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận, một
là vô lượng, vô lượng là một. Một chẳng phải một, chẳng phải nhiều ; nhiều chẳng
phải nhiều, chẳng phải một. Một nhiều vô ngại, một nhiều không hai. Ngoại đạo
nói mình là Phật. Nếu không có ba thân bốn trí, thì không thể xưng là Phật, giả
mượn chứng quả ! Bốn trí là thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh
trí, đại viên cảnh trí. Người cũng có thể quán sát nhưng không diệu, rất thô
thiển, nhìn được vật có hình tướng mà không thể nhìn vật vô hình vô tướng. Diệu
quán sát trí, có hình hay vô hình đều thông suốt vô ngại, trên biết vạn sự, dưới
biết vạn vật. Trước biết vô lượng kiếp, sau biết vô lượng kiếp.
‘’Năm nhãn sáu
thông thành sở tác.’’ Phật lại có năm nhãn tức là Phật nhãn, pháp nhãn, huệ
nhãn, thiên nhãn, nhục nhãn, năm nhãn có mấy bài kệ rằng :
‘’Thiên nhãn
thông phi ngại.’’ Thiên nhãn không chướng ngại, có thể thấy được quỷ thần, cũng
có thể thấy nhất cử nhất động nhất ngôn nhất hạnh của chư Thiên, so với máy
camera nhìn còn rõ hơn, bất tất phải mượn duyên bên ngoài, bên trong đều đầy đủ.
‘’Nhục nhãn ngại
phi thông.’’ Nhục nhãn chẳng phải nói cặp nhục nhãn của chúng ta, mà là nhục
nhãn riêng ngoài. Thiên nhãn nhìn không thấy hữu hình hữu tướng, không thấy người
phàm chúng ta, nhưng mà thấy người trời. Nhục nhãn ngại phi thông chứ chẳng phải
nói có chướng ngại nhìn không thấy vật, mà là nói nhìn những thứ có hình có tướng,
cũng nhìn thấy được vô hình vô tướng, người trong phòng cũng nhìn thấy được,
người ngoài phòng cũng nhìn thấy được, vách tường cũng ngăn cản không được, còn
diệu hơn máy camera.
‘’Pháp nhãn quán
tục đế.’’ Phần đông tụng Kinh thì phải mở mắt, mở Kinh ra để đọc. Nếu đắc được
pháp nhãn thông, chỉ cần mở pháp nhãn, thì khắp hư không biến pháp giới, không
có một hạt bụi nào mà chẳng phải là Tam Tạng mười hai bộ.
‘’Huệ nhãn rõ
chân không.’’ Huệ nhãn tức là mắt trí huệ, hiểu được lý chân không, đắc được
pháp hỷ sung mãn chân không.
‘’Phật nhãn như
thiên nhựt.’’ Phật nhãn như ngàn mặt trời.
‘’Chiếu dị thể
hoàn đồng.’’ Chiếu những gì bất đồng mà rõ ràng bổn thể là một, Phật nhãn là
viên mãn nhất, cao siêu nhất, siêu hơn bốn nhãn kia. Lục thông tức là thiên
nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu
tận thông, đắc được lục thông thì biến hóa được, phi hành tự tại, bạn muốn đến
đâu thì không cần đi máy bay, đi xe lửa, một niệm khắp ba ngàn đại thiên thế giới,
ba ngàn đại thiên trong một niệm, đây là thành sở tác trí làm nên.
‘’Ðại viên cảnh
chiếu bình đẳng đạt.’’ Ðại viên cảnh trí như gương soi, việc đến thì ứng, việc
đi thì lặng, niệm khởi thì giác, giác tức là không. Bình đẳng đạt là gì, đạt là
thông đạt, bình đẳng thông đạt, lại có thể nói là ‘’Ðạt Ma’’ tức là pháp bình đẳng.
85. Tam miệu tam bồ đà gia.
Kệ :
Bồ Tát La Hán giải thoát Tăng
Như bần đắc bảo ám đắc đăng
Chỉ dẫn hữu tình hoạch Chánh Giác
Vĩnh xuất luân hồi ái dục khanh.
Tạm dịch :
Bồ Tát La Hán giải thoát Tăng
Như nghèo được của, tối được đèn
Chỉ dẫn hữu tình chứng Chánh Giác
Vĩnh thoát luân hồi hố ái dục.
Giảng giải: ‘’Bồ Tát La Hán giải thoát Tăng’’. Bồ Tát là nửa
chữ tiếng Phạn, đầy đủ gọi là "Bồ đề tát đoả", dịch là "Đại đạo
tâm chúng sinh", còn gọi là “đại Khai Sĩ”, hoặc gọi là “Giác hữu tình”. A
La Hán cũng là tiếng Phạn, dịch là “Ứng Cúng”, hoặc gọi là "sát tặc",
hoặc dịch là "vô sinh".
Bồ Tát và La Hán
đều là Thánh nhân. Giải thoát Tăng và Thánh Tăng đã đắc được giải thoát, giải
thoát tức là vô quái vô ngại, vô hình, vô tướng, không chấp trước, không tốt,
không xấu, không thiện, không ác, hết thảy đều bình đẳng, giải thoát gì cũng
không ràng buộc. Nếu người nào gặp được Thánh, Hiền, thì như người nghèo được của
báu, được mỏ đá quý, được mỏ vàng, lại như tối được đèn sáng không khác.
‘’Chỉ dẫn hữu
tình chứng Chánh Giác.’’ Dùng tay chỉ dẫn chúng sinh, khiến họ đi trên con đường
chánh giác.
‘’Vĩnh thoát luân
hồi hố ái dục.’’ Luân hồi tức là bánh xe tròn, chuyển tới chuyển lui, luân hồi
trong sáu đường: Trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục; khi thì
sanh lên trời, khi thì làm ngạ quỷ, khi thì đoạ súc sinh, khi thì đầu thai làm
người, khi thì đầu thai làm trâu ngựa, chó, heo. Tại sao chúng ta sinh vào thế
giới này? Đều vì ái dục ! Ái ! Ái ! Thích thì muốn nó sống, ghét thì muốn nó chết.
Tôi nói đây là kêu bạn giác ngộ, nhưng không dễ gì nhảy khỏi hố này, hố sâu đến
chín mười thước, nhảy cũng không khỏi, nhảy lên lại rớt xuống, nhảy khỏi một
thước, lại rớt xuống lại. Nếu gặp hiền Thánh Tăng, thì sẽ nhảy khỏi hố ái dục.
Hố ái dục lại gọi là hố sinh tử, hố bệnh chết, hố già chết, không dễ gì nhảy khỏi.
Chỉ có gặp được Phật pháp, hiểu được thì mới nhảy khỏi, phá được cửa sinh tử,
nhảy khỏi vòng luân hồi, lúc đó mới có thể làm bạn lành với Bồ Tát bất thối.
86. Nam mô bà già
bà đế.
Kệ :
Trí huệ quang
minh chiếu thế gian
Thần thông biến
hoá tỉnh ngu ngoan
Ngã đẳng cần tu
Ba la mật
Diệc chứng đại
giác Bạt Già Phạm.
Tạm dịch :
Trí huệ quang
minh chiếu thế gian
Thần thông biến
hóa tỉnh ngu ương
Mọi người siêng
tu Ba La Mật
Cũng chứng Đại
Giác Bạt Già Phạm.
Giảng giải: Bà
Già Bà Ðế tức cũng là "Bạt Già Phạm". Bạt Già Phạm có sáu nghĩa, bây
giờ hình dung Bạt Già Phạm.
‘’Trí huệ quang
minh chiếu thế gian.’’ Trí huệ quang minh của Phật, chiếu khắp tất cả thế gian,
tất cả chúng sinh.
‘’Thần thông biến
hóa tỉnh ngu ương.’’ Phật có đại thần thông. Thứ thần thông này, chẳng phải là
những thứ mà con người chúng ta tưởng tượng được. Thần thông tại nhân gian là một
thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn. Tại quỷ thần, Phật Bồ Tát, là bổn phận các bậc
ấy, chớ chẳng phải là việc kỳ quái. Lúc đức Phật còn tại thế thì đệ tử của Phật,
các vị đại A La Hán, đều có thần thông, đều có thể hiện mười tám thứ biến hoá
trong không trung, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, tức là thân thể này nước
và lửa hổ tương vô ngại, thân vọt lên hư không, đi khắp ba ngàn đại thiên thế
giới. Thứ thần thông diệu dụng này, chẳng phải nói như chúng ta nằm mộng thì có
thần thông, hoặc là uống chút thuốc mê hồn thì có thần thông, cũng chẳng phải
nói nhìn thấy ánh sáng gì đó thì ghê gớm lắm, hoặc thấy chữ gì đã cho là không
thể nghĩ bàn, đó đều là nhỏ nhoi không đáng kể.
Những gì chúng ta
làm không được, thì Phật Bồ Tát đều làm được, đây đều là việc rất bình thường,
tại sao chúng ta không có thần thông ? Vì có dục niệm, nên vô minh che lấp thần
thông. Cho nên không có thần thông biến hóa, phải phá sạch vô minh hiển pháp
tánh, không còn dục niệm nữa, thì sẽ có thần thông. Khi Phật còn tại thế thì tất
cả các vị A La Hán đều có thần thông, sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì Phật chế
đệ tử không nên hiển thần thông, chứ chẳng phải nói thần thông không tốt, hoặc
khi lộ thần thông thì phạm tội. Không phải. Vậy tại sao không hiển thần thông ?
Vì thần thông thì không thể tu được, cũng chẳng phải ai cũng đều có, có thần
thông thì sẽ hiển, không có thần thông thì làm sao hiển ? Cho nên Phật dạy người
có thần thông, không nên hiển thần thông, để lưu lại bát cơm cho người không có
thần thông. Nếu như cho phép hiển thần thông, thì người xuất gia có thần thông
sẽ có nhiều người cúng dường, vì con người đều thích háo thắng, đều là trên gấm
thêm hoa, chẳng nghĩ đến giúp họ lúc cần, người trên gấm thêm hoa nhìn thấy người
có thần thông thì dành đi cúng dường, còn người xuất gia không có thần thông,
thì chẳng có ai cúng dường, đói chết cũng chẳng có ai đếm xỉa đến. Cho nên Phật
kêu đệ tử về sau không được hiển thần thông. Vì không nên hiển thần thông, cho
nên người có thần thông cũng không biết.
Người trồng phước
cũng như gieo xuống đất, đến mùa thu thì thu hoạch, có thiên tai hay không, hoặc
là có sâu bọ, hoặc mưa đá đủ thứ tai nạn, đều là chuyện khác. Phật dạy đệ tử đừng
hiển thần thông, chứ chẳng phải nói khi bạn hiển thần thông thì phải đọa xuống
mười tám tầng địa ngục, không phải như thế. Phàm sự việc gì đều có một chân lý
tồn tại, không thể tùy tiện nói bậy, không thể nói trong Phật giáo có thần
thông thì có tội, nếu nói thần thông là không đúng, thì tại sao mỗi bộ Kinh điển
Phật đều nói thần thông, đều nói diệu dụng, tức nhiên là không đúng, tại sao phải
nói đến ? Nói để làm gì ? Chỉ Phật có thể nói thần thông, còn người khác mặc dù
xử dụng thần thông cũng không thể được. Vậy đó chẳng phải là chuyên chế ? Ðộc
tài chăng ? Các bạn, chúng ta phải nghiên cứu chân lý, Phật nói không nên hiển
thần thông, chỉ là không nên, chứ không nhất định không thể được, chỉ sợ bạn
không có thần thông, bạn có thần thông thì có thể hiển, bạn xem Ðạt Ma có một
người bạn trẻ, khi ngồi thiền thì nhìn thấy lửa ở tại nông trường, anh ta còn
trẻ mà có được cảm ứng như thế, thứ thần thông đó sao không thể hiển ? Thần
thông thì người không biết được, bạn biết được thì gọi đó là thần thông. Vậy
tôi cũng muốn tu thần thông để làm gián điệp, đi khắp nơi tìm tòi tình báo. Như
thế thì chẳng đắc được thần thông. Vậy tôi dùng máy "ra đa" đó cũng
là thần thông. Thần thông thì biến hóa. Biến hóa là tự có hóa không, tự không
hóa có, không mà liền có, có mà liền không, biến hóa vô cùng, biến hóa khó dò,
không thể nghĩ bàn. "Tỉnh ngu ương" tức là vì người ngu si, không cho
những người đó xem thấy một chút linh nghiệm thì họ không tin, hiển chút thần
thông cho họ thấy thì họ liền tin. Ương tức là tối ương không linh, không dễ gì
giáo hóa.
‘’Mọi người siêng
tu Ba La Mật.’’ Tất cả mọi người nếu thường hồi quang phản chiếu, luôn luôn
không mất chánh niệm, chánh niệm tương tục, tu pháp này đến được bờ kia thì
‘’Cũng chứng Đại Giác Bạt Già Phạm,’’ cũng có thể chứng quả vị Đại Giác, quả vị
Bạt Già Phạm.
87. Lặc đát na kê
đô ra xà gia.
Kệ :
Bảo quang bảo
tràng bảo tinh Phật
Bảo Thắng Như Lai
thiện hàng ma
Nhất thiết vương gia giai năng chiến
Bàng môn tả đạo tận chiết nhiếp.
Tạm dịch :
Bảo Quang Bảo Tràng Bảo Tích Phật
Bảo Thắng Như Lai khéo hàng ma
Tất cả vương chúng đều tác chiến
Bàng môn tả đạo triết nhiếp sạch.
Giảng giải: Lặc Ðát Na dịch là "Bảo". Kê Ðô dịch
là "Tràng", Ra Xà Gia dịch là "Vương" (vua), dòng dõi vua
chúa.
‘’Bảo quang bảo tràng Bảo Tích Phật.’’ Cũng có thể nói là Bảo
Quang Phật, cũng có thể nói là Bảo Tràng Phật, hoặc có thể nói là Bảo Tích Phật.
Các vị phải biết, Phật là chính mình tu, chứ chẳng phải do Ngọc Hoàng đại đế
phong cho người nào làm Phật. Ngọc Hoàng đại đế chỉ là một vị hộ pháp của Phật.
Y không có tư cách phong làm Phật ! Trong Phật giáo chứ không phải như quốc
vương, hoặc là tổng thống.
‘’Bảo Thắng Như Lai khéo hàng ma.’’ Bảo Thắng Phật khéo hàng
phục thiên ma, khống chế ngoại đạo.
‘’Tất cả vương chúng đều tác chiến.’’ Ðiều mà bàng môn tả đạo
chẳng thấy được tôn giáo có một thứ pháp bí mật, đạo bí mật. Lúc trước tại
Trung Quốc, thấy rất nhiều bàng môn tả đạo, họ nói tôn giáo của chúng tôi tương
lai sẽ làm hoàng đế, hoặc nói tôn giáo chúng tôi đây tương lai làm trời, làm
Thiên chúa, địa chúa, các vị phải theo ta, thì có thể sẽ thay phiên làm hoàng đế,
khiến cho con người sinh ra một thứ tâm tham, một thứ tâm mê hoặc. Những bàng
môn tả đạo có bao nhiêu ? Ở Ấn Ðộ có chín mươi sáu thứ, tại Trung Quốc có ba
ngàn bàng môn tả đạo. Phật thành Chánh Giác rồi : ‘’Bàng môn tả đạo triết nhiếp
sạch.’’ Triết tức là pháp môn triết phục, nhiếp tức là pháp môn nhiếp thọ. Những
thứ bàng môn tả đạo, Phật đều triết nhiếp giáo hóa họ trở về với chánh đạo. Người
ngoài lề trên thế giới này, chưa đáng thương như thế, duy chỉ có đi vào đường
tà, bàng môn tả đạo, sinh tà tri kiến là việc đáng thương sót nhất, tương lai sẽ
đọa địa ngục. Các bạn! Kinh điển chẳng phải của Phật nói đừng nên xem, chẳng phải
pháp của Phật nói đừng tu hành.
88. Ða tha già đa gia.
Kệ :
Thường Trụ Tam Bảo Phật Pháp Tăng
Nhất tâm cung kính yếu kiền thành
Như Lai đệ tử A
la hán
Mạn mạn hắc dạ đại
minh đăng.
Tạm dịch :
Thường trụ Tam Bảo
Phật Pháp Tăng
Một lòng cung
kính phải kiền thành
Ðệ tử Như Lai A
La Hán
Ðèn sáng lớn phá
tan đêm tối.
Giảng giải: Ða
Tha Già Ða Gia, đây là nói "Phổ lễ tất cả đệ tử của Như Lai". Ðệ tử của
Như Lai là ai ? Là hết thảy tất cả hiền Thánh Tăng, cho nên nói: ‘’Thường trụ
Tam Bảo Phật Pháp Tăng.’’ Thường trụ tức là thường trụ không đổi, đó là tận hư
không khắp pháp giới, một thứ chánh khí, đạo phải có Phật, có Pháp, có Tăng. Phật
kể cả Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, đây gọi là tất cả chư Phật ba đời.
Tam Bảo tức là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Sao gọi là bảo ? Vì rất ít có,
chẳng phải lúc nào cũng có thể thấy được. Tuy nhiên thường trụ, nhưng nghiệp
chướng của chúng ta che lấp trí huệ của mình, cho nên không thấy được Phật,
không nghe được Pháp, không thấy được Tăng.
Bây giờ chúng ta
thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, cho nên phải một lòng cung kính, chuyên nhất kỳ
tâm, tâm không có hai niệm. Cung kính Tam Bảo phải kiền thành, chẳng phải làm
hình thức, biểu diễn bên ngoài, phải cung kính chân thật, tâm thật không hai,
càng kiền thành càng tốt.
‘’Ðệ tử Như Lai A
La Hán.’’ Ðệ tử của Phật tức là tất cả đại A La Hán, đại Tỳ Kheo Tăng, đêm dài
tối tăm ở đây, thì A La Hán hiền Thánh Tăng Tam Bảo, là đèn sáng chỉ đường cho
chúng ta, cho nên ‘’Ðèn sáng lớn phá tan đêm tối.’’ Ðèn sáng lớn, tức là chánh
khí, chánh pháp trụ thế. Những kẻ bát vô nhân quả, làm nhất xiển đề, cũng giống
như đêm dài tối tăm, không thấy ánh sáng. Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là đèn
sáng lớn phá đêm dài tối tăm.
89. A ra ha đế.
Kệ :
Tự vô hoá hữu hữu
hoá vô
Ứng chân thị hiện
Cực Lạc đồ
Quảng tu cúng dường
hằng tinh tấn
Phổ lễ nhất thiết
chúng vương tộc.
Tạm dịch :
Tự không hóa có,
có hóa không
Ứng chân thị hiện
cõi Cực Lạc
Rộng tu cúng dường
luôn tinh tấn
Lễ khắp tất cả
chúng vương tộc.
Giảng giải: A Ra
Ha Ðế là "Lễ khắp ứng chân tất cả vương tộc". Ứng là cảm ứng đạo
giao. Chân là chân thật thị hiện. Chúng ta đắc được cảnh giới như thế, thì đừng
nửa tin nửa ngờ. Ví như nằm mộng thấy Phật phóng quang, hoặc là thấy đến rờ đầu,
sinh ra nửa tin nửa ngờ, có thật hay chăng, như thế bèn giảm sút. Tức là chân
mà bạn không tin, do đó biến thành giả, vì bạn không có tín tâm. Có tín tâm tại
sao phải hoài nghi ? Ðó là nhất xiển đề. Nhất xiển đề thì niềm tin không đủ. Cảnh
giới ứng chân là có hóa thành không, rất linh nghiệm. Phật, Bồ Tát, A La Hán,
trời, người, A tu la, đều có thể thị hiện, không chỗ nào mà không hiện thân, tự
không hóa có, biến hóa khó lường, diệu dụng vô cùng.
‘’Ứng chân thị hiện
cõi Cực Lạc.’’ Trên thế giới này những người giác ngộ tất cả đều là thị hiện, đều
là giả. Tại sao thị hiện giả, vì muốn kêu bạn mượn giả tu chân, hiểu rõ cứu
kính khoái lạc, chứ chẳng phải có hình tướng, có sự chấp trước. Cho nên chúng
ta phải : ‘’Rộng tu cúng dường luôn tinh tấn.’’ Từ từ hướng tới vô thượng đạo.
Tại sao lễ khắp tất cả chúng vương tộc ? Vì học vô thượng đạo, trước hết phải
trừ khử cống cao ngã mạn, ngã chấp không thì pháp chấp mới phá được. Ngã chấp
không rồi, thì không còn ngã tướng, còn có pháp chấp, phải phá cả hai ngã và
pháp chấp, cho đến "không" cũng chẳng còn, nếu "không" còn
tồn tại, thì còn chấp "không", "không" cũng chẳng còn, mặc
dù ‘’không còn’’ cũng chẳng có, bạn vẫn có cái ‘’không còn’’ tồn tại, nói tôi
"không" cũng chẳng còn, đó vẫn là có sự chấp trước.
Các bạn nghĩ xem,
tu hành khó quá, chẳng phải dễ, nếu dễ dàng thì ai ai cũng đều thành Phật rồi,
đâu có trôi nổi trong vòng sinh tử luân hồi. Khai quật mỏ vàng cũng không dễ
dàng, nhưng nếu bạn không khai quật mỏ vàng, thì vĩnh viễn chẳng có được vàng,
nhất định phải bỏ ra công sức, khai quật mỏ vàng, sau đó mới có được vàng, người
tu hành cũng như thế, trước khó mà sau được, bạn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đều
là nhờ thiện trí thức giúp đỡ. Giúp đỡ thế nào ? Tức là gặp nghịch cảnh khiến bạn
có thể triết phục mà thọ, mới chân chánh hiểu rõ Phật pháp, phá ngã chấp rồi,
thì pháp chấp cũng không. Chấp không cũng chẳng còn, như thế thì tịch diệt là
vui, các hành vô thường, là pháp sinh diệt, sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là
vui, tức là đạo lý này.
90. Tam miệu tam bồ đà gia.
Kệ :
Quy mạng chánh giác Phật Đà Gia
Quy mạng chánh giác Đạt Ma Gia
Quy mạng chánh giác Tăng Già Gia
Quy mạng chánh giác Tam Bảo Gia.
Tạm dịch :
Quy mạng Ðức Phật bậc giác ngộ
Quy mạng Pháp Bảo ngôi thứ hai
Quy mạng Tăng Già hoà hợp tu
Quy mạng cung kính ngôi Tam Bảo.
Giảng giải : Có một câu nói là : Niệm Chú Ðại Bi, dám đấu với
vua Diêm Vương. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần không dám đấu. Nhưng bạn phải thường
niệm Chú Ðại Bi, thì sẽ dám đấu với lão Diêm Vương. Lão Diêm Vương chẳng có biện
pháp. Niệm Chú Ðại Bi thì quỷ thần chẳng dám đấu. Quỷ thần đều sợ bạn. Sợ ở đây
chẳng phải là nóng giận, mà là bạn có một sức lực chân chánh, quyền lực chân
chánh, đó gọi là có đức hạnh.
Có đạo đức thì Diêm Vương cũng phải nể bạn, quỷ thần cũng
không dám nhiễu bạn, chứ chẳng phải vì bạn quá nóng giận khiến người sợ sệt, quỷ
thần kính mà rời xa. Niệm Chú Ðại Bi có được oai lực như thế. Còn niệm Chú Lăng
Nghiêm thì sao ? Không có oai lực như thế chăng? Ðương nhiên là siêu việt hơn
nhiều, học Chú Lăng Nghiêm thì Thiên chủ không dám đấu, mà ngược lại học Chú
Lăng Nghiêm thì dám đấu với Thiên chủ. Vậy, nói Chú Lăng Nghiêm này phải chăng
không giảng đạo lý? Không phải! Phải chăng cường từ đoạt lý ? Chẳng phải ! Bạn
niệm Chú Lăng Nghiêm, thì tương lai bảy đời về sau đều giàu có như ông vua dầu
hỏa của Mỹ, bảy đời đều làm viên ngoại, viên ngoại là người giàu có.
Vậy tốt như thế thì tôi phải mau học Chú Lăng Nghiêm, để đấu
với Thiên chủ, làm bảy đời viên ngoại, đó là hy vọng nhỏ nhen, vậy đừng học Chú
Lăng Nghiêm làm gì, bảy đời làm viên ngoại thời gian cũng chỉ là một nháy mắt.
Bạn đấu với Thiên chủ, đấu đi đấu lại vẫn lưu chuyển ở trong lục đạo luân hồi.
Vậy khi chưa niệm Chú Lăng Nghiêm phải cầu mong gì ? Phải cầu mong cứu kính làm
Phật, đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Tam Miệu Tam Bồ Ðề, đừng cầu cảnh
giới nhỏ nhen như thế, mục đích nhỏ nhen như thế.
Trên thực tế, học Chú Lăng Nghiêm tức là hóa thân của Phật,
không những là hóa thân của Phật, mà còn là hóa Phật trên đỉnh của Phật, hóa Phật
trong hóa Phật, đó là chỗ diệu không thể nghĩ bàn của Chú Lăng Nghiêm. Có người
thật trì Chú Lăng Nghiêm thì chu vi trong bốn mươi do tuần, không có tai nạn gì
hết. Cho nên trước câu Tam Miệu Tam Bồ Ðề này là "Quy mạng Chánh Giác, tất
cả hiền Thánh Tăng", kệ rằng : ‘’Quy mạng Ðức Phật bậc giác ngộ.’’ Chúng
ta nhứt tâm quy mạng Phật Thích Ca Mâu Ni.
‘’Quy mạng Pháp Bảo ngôi thứ hai.’’ Ðó là quy mạng Tam Bảo.
Cho nên nói ‘’Quy mạng cung kính ngôi Tam Bảo.’’ Tam Bảo là chúng ta phải quy mạng.
Bổn lai phía trước đã có Tam Bảo, tại sao bây giờ lại nói, đây là lập lại để
cho mọi người đặc biệt chú ý.
91. Ðế biều.
Kệ :
Câu triệu tróc nã chúng yêu ma
Quang minh biến chiếu tử giả hoạt
Tỳ Lô Giá Na quán đảnh chủ
Kim Cang Thượng Sư Phật hoá Phật.
Tạm dịch :
Câu triệu tróc nã chúng yêu ma
Quang minh chiếu khắp chết sống lại
Tỳ Lô Giá Na chủ quán đảnh
Kim Cang Thượng Sư Phật hóa Phật.
Giảng giải: Chú Lăng Nghiêm từ câu Ðế Biều này về sau một đoạn
Chú là "Pháp câu triệu". Phần trước có "Pháp tiêu tai" và
"Pháp hàng phục". Pháp câu triệu này, bao quát năm đại tâm Chú trong
đó. Năm đại tâm Chú này chuyên môn phá Ma La võng, là chú thuật phá ma, là pháp
phá tà ma. Thiên ma ngoại đạo thần thông biến hóa vô cùng. Khi bạn tụng năm đại
tâm Chú này thì chú của ma đều chẳng linh, biến hóa của ma cũng không thể biến
hóa được. Cho nên chúng liền hiện nguyên hình, lộ ra bản lai diện mục của
chúng. Năm đại tâm Chú này có oai lực lớn như thế. Cho nên gọi là pháp câu triệu.
Câu tức cũng như dùng lưỡi câu, câu nó lại, giống như câu cá lại vậy. Triệu tức
là triệu (vời) lại, là ra lệnh bạn phải lại, không lại không được ! Ðây là sự
ra lệnh cũng giống như cảnh sát có uy quyền, có thể tùy tiện bắt người. Câu triệu
cũng là bắt chúng lại, cho nên gọi là tróc nã.
Tại sao phải giảng Chú Lăng Nghiêm ? Vì muốn biết ý nghĩa của
Chú. Vậy một đoạn Chú có công dụng gì ? Mỗi một đoạn Chú Lăng Nghiêm đều có dụng
đồ của nó. Bất quá chẳng phải một sớm một chiều thì hiểu thấu được. Cần phải từ
chỗ này mà huân tập, cũng giống như dùng khói hương để huân tập, lâu dần thì sẽ
hiểu. Mới học sẽ không hiểu, bất luận bạn thông minh như thế nào, có trí huệ
như thế nào, có học vấn như thế nào ? Ðều không cách chi thâm nhập đươc. Tại
sao ? Vì chưa dùi sâu vào, cho nên cảm thấy mới lạ trắc trở, không thuận tai.
Câu Chú Ðế Biều này dịch là "Quang minh chiếu khắp".
Cho nên nói: ‘’Câu triệu tróc nã chúng yêu ma - Quang minh chiếu khắp chết sống
lại.’’ Bạn muốn gặp được nhân duyên lành này, đắc được quang minh chiếu khắp
này, thì người chết sẽ biến thành sống lại. Chú Lăng Nghiêm này có đại oai lực
như thế.
‘’Tỳ Lô Giá Na chủ quán đảnh.’’ Tỳ Lô Giá Na là Thanh Tịnh
Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Ngài là Bộ Chủ Bộ Kim Cang Quán Ðảnh, quán đảnh khắp
tất cả mọi nơi. Khi Phật muốn thành Phật, thì phải thọ lễ quán đảnh vị, thọ
pháp quán đảnh rồi, mới làm Pháp Vương tử, tức là sẽ thành Phật. Cho nên nói:
‘’Kim Cang Thượng Sư Phật hóa Phật.’’ Trong Phật Giáo lại gọi là Kim Cang Thượng
Sư, đây là Phật hóa ra Phật để giáo hóa chúng sinh. Pháp câu triệu này các bạn
không thể tùy tiện dùng, vì đức hạnh của các bạn chưa được viên mãn, không thể
khống chế chính mình, không thể tùy tiện chi phối thiện thần hộ Chú. Thiện thần
hộ Chú cũng không bội phục bạn, cho nên không những không có linh nghiệm, mà
còn chiêu họa. Cho nên Chú thì không thể khinh phụng vọng dụng.
Người trong Vạn Phật Thành không nhất định ai ai cũng đều tu
hành, trong đó chỉ có một phần nào, hoặc chỉ là đến tham quan, hoặc là đến đây
để nghiên cứu. Người ở đây, không biết bạn tu hay không, điều quan trọng nhất
là đừng làm cho ngưới khác thêm phiền não.
92. Nam mô tát yết rị đa.
Kệ :
Nhất tâm quy lễ vãng lai thân
Triều cận Hằng sa đại Thánh nhân
Báo ân tăng phước tiêu tội nghiệp
Phản bổn hoàn nguyên chiếu cổ kim.
Tạm dịch :
Một lòng kính lễ ứng thân Phật
Gần gũi vô số bậc Thánh nhân
Báo ân tăng phước tiêu tội nghiệp
Trở về nguồn cội chiếu cổ kim.
Giảng giải: Gần gũi Phật, gần gũi Pháp, gần gũi Tăng. ‘’Một
lòng kính lễ ứng thân Phật.’’ Bất cứ đến nơi nào, cũng đều tin Phật, gần gũi
Tam Bảo.
‘’Gần gũi vô số bậc Thánh nhân.’’ Lễ bái chư Phật, Bồ Tát, A
La Hán nhiều như số cát sông Hằng.
‘’Báo ân tăng phước tiêu tội nghiệp.’’ Người tu hành phải
báo ân, báo ân cha mẹ, báo ân sư trưởng, báo ân quốc gia bảo hộ. Chúng ta phải
biết ai đối với chúng ta chỗ nào tốt, chúng ta đều phải báo đáp. Tăng phước thì
bạn phải tu bố thí, làm đủ thứ công đức thì tội nghiệp sẽ tiêu trừ.
‘’Trở về nguồn cội chiếu cổ kim.’’ Thường trở về nguồn cội,
thì cũng giống như Phật chiếu soi cổ kim.
93. Ế đàm bà già bà đa.
Kệ :
Vô tỉ pháp tạng ngã pháp không
Thuận thừa đại giáo hoá quần luân
Xảo thuyết chư pháp tam độc phá
Cát tường tôn quý Thánh sở tông.
Tạm dịch :
Tạng pháp không lường ngã pháp không
Thuận thừa đại giáo độ chúng sinh
Khéo nói các pháp diệt ba độc
Cát tường tôn quý bậc Thánh tu.
Giảng giải : Mấy câu Chú này đều là Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp ủng
hộ đạo tràng, ủng hộ người trì Chú. Người trì Chú, khi tụng Chú này, thì thiên
ma ngoại đạo đều hàng phục, lão thực.
Câu Ế Ðàm này dịch là "Vô tỷ pháp tạng" (tạng pháp
không gì sánh bằng), không có pháp nào có thể so sánh. Ngã, pháp đều không, ngã
cũng không, pháp cũng không.
‘’Thuận thừa đại giáo độ chúng sinh.’’ Ngưỡng thừa đại giáo
của Phật nói để giáo hóa quần sinh.
‘’Khéo nói các pháp diệt ba độc.’’ Bà Già Bà Ða dịch là
"Khéo nói các pháp khiến tiêu diệt ba độc".
‘’Cát tường tôn quý bậc Thánh tu.’’ Trong Bạt Già Phạm lục
nghĩa, có cát tường, có tôn quý, thứ pháp này đều là pháp của các bậc Thánh hiền
tu, noi theo.
94. Tát Ðát Tha Già Ðô Sắt Ni Sam.
Kệ :
Kính lễ bảo hoa đại Phật đảnh
Tràng man phan cái chúng trang nghiêm
Phi cầm động thực thai thấp hoá
Đồng nhập liên bang vạn Phật đường.
Tạm dịch :
Kính lễ hoa báu đại Phật đảnh
Tràng man phan lọng trang nghiêm đẹp
Phi tiềm động thực thai thấp hóa
Cùng vào liên bang vạn Phật điền.
Giảng giải: ‘’Kính lễ hoa báu đại Phật đảnh.’’ Câu này là
kính lễ đảnh lọng kết hoa, tức cũng là quy kính đảnh lễ hoa báu kết thành màn,
lọng hoa, tràng phan, bảo cái, tất cả đều nghiêm đẹp. Cho nên nói : ‘’Tràng man
phan lọng trang nghiêm đẹp.’’ Tràng tức là tràng báu, man tức là man báu, còn
có phan báu, lọng báu, đủ loại trang nghiêm.
‘’Phi tiềm động thực thai noãn thấp hóa.’’ Phi tức là bay
trên trời, tiềm là bơi trong nước, động là chỉ tất cả động vật có huyết khí, thực
tức là tất cả hoa cỏ cây cối. Phi tiềm động thực, noãn thai thấp hóa, hoặc có sắc,
không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, tất cả các
loài chúng sinh này ‘’Cùng vào liên bang vạn Phật điền.’’ Ðều đến cõi nước hoa
sen hóa sinh, trồng vào vạn Phật điền. Chúng ta ở đây có Vạn Phật Thành, thế giới
Cực Lạc có vạn Phật điền. Hoa sen đều ở trong hồ hoa vạn Phật, hoa nở thấy Phật.
Bạn đến thì bạn có phần, tôi đến thì tôi có phần, họ đến thì họ có phần, ai đến
thì người đó có phần, mọi người đều có phần, có phần gì ? Có phần thành Phật,
phần thành Bồ Tát.
95. Tát đát đa bát đát lam.
Kệ :
Bảo tản hoa cái Tỳ Lô Phật
Nhất thiết Chú tâm hàng chúng ma
Dụng âm vạn đức hoạch tự tại
Thể nhuận quần cơ diễn Ma Ha.
Tạm dịch :
Dù báu lọng hoa Phật Tỳ Lô
Tất cả tâm Chú hàng chúng ma
Dùng che vạn đức được tự tại
Thể nhuận chúng sinh diễn đại thừa.
Giảng giải: Hai chữ ‘’Ðát’’ này, chữ trên niệm đơn, chữ dưới
niệm đạt. Tát Ðát Ða là "Dù báu". Bát Ðát Lam là "Lọng
hoa". Dù báu lọng hoa che chở bảo hộ vạn vật, khiến ai muốn gì thì được nấy,
ai cũng có chỗ ngồi cho nên nói : ‘’Dù báu lọng hoa Phật Tỳ Lô.’’ Dù báu này vĩ
đại vô cùng. Lọng hoa tức là dùng hoa kết thành lọng báu. Câu Tát Ðát Ða Bát
Ðát Lam này, là tâm Chú chính giữa Phật bộ, pháp hội của Phật Tỳ Lô Giá Na. Niệm
câu tâm Chú này thì sẽ đắc được chư Phật Bồ Tát phóng quang gia bị, cho nên
nói: ‘’Tất cả tâm Chú hàng chúng ma.’’
Câu Chú này là tâm Chú của tất cả các Chú, hay hàng phục
thiên ma, chế các ngoại đạo, hết thảy đều đắc được cát tường như ý.
‘’Dùng che vạn đức được tự tại.’’ Niệm tâm Chú này thì sẽ
che chở tất cả những người có đức hạnh, đều đắc được tự tại khoái lạc.
‘’Thể nhuận chúng sinh diễn đại thừa.’’ Oai lực của câu Chú
này là như thế, bổn thể của nó làm thấm nhuần tất cả chúng sinh, khiến cho hết
thảy chúng sinh đều phát đại bồ đề tâm, nghe diễn Ma Ha (đại thừa), thâm nhập tạng
Kinh, trí tuệ như biển.
96. Nam mô a bà ra thị đam.
Kệ :
Ngã lễ kim hội chư Thánh hiền
Phổ cầu chứng minh đại đạo nguyên
Gia bị hộ niệm thành Tam muội
Tốc đắc vô thắng Thiên Trung Thiên.
Tạm dịch :
Con nay kính lễ các Thánh hiền
Khắp cầu chứng minh nguồn đại đạo
Gia bị hộ niệm thành tam muội
Chóng được vô thắng Thiên Trung Thiên.
Giảng giải: ‘’Con nay kính lễ các Thánh hiền.’’ Bây giờ con
phải quy mạng đảnh lễ pháp hội của tất cả Thánh hiền, vì phổ cầu chứng minh nguồn
đại đạo. Con cung cung kính kính đảnh lễ khẩn thiết, cầu hết thảy các Thánh hiền
trong pháp hội, thỉnh các Ngài đến chứng minh. Chứng minh cái gì ? Chứng minh đạo
lý, vấn đề lớn căn bản, tu đạo như thế nào ? Thành Phật như thế nào ?
‘’Gia bị hộ niệm thành Tam muội.’’ Gia bị cho con, hộ niệm
cho con, khiến con đắc được sức lực tam muội chánh định chánh thọ.
‘’Chóng được vô thắng Thiên Trung Thiên.’’ Khiến cho con sớm
thành tựu vô năng thắng, không có gì so sánh hơn được, Thiên Trung Thiên tức
cũng là thành Phật.
97. Bát ra đế.
Kệ :
Tảo đăng bỉ ngạn nễ ngã tha
Nhất thiết chúng sinh đáo chân gia
Phản bổn hoàn nguyên hoạch cứu kính
Tiêu dao tự tại lạc vô nhai.
Tạm dịch :
Tất cả sớm lên được bờ kia
Hết thảy chúng sinh đến nhà thật
Trở về nguồn cội được rốt ráo
Tiêu dao tự tại sướng vô ngần.
Giảng giải: Bát Ra Ðế tức là "Ba la mật đa", dịch
là "Đáo bỉ ngạn" nghĩa là đến bờ kia. Bờ kia là bờ như thế nào ? Bờ kia
tức là Niết bàn, tự tại, khoái lạc, bờ này tức là vô minh, phiền não, không tự
tại. Chúng ta ở bờ sinh tử bên này qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên
kia.
‘’Tất cả sớm lên được bờ kia.’’ Tất cả chúng sinh, bạn, tôi
và họ tức là mọi người đều bao quát trong đó.
‘’Hết thảy chúng sinh đến nhà thật.’’ Nhà của chúng ta bây
giờ không phải là nhà thật. Thân thể này chỉ là nhà trọ. Chúng ta ở tại thế giới
này, cũng giống như đến các nơi du lịch, đi đến đâu thì ở trọ nơi đó. Thân thể
cũng như nhà trọ, nhà trọ này chẳng phải là chỗ rốt ráo, chỉ là ở nhờ tạm thời
cho nên nói : Thân người ví như một căn phòng, miệng là cửa lớn, mắt là cửa sổ,
tứ chi ví như bốn cột trụ, tóc ví như cỏ tranh làm mái, muốn phòng được tốt bền,
thì phải thường xuyên tu bổ, đừng đợi đến lúc hư hoại mới tu bổ thì quá muộn. Cỏ
tranh tức dùng làm lều, cốc để người tu đạo ở tu.
‘’Tất cả chúng sanh đến nhà thật.’’ Nhà thật tức nhà Phật,
đó là nhà chân chánh vốn có. Nhà chân chánh thì không có phiền não, mà là khoái
lạc chân thật.
‘’Trở về nguồn cội được rốt ráo.’’ Chúng ta phải nhận thức bộ
mặt thật của mình, sinh từ đâu đến ? Và chết sẽ đi về đâu ? Sinh tử đều minh bạch.
Nguyên lai là ta đến du hành thế giới này, nhà chân thật chẳng phải tại đây. Tại
thế giới này không bị tình lôi kéo, thì cũng bị vật chất cám dỗ, cái này buông
xả chẳng đặng, cái kia cũng không buông xả không được, đều bị dính chặt cứng.
Nếu ‘’Trở về nguồn cội được rốt ráo’’, thì sẽ ‘’Tiêu dao tự
tại sướng vô ngần.’’ Ai cũng muốn tiêu dao tự tại, chỉ vì vào không được cửa của
nó, đều lẩn quẩn bên ngoài. Nếu trở về nguồn cội, thì sẽ tiêu dao tự tại sướng
vô ngần, bạn thấy thích chăng ! Thì mọi người hãy mau mau tu hành ! Sớm chấm dứt
sanh tử, đoạn sạch phiền não, thì đạt được Niết bàn bờ bên kia. Chớ đừng trôi nổi
trong biển sinh tử, không ra khỏi được.
98. Dương kì ra.
Kệ :
Xuy đại pháp loa kích pháp cổ
Thôi phục oán ma ly bệnh khổ
Phổ sử hữu tình đăng giác ngạn
Vi Đà thường cử kim cang chử.
Tạm dịch :
Thổi pháp loa lớn đánh trống pháp
Hàng phục oán ma dứt bệnh khổ
Ðộ các hữu tình lên bờ giác
Vi Ðà thường cầm chày Kim Cang.
Giảng giải : Dương Kì Ra dịch là "Pháp loa", cũng
giống như "Bảo loa thủ" trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn. Một khi thổi
pháp loa, thì thiên ma ngoại đạo nghe thấy âm thanh pháp loa đều bị hàng phục, đều
cung kính nghe theo pháp lệnh. Cho nên nói: ‘’Thổi pháp loa lớn đánh trống
pháp.’’ Ðánh trống pháp tức cũng là giảng Kinh thuyết pháp, thụ đại pháp tràng.
Khi pháp loa vang ra tiếng, thì tất cả oán ma đều bị điều phục, cho nên nói :
"Hàng phục oán ma dứt bệnh khổ.’’ Oán ma gọi là gì ? Oán ma tức là có cừu oán. Bạn tu hành, cứ tu pháp hàng
ma, làm cho ma đều đầu hàng, đương thời chúng không có pháp lực lớn như bạn,
cho nên nghe pháp lệnh của bạn, nhưng trong tâm có khí oán độc. Khí oán độc
này, khi phát tác thì chúng sẽ gây ra tai nạn hại bạn, khiến cho bạn sinh ra đủ
thứ quái bệnh. Một khi bạn thổi pháp loa, thì oán ma tự nhiên không oán. Cho
nên chúng ta đối đãi với chúng chẳng phải áp bức, mà là khiến cho chúng cải ác
hướng thiện, hồi tâm chuyển ý, muốn đến đó đây kết oán, chẳng có ý nghĩa gì hết,
làm cho oán cừu đều giải khai được.
‘’Khiến các hữu
tình lên bờ giác.’’ Khiến cho hết thảy chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên :
‘’Biển khổ vô biên hồi đầu là bờ.’’ Hồi đầu đồng lên bờ bên kia giác ngộ.
‘’Vi Ðà thường cầm
chày Kim Cang.’’ Bồ Tát Vi Ðà thường thường cầm chày Kim Cang bảo hộ bạn.
99. Tát ra bà.
Kệ :
Đại Phật tuyên vật
hoá quần luân
Nhất thiết mật bí
chúng thần linh
Hộ trì chánh pháp
thường trụ thế
Ma Ha Bát Nhã
giác hữu tình.
Tạm dịch :
Thế Phật tuyên
dương hóa quần sinh
Tất cả bí mật
chúng thần linh
Hộ trì chánh pháp
thường trụ thế
Bát Nhã trí huệ
giác hữu tình.
Giảng giải : Tát
Ra Bà dịch là "Tất cả", tất cả các Thần, tất cả Kim Cang Mật Tích Hộ
Pháp thiện Thần. Những vị Hộ Pháp thiện Thần này, là hàng phục thiên ma ngoại đạo,
cũng là thế Phật tuyên dương Phật pháp, giáo hóa tất cả chúng sinh. Cho nên nói
: ‘’Thế Phật tuyên dương hóa quần sinh.’’ Giáo hóa tất cả quần sinh.
‘’Tất cả bí mật
chúng thần linh.’’ Tất cả Kim Cang Mật Tích, Hộ Pháp thần linh.
‘’Hộ trì chánh
pháp thường trụ thế.’’ Bảo hộ chánh pháp thường trụ ở thế gian.
‘’Bát Nhã trí huệ
giác hữu tình.’’ Dùng đại trí huệ để giáo hóa tất cả chúng sinh, giác ngộ tất cả
hữu tình chúng sinh, khiến họ đồng lên bờ kia, đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
100. Bộ đa yết ra
ha.
Kệ :
Đại thừa Phật đảnh
chủng tánh căn
Quảng độ hàm thức
xuất khổ luân
Hư không hữu tận
nguyện vô tận
Đồng đăng bỉ ngạn
Bát Nhã thâm.
Tạm dịch :
Trồng căn tánh đại
thừa Phật đảnh
Rộng độ hàm thức
thoát biển khổ
Hư không hữu tận
nguyện vô tận
Ðồng lên bờ kia
trí Bát Nhã.
Giảng giải : Bộ
Ða là "Đại Phật đảnh". Yết La Ha là "Chủng tánh căn". Cho
nên nói: ‘’Trồng căn tánh đại thừa Phật đảnh.’’ Ðây là đại thừa, chẳng phải là
tiểu thừa. Pháp này là tối cao vô thượng, cho nên gọi là Phật đảnh. Chủng tánh
căn cũng là giống tánh căn cơ đại thừa.
‘’Rộng độ hàm thức
thoát biển khổ.’’ Ðại thừa là gì ? Ðại thừa tức là xả mình vì người, quên mất
chính mình để rộng độ tất cả. Hàm thức tức là chúng sinh có huyết có khí, làm
cho họ thoát khỏi biển khổ trầm luân.
‘’Hư không hữu tận
nguyện vô tận.’’ Nguyện của người đại thừa phát ra, là hư không có thể có bờ
mé, chứ nguyện lực thì không bờ mé, hư không có thể không còn, nhưng nguyện lực
giáo hóa chúng sinh, thì không có lúc nào cùng tận.
‘’Ðồng lên bờ kia
trí Bát Nhã.’’ Nguyện cho hết thảy chúng sinh đồng lên bờ Niết Bàn bên kia, đắc
được thâm Bát Nhã, đắc được trí huệ Bát Nhã rốt ráo.
No comments:
Post a Comment