Thursday, October 6, 2016

Chú lăng nghiêm - Hoà thượng Tuyên Hoá giảng giải 26 - Từ câu 501 đến câu 525

  


          Dịch: Quỷ đau tứ chi đốt xương.

          Kệ:

Tứ chi cốt tiết thống sở triền
Liên niên luỹ nguyệt bệnh vô gián
Thủ thiện phạt ác oai mãnh tướng
Nhất văn thần Chú trừ ngao tiên.

          Nghĩa là:

Tứ chi đốt xương đau triền miên
Nhiều năm nhiều tháng bệnh không ngừng
Thưởng thiện phạt ác oai mãnh tướng
Nghe được thần Chú tiêu tội khiên.

          Giảng giải: Trên toàn thế giới chẳng có chỗ nào giảng Chú Lăng Nghiêm nầy, bất cứ hiển tông, mật tông, cũng đều không có. Pháp hội nầy tuy người không nhiều, nhưng Thiên long bát bộ đều chú ý mà hộ trì, mười phương chư Phật cũng phóng quang chiếu đến pháp hội nầy.
Hơn ba mươi năm trước, ở tại Hương Cảng có người yêu cầu tôi giảng giải Chú Lăng Nghiêm, nhưng vì cơ duyên chưa thành thục, cho nên cũng không giảng. Đến nước Mỹ rồi, pháp môn thù thắng phát sinh ra, người tu học đừng xem việc nầy quá đơn giản và dễ dàng, là diệu pháp trong trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được.
          Người có bệnh tật, đa số là có ma quỷ đến gây cho bạn tai nạn, không phải ngẫu nhiên như vậy. Có những bệnh tật, ban ngày thì vô sự, nhưng ban đêm thì chúng đến, loài quỷ nầy thuộc âm. Có khi chúng đến cả ban ngày và ban đêm, đây là quỷ thuộc âm dương, đều hỗn hợp, chúng chẳng sợ mặt trời, thọ được dương, cho nên ban ngày cũng có bệnh tật. Các vị cũng có một số người có kinh nghiệm nầy, có những người ban đêm ở trên giường rên rỉ không ngừng. Quỷ thần cũng có đủ thứ khác nhau, sự việc trên thế giới, nói thô thì cũng rất là thô, nói tế thì cũng rất là tế.
          Chú Lăng Nghiêm sắp giảng xong, tôi đã tận hết khả năng, lúc ban đầu cũng chẳng có ai dạy tôi, nhưng tôi có một thứ tinh thần cầu pháp, tôi từ trong khốn khổ hoạn nạn mà đắc được, hiện tại tôi rất dễ dàng giảng cho các vị nghe, các vị có cơ hội nghe, đừng để cơ hội trôi qua, tôi hy vọng các vị hiểu nhiều về vấn đề nầy. Đây cần phải có công phu, mới có thể minh bạch tình hình thật tế, chẳng phải học văn tự Bát Nhã ở ngoài miệng thì hiểu được, đây nhất định cần phải kết hợp với trời đất âm dương tạo hoá hợp mà làm một, thì mới xuyên qua lý luận nầy.
(Bốn câu kệ dưới đây không thấy lời giảng giải).
          "Tứ chi đốt xương đau triền miên":
          "Nhiều năm nhiều tháng bệnh không ngừng":
          "Thưởng thiện phạt ác oai mãnh tướng":
          "Nghe được thần Chú tiêu tội khiên":

       502. Ta phòng án già.

          Dịch: Quỷ đau hai bắp tay.

          Kệ:

Lưỡng bác ngũ thể thống quỷ lâm
Đao binh chỉ man du chúc xâm
Hoả thiêu địa ngục tai khổ liệt
Chân ngôn mật ngữ bảo an ninh.

Nghĩa là:

Hai bắp tay năm thể đau do quỷ
Đao binh chỉ man du chúc xâm
Lửa thiêu địa ngục tai nạn khổ
Chân ngôn mật ngữ giữ an ninh.

          Giảng giải: Không thấy lời giảng giải.
          "Hai bắp tay năm thể đau do quỷ":
          "Đao binh chỉ man du chúc xâm":
          "Lửa thiêu địa ngục tai nạn khổ":
          "Chân ngôn mật ngữ giữ an ninh":

       503. Bác ra trượng già du lam.

          Kệ:

Thiện ác tri thức hoá ngu hiền
Thuận nghịch tinh tấn độ đảo huyền
Toả linh chuỳ chử hàng ma quỷ
Giải oan cứu khổ tiêu tội khiên.

          Nghĩa là:

Thiện ác tri thức hoá ngu hiền
Thuận nghịch tinh tấn độ treo ngược
Vòng chuông chày sắt hàng ma quỷ
Giải oan cứu khổ tiêu tội khiên.

          Giảng giải: Học Phật pháp phải nắm lấy chỗ quan trọng, phải chân chánh hiểu mới được, như vậy thì bạn mới nhận thức được Phật pháp. Nếu bạn chân đi không vững, ý chí không kiên định, theo hướng gió thổi, thì dù có thế nào cũng không thể nhận thức được Phật pháp, đều là dụng công phu ngoài da. Chú Lăng Nghiêm xưa nay cũng có chú giải, nhưng họ đều dụng công phu trên văn tự, trích đông một đoạn, trích tây một đoạn. Pháp chân chánh thì chẳng có sự phức tạp như vậy, nó là giữ trọn tinh hoa, chỉ cần bạn minh bạch nghĩa của nó là được. Tông chỉ của tôi là đơn giản mà đầy đủ, không rùm rà, không dùng quá nhiều danh từ.
          Chú Lăng Nghiêm có pháp cát tường, pháp tăng ích, pháp câu triệu, pháp thành tựu, pháp hàng phục. Bắt đầu từ câu Chú 504 là pháp câu triệu, từ câu Chú 503 về trước là pháp hàng phục. Câu triệu có lưỡi câu, kêu bạn đến, như cảnh sát cầm giấy triệu tập, thì có thể kêu bạn đến, bắt bạn lại. Không đến cũng phải đến, đến cũng phải đến. Câu triệu và hàng phục là cảnh cáo bạn, cảnh cáo bạn nếu không đến, không nghe mệnh lệnh, thì sẽ dùng câu triệu, nhưng pháp nầy không thể tuỳ tiện dùng, năm đại tâm Chú cũng không thể tuỳ tiện dùng, khiến cho người khinh cử vọng động, như vậy không thể được.
          Chú có Chú thần, đức hạnh của bạn không đủ thì không thể dùng, đủ đức hạnh nhất định phải trì giới, bằng không thì không đủ tư cách dùng Chú. Như một số người chẳng hiểu gì hết, tuỳ tiện sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, khẩn cấp trì niệm năm đại tâm Chú, đây là pháp nhiễm ô coi thường. Pháp không thể khinh cử vọng động. Bạn có thể tu, mỗi ngày thọ trì, niệm Kinh, trì Chú, không màng có công hiệu hay không, thì vẫn cứ tụng niệm, như công phu đánh chưởng, không màng như thế nào, hằng ngày vẫn cứ đánh chưởng, mài dũa rèn luyện, không màng công phu như thế nào, mài dũa rèn luyện thì sẽ có công phu, không thể nói không mài dũa rèn luyện thì có công phu. Cũng đồng lý như vậy, thọ trì pháp thì phải mỗi ngày không gián đoạn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong sự bận rộn cũng đều tu pháp.
Khi tu pháp thì không màng nó có công hiệu hay không, cũng giống như ăn cơm, mặc quần áo vậy. Hằng ngày khoá tụng không thể gián đoạn, không màng nó có công hiệu hay không, mỗi ngày đều tụng trì đọc tụng, thời gian lâu dần sẽ có cơ sở. Khi tu thì không cần biết nó có công hiệu hay không, cho nên đừng có khinh sư mạn pháp, đừng có tuỳ tiện, giống như luyện công phu. Pháp Sư Hải Đăng là người có công phu, chỉ cần muốn ra đòn đánh, không đánh người, đây tức là có công phu. Thọ trì có công đức, vẫn không tuỳ tiện dùng. Không tuỳ tiện dùng, giống như bạn có cây thương, không thể tuỳ tiện phóng cây thương. Có là được rồi, nhưng có sẵn mà không dùng, chỉ giữ để đó, khi nào không thể giải quyết được thì mới dùng đến. Như công phu của pháp sư Hải Đăng chỉ ra đòn đánh, nhưng một khi động thủ, thì có thể khiến người văng ra xa, nếu dụng công, thì người sẽ mất mạng. Hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo, cũng như thế.
Khi tôi tuổi còn trẻ, đã từng khinh cử vọng động, đắc tội rất nhiều với thiên ma. Lúc đó tôi cũng không biết sợ, to gan thật, mỗi ngày dắt theo đệ tử nhỏ tuổi vào trong núi thử những đoạn pháp nầy xem có công hiệu gì không, về sau biết là tuỳ tiện dùng, gây ra nhiều phiền phức. Bây giờ biết sự lợi hại như vậy, Phật pháp rất là linh, nhưng không thể dùng bừa bãi, hoặc khinh cử vọng động.
          Pháp Lăng Nghiêm là trăm ngàn đại kiếp khó gặp được, lần nầy giảng Chú Lăng Nghiêm, ba ngàn đại thiên thế giới đều sáu thứ chấn động, cung điện thiên ma đứng không yên, muốn liên hợp với nhau, cho rằng tôi đối với chúng rất bất lợi. Các vị học pháp phải biết sự quan trọng của pháp nầy, đừng tuỳ tiện thử xem, bằng không sẽ làm thương hại đức tánh của mình và sự tự do của chúng sinh, khiến cho họ không vui. Học thì có thể học, nhưng không thể dùng, vì không có đức hạnh để chi phối quỷ thần và hộ pháp, như vậy chỉ có tăng thêm tội nghiệp của chính mình.
          "Thiện ác tri thức hoá ngu hiền": Có thiện ác tri thức, thiện là thuận thời dạy bạn, ác là nghịch cảnh dạy bạn, đó là nghịch cảnh tạo anh hùng, tăng thêm sự nhẫn nại chí khí và nguyện lực của chúng ta, dạy người tất cả đều có thể tự nhiên mọi lúc mọi nơi, cho nên có thiện ác tri thức. Đối với thiện phải y giáo phụng hành, đối với ác thì lấy họ làm giới, như người tà tri tà kiến là ác tri thức, thiện làm pháp, ác làm giới, đều phải tinh tấn, từ từ hướng về trước dụng công. Minh bạch Phật pháp, thì bất cứ lúc nào, ở trong đạo đều chẳng có vấn đề gì hết, tất cả đều tiếp nhận mà giải quyết. Không minh bạch Phật pháp, thì đi khắp nơi đều là chông gai. Thiện ác tri thức hoá người hiền và người ác.
          "Thuận nghịch tinh tấn độ treo ngược": Thuận nghịch đều tinh tấn, độ chúng sinh treo ngược, đây là phát tâm Bồ Tát, người tu đạo phải như vậy.
          "Vòng chuông chày sắt hàng ma quỷ": Vòng chuông chày sắt đây là binh khí pháp bảo, dùng để hàng phục tất cả ma quỷ.
          "Giải oan cứu khổ tiêu tội khiên": Giải oan cứu khổ, thì tội khiên sẽ tiêu trừ.

       504. Bộ đa tỷ đa trà.

          Dịch: Quỷ thi lâm.

          Kệ:

Hi hữu đại thừa diệu vô phương
Kim cang bồ đề nhiếp quỷ vương
Thi lâm quyến thuộc giai thọ thủ
Câu triệu pháp kim tĩnh bát hoang.

          Nghĩa là:

Đại thừa hi hữu diệu vô cùng
Kim cang bồ đề nhiếp quỷ vương
Thi lâm quyến thuộc đều truyền thụ
Pháp câu triệu khiến chúng nghe lời.

          Giảng giải: Đây là pháp câu triệu, bắt yêu ma quỷ quái, bắt sơn yêu thuỷ quái lại, không màng là bao nhiêu ma quỷ đều phải đến, cho nên nói "Đại thừa hi hữu diệu vô cùng".
          "Kim cang bồ đề nhiếp quỷ vương": Kim cang bồ đề triết phục nhiếp thọ quỷ vương.
          "Thi lâm quyến thuộc đều truyền thụ": Thi lâm là nơi chôn tử thi, có rất nhiều quyến thuộc của quỷ, chúng đều được truyền thụ.
          "Pháp câu triệu khiến chúng nghe lời": Đây là pháp câu triệu, chúng đều phải nghe mệnh lệnh, quỷ quái gì cũng đều phải nghe, nhưng phải có đức hạnh, bằng không chúng sẽ không nghe lời.

       505. Trà kỳ ni.

          Dịch: Quỷ mị.

          Kệ:

Mị quỷ tà thuật huyễn hoá kỳ
Thất khứ chủ tể khởi hồ nghi
Linh thanh loa hưởng thanh oa khiếu
Thần Chú gia trì lãnh nhiệt ly.

          Nghĩa là:

Quỷ mị tà thuật huyễn hoá kỳ
Mất đi chủ tể khởi hồ nghi
Tiếng linh tiếng ốc đồng thanh gọi
Thần Chú gia trì lìa hàn nhiệt.

          Giảng giải: Hết thảy lời Chú đều là chân ngôn của Phật, tức là những lời chân thật, có thể thông đạt ba cõi (cõi dục, có sắc, cõi vô sắc). "Chân ngôn" là một thứ lời lẽ chọn dùng cõi linh. Con mắt thịt của một số người không thể thấy được cõi linh, nhưng một khi người tụng Chú, thì tự nhiên phát khởi một thứ sức lực không thể nghĩ bàn. Tuy là không thể nghĩ bàn, nhưng vẫn biết được một chút. Từ chỗ biết được một chút nầy, bèn tiến vào biết được những công lực khác không thể nghĩ bàn. Chú là do chư Phật Bồ Tát nói, tức cũng là ở trong sự tịch mặc phát ra pháp linh, thông đạt chín pháp giới. (Phật là một trong mười pháp giới, nhưng Phật đã đến được quả vị cứu kính giác), cho nên Phật khác với những chúng sinh khác còn điên đảo.
          Mỗi một câu Chú có sức lực nhiều phương diện, chẳng riêng gì một thứ, giống như sự công hiệu của thuốc, tuy có thể trị bách bệnh, nhưng đều có sự chủ trị chứng bệnh.
          "Trà Kỳ Ni" là « Quỷ mị ». Câu nầy chuyên hàng phục quỷ mị. Quỷ mị chẳng đối phó với chúng sinh khác, nhưng chúng chuyên đối phó với nhân loại.
          "Quỷ mị tà thuật huyễn hoá kỳ": Chúng có đủ thứ thần thông biến hoá, lúc biến hoá người nam, lúc biến hoá người nữ, có khi lại biến hoá thành súc sinh, thiên thần .v.v... đủ thứ hình dáng, pháp thuật không thể nghĩ bàn. Kỳ thật, pháp lực của Phật và ma đều không thể nghĩ bàn, chỉ là khác biệt giữa tà và chánh mà thôi. Phá hoại người không so sánh với người ngu si, phá hoại người là vì quá thông minh, mới chuyên môn dùng sự thông minh của mình đi làm việc xấu gạt người. Tà ma ngoại đạo đều có bản lãnh lớn, quyến thuộc của họ cũng nhiều, nhưng chúng chuyên môn làm việc xấu, tà tri tà kiến, mỗi cử chỉ hành động đều muốn hại người. Ranh giới giữa Phật và ma là tại chỗ nầy, đừng cho rằng ma chẳng có bản lãnh, nếu chúng chẳng có bản lãnh, thì chúng sẽ không khởi đối đầu với Phật, đấu pháp với Phật. Vì chúng có bãn lãnh lớn, nên trong mắt không nhìn ai ra gì hết, làm việc đều không chánh đáng, đều là ma nghiệp, nghiệp nhiễm ô, chẳng phải nghiệp thanh tịnh. Phật thì làm nghiệp thanh tịnh, sự khác nhau là tại chỗ nầy. Trong Phật giáo là "Hãy làm các việc lành, đừng làm các việc ác", ma thì ngược lại, chúng thì "Không làm các việc lành, mà làm các việc ác". Chuyên làm những chuyện xấu ác, lường gạt người, khiến cho người hồ nghi không tin.
          "Mất đi chủ tể khởi hồ nghi": Quỷ mị hay khiến cho người nghe một thứ âm thanh gì đó, hoặc khiến cho bạn cho rằng mình đã khai ngộ. Khai ngộ không thể tự mình chứng minh, mà cần phải có người khác thừa nhận. Tổ sư từ xưa đến nay, chưa từng tự mình chứng minh nói "Tôi là tổ sư".
          Quỷ mị hay có đủ thứ pháp thuật biến hoá, như một số yêu ma thuật, nhưng đây đều là huyễn hoá, hư vọng không thật. Chúng nói tựa như rất có đạo lý, kỳ thật là tựa đúng mà sai, hư vô thăm thẳm. Xấu nhất là khiến cho người mất đi chánh niệm, mà làm chủ không được, lúc khóc, lúc cười, như bị điên khùng. Hoặc lúc đói, lúc khát, khiến cho người tư tưởng hành vi biến thành chẳng bình thường, suốt ngày đến tối chỉ nhìn người khác không đúng, muốn hại người, tánh A Tu La ngày càng cao, thích đấu tranh.
Tóm lại, thiên biến vạn hoá, lúc tốt, lúc xấu, khiến cho người cao thâm khó dò, mất đi chánh niệm. Nhưng, một khi người nào bị quỷ mị mê hoặc rồi, thì sẽ hồ nghi không tin, thậm chí hay tự nghĩ rằng: "Mặt trời có thể biến thành mặt trăng được chăng? Mặt trăng có thể biến thành mặt trời được chăng"? Trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư có nói rằng: "Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng", như vậy, mặt trời có thể biến thành mặt trăng được chăng? Mặt trăng có thể biến thành mặt trời được chăng? Vĩnh Gia đại sư nói có thể, đương nhiên là có thể". Do đó người bị quỷ mị mê hoặc, tự diễn tự nói, tự hỏi, tự đáp, trong không sinh có, càng quấy rối càng hồ đồ, làm cho đầu óc của mình hôn mê. Một khi trong tâm của chủ nhân ngủ rồi, thì giặc sẽ thừa cơ đột nhập vào. Tóm lại, chúng vào rồi, thì sẽ khiến cho bạn sinh ra hoài nghi.
          "Tiếng linh tiếng ốc đồng thanh gọi": Câu Chú nầy cũng dịch ra là "Linh loa" (cái linh, con ốc), là pháp khí kim cang bộ xử dụng. Cũng có thể là một trong pháp thuật của quỷ mị. Tiếng linh con ốc đồng thanh gọi, người tu hành nghe đến nhiều thứ tiếng vang kỳ quái, cũng hay bị làm cho thần trí không bình thường.
          "Thần Chú gia trì lìa hàn nhiệt": Niệm câu Chú nầy, thì sẽ xa lìa khỏi bệnh hàn, bệnh nhiệt. Người mang thứ bệnh nầy, có khi lạnh đến cực điểm, có khi lại nóng đến cực điểm, đây là do lạnh đến cực điểm thì chuyển nóng, nóng đến cực điểm thì chuyển lạnh, như bệnh sốt rét. Người bị ma bệnh chi phối, thì không thể làm chủ được, cũng không biết sống chết. Nếu có thể tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ xa lìa được bệnh hàn nhiệt.

       506. Thập bà ra.

          Dịch: Quỷ tất cả bệnh nhọt.

          Kệ:

Quang minh biến chiếu mãn tam thiên
Nhất thiết ác sang đinh độc quyên
Kích thứ tảo trừ chư ma thuật
Tụng Chú quy mạng Thiên Trung Thiên.

          Nghĩa là:

Quang minh chiếu khắp đầy tam thiên
Tất cả bệnh nhọt độc hết sạch
Cực quang quét trừ các ma thuật
Tụng Chú quy mạng Thiên Trung Thiên.

          Giảng giải: Thập Bà Ra dịch là “Quỷ tất cả bệnh nhọt”, cũng dịch là “Quang diệm”. Một khi niệm câu Chú nầy, thì quang minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cho nên câu kệ nói rằng "Quang minh chiếu khắp đầy tam thiên".
          "Tất cả bệnh nhọt độc hết sạch": Máu khí của con người không thong, thì sẽ sinh ra bệnh nhọt. Trong sự bất tri bất giác, quỷ bệnh nhọt phát tán những chất hoá học, sẽ thâm nhập qua đường khí quản, hoặc đường hô hấp của bạn, khi chất độc phát tác, thì sẽ sinh ra bệnh nhọt. Bệnh nhọt là "Không sợ đỏ sưng cao lớn, chỉ sợ đen tía trũng lõm". Nếu ác nhọt là màu đen, màu tía thâm, hoặc trũng lõm, thông thường là nhọt độc. Nói chung bệnh nhọt có nhiều thứ nhọt, nặng nhẹ khác nhau, có những thứ bệnh nhọt rất độc hại. Một khi bạn niệm Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ phóng quang minh, tiêu trừ tất cả bệnh nhọt.
          "Cực quang quét trừ các ma thuật": Câu Chú nầy có công dụng tựa như lôi xạ, giống như bây giờ gọi là bắn laser, trong Phật pháp vốn có thứ nầy, nhưng chẳng phải sức người có thể khống chế được, mà là do Bồ Tát quản lý. Một khi phóng lôi xạ quang, thì tự nhiên có thể hoà giải các thứ độc, quét sạch các tà thuật. Phật dùng cực quang hay trị tất cả bệnh tà. Phật sớm đã biết thế giới tương lai các quần ma làm loạn, do đó việc trước hết là dự bị những Chú nầy để đối trị.
          "Tụng Chú quy mạng Thiên Trung Thiên": Tụng Chú Lăng Nghiêm là quy mạng Thiên Trung Thiên tức là Phật.

       507. Ðà đột lô ca.

          Dịch: Quỷ tất cả bệnh nhọt.

          Kệ 1:

Sang quỷ lang độc hại sinh mạng
Thế Tôn từ mẫn thuyết linh văn
Hành giả tụng trì tiêu nạn chướng
Giải trừ chúng khổ ung thư bệnh.

          Nghĩa là:

Quỷ nhọt lang độc hại sinh mạng
Thế Tôn thương xót nói linh văn
Hành giả tụng trì tiêu chướng nạn
Giải trừ các khổ bệnh ung thư.

          Giảng giải: "Quỷ nhọt lang độc hại sinh mạng": Quỷ bệnh nhọt nầy, chuyên nguy hại sinh linh.
          "Thế Tôn thương xót nói linh văn": Phật vì lòng từ bi, nên ban cho chúng ta Thần Chú Lăng Nghiêm để bảo hộ.
          "Hành giả tụng trì tiêu chướng nạn": Nếu hay tụng trì Chú nầy, thì bách bệnh sẽ tiêu trừ.
          "Giải trừ các khổ bệnh ung thư": Ung thư đều là bệnh nhọt lửa độc, khiến cho bệnh nhân rất thống khổ. Niệm Chú Lăng Nghiêm thì bệnh nhọt độc hại sẽ tiêu tan, sự thống khổ của bệnh nhân cũng sẽ giải trừ.

          Kệ 2:

Nhất thiết sang quỷ đồ độc thâm
Giới lại tiển anh dương mao đinh
Thần Chú trí mẫu gia trì lực
Giải trừ túc nghiệp hoạch an ninh.

          Nghĩa là:

Tất cả quỷ nhọt rất độc hại
Ghẻ hủi bướu cổ nhọt lông dê
Thần Chú trí mẫu sức gia trì
Giải trừ nghiệp xưa được an ninh.

          Giảng giải: "Tất cả quỷ nhọt rất độc hại": Loài quỷ nầy rất là nguy hiểm, còn pháp thuật thì biến hoá khó dò.
          "Ghẻ hủi bướu cổ bệnh lông dê": Ghẻ và ghẻ lở đều là bệnh ở ngoài da, hay truyền nhiễm. Bướu là cục bướu sinh ra ở cổ. Nhọt lông dê thấy ở phương bắc Trung Quốc, là một thứ bệnh khuẩn, do trên lông dê, lạc đà truyền nhiễm. Một khi mắc thứ bệnh nhọt độc nầy, thì lập tức lựa lấy ra lông của dã thú trong thân thể của nó, do đó có câu "Trước bảy sau tám", tức là dùng cái dùi, ở trước ngực lựa lấy bảy nơi, sau lưng lựa lấy tám nơi, thì bệnh mới khỏi. Nếu kéo dài ba ngày mà không trị khỏi, thì người bệnh sẽ chết. Ở trên nói đủ thứ bệnh nhọt độc bướu ghẻ, đều là quỷ nhọt tác quái ở phía sau.
          "Thần Chú trí mẫu sức gia trì": Câu Chú nầy cũng gọi là trí mẫu, nhờ sức gia trì của Thần Chú Lăng Nghiêm.
          "Giải trừ nghiệp xưa được an ninh": Đại khái những bệnh nhọt lở loét sưng phù bướu, phần nhiều là do oan nghiệp quá khứ mà ra. Tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ giải trừ nghiệp cũ, nhọt độc cũng sẽ không cần thuốc mà khỏi, bệnh nhân sẽ được mạnh khoẻ.

       508. Kiến đốt lô kiết tri.

          Dịch: Quỷ nhọt con nhện.

          Kệ 1:

Thiên hành quỷ quái phóng xạ độc
Tri chu sang bệnh nan hàng phục
Bảo Sinh bộ chủ quang cứu hộ
Hư Không Tạng Vương đại tảo trừ.

          Nghĩa là:

Quỷ quái bay đi phóng xạ độc
Bệnh nhọt con nhện khó hàng phục
Bảo Sinh bộ chủ quang cứu hộ
Hư Không Tạng Vương quét trừ sạch.

          Giảng giải: "Quỷ quái bay đi phóng xạ độc": Con quỷ nhền nhện nầy bay đi ở trong không trung, rải độc khắp nơi.
          "Bệnh nhọt con nhện khó hàng phục": Độc của nó rất lợi hại, khó mà hàng phục.
          "Bảo Sinh bộ chủ quang cứu hộ": Phương nam Bảo Sinh Phật, phóng ra một thứ lôi xạ thiên nhiên, để hoà giải chất độc của quỷ độc nhền nhện, tiêu diệt tác dụng ác độc của nó.
          "Hư Không Tạng Vương quét trừ sạch": Sự quét trừ nầy khắp hư không pháp giới, quét sạch hết thảy khói đen chướng khí, ác độc tà khí, không còn nữa, khiến cho pháp giới được thanh tịnh.

          Kệ 2:

Tri chu tranh nanh độc khí công
Đới trạng bào chẩn khuẩn thũng hồng
Bảo Sinh quang chiếu tiêu tội chướng
Kỳ tật quái chứng nhất tảo không.

          Nghĩa là:

Nhền nhện dữ tợn rải khí độc
Mang dáng bệnh sởi khuẩn sưng đỏ
Bảo Sinh quang chiếu tiêu tội chướng
Chứng bệnh kỳ quái quét sạch hết.

          Giảng giải: "Nhền nhện dữ tợn rải khí độc": Con quỷ nhện nầy, một số người mắt thịt nhìn không thấy được, nhưng nó dữ tợn đáng sợ, chuyên phóng khí độc.
          "Mang dáng bệnh sởi khuẩn sưng đỏ": Trung Quốc ngày xưa, thứ bệnh nầy gọi là "Nhọt nhền nhện", danh từ y học hiện đại gọi là "Mang dáng bệnh sởi". Khi bệnh phát thì trước hết ở lưng, một chỗ nhỏ có cảm giác đau ngứa, dần dần kéo dài lan ra khắp lưng, màu đỏ nhỏ như hạt đậu, vừa đau vừa ngứa. Thứ nhọt nầy làm cho người bệnh cảm giác đau như kim đâm, rất là khó chịu.
          "Bảo Sinh quang chiếu tiêu tội chướng": Phương nam Bảo Sinh bộ phóng ra quang lôi xạ, tiêu trừ oan nghiệp oán hận đời trước.
          "Chứng bệnh kỳ quái quét sạch hết": Hết thảy kỳ nan tạp chứng, như bệnh nhọt nhền nhện .v.v... đều quét sạch hết.

       509. Bà lộ đa tỳ.

          Dịch: Quỷ bệnh ghẻ nhọt.

          Kệ:

Kịch liệt âm độc chủng chủng hình
Vô minh thũng thống như cang đinh
Bát vạn diệu pháp đáo bỉ ngạn
Liên Hoa bộ chủ trừ quỷ linh.

          Nghĩa là:

Âm độc kịch liệt đủ thứ hình
Vô minh sưng đau như đinh thép
Tám vạn diệu pháp đến bờ kia
Liên Hoa bộ chủ trừ quỷ ma.

          Giảng giải: Câu Chú nầy là chỉ “Quỷ nam ghẻ nhọt”, còn quỷ ngâm dâm nhọt là quỷ nữ. Hai con quỷ nầy lúc còn sống, thì đều chẳng giữ quy cụ, nên chết rồi thì làm loài quỷ nầy, có chất độc rất là kịch liệt. Bệnh ghẻ nhọt chẳng dễ gì điều trị. Bệnh nhọt giống như một cây đinh sinh ở trên thân. Tại sao quỷ nam làm loài quỷ nầy? Vì họ chết do thứ bệnh nầy, vì tâm dâm dục quá nặng, cho nên có đủ thứ âm độc kịch liệt. Chúng chuyên môn cưỡng gian dâm, hoặc tà dâm, cho nên sinh ra thứ bệnh ghẻ nhọt nầy. Do trước kia có thứ quỷ nầy, khiến cho họ chết vì thứ bệnh nầy, cho nên họ muốn báo thù, làm cho người người đều sinh thứ bệnh nầy, "Nhân như vậy, quả như vậy", đây là vô minh chướng ngại, khiến cho họ tạo thứ nghiệp nầy, làm cho người người chết vì thứ bệnh nầy. Họ đã làm quỷ còn tạo nghiệp, cho nên nói "Âm độc kịch liệt đủ thứ hình". Thứ âm độc nầy, chẳng có thứ gì độc bằng nó. Bệnh ghẻ nhọt cũng chẳng phải đều giống nhau, tuy tựa như cây đinh, nhưng cũng có lớn, có nhỏ, có dài, có ngắn, có đủ thứ nhan sắc, cho nên nói "đủ thứ hình".
          "Vô minh sưng đau như đinh thép": Khiến cho người sinh ra một thứ độc sưng phù. Nhân khởi chẳng ra khỏi một danh từ, cho nên gọi vô minh sưng độc. Thứ sưng độc nầy như đinh sắt, đinh đâm vào mình cứng giống như thép, cho nên nói "Vô minh sưng đau như đinh thép".
          "Tám vạn diệu pháp đến bờ kia": Nhờ có Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn vi diệu, khiến cho con người cải ác hướng thiện, sửa lỗi làm mới. Tuy làm loài quỷ nầy, Phật bèn nói thứ pháp nầy, khiến cho họ giác ngộ, một khi họ giác ngộ, thì sẽ đến được bờ bên kia, sẽ không còn độc nữa, bệnh sẽ lành, cho nên nói "Tám vạn diệu pháp đến bờ kia".
          "Liên Hoa bộ chủ trừ quỷ ma": Đây thuộc về thanh tịnh Liên Hoa bộ chủ, tiếp xúc thứ bệnh đau nầy. Hoa sen rất thanh tịnh, sinh ra ở trong bùn mà không nhiễm. Liên Hoa bộ chủ dùng đủ thứ pháp thanh tịnh, khiến cho quỷ âm độc trừ khử.
          Khi chúng ta tả bài kệ, thì phải biết ý nghĩa của quỷ, nguyên lai của Chú và tiền nhân hậu quả. Còn phải biết tại sao có thứ bệnh nầy! Vì họ có tư tưởng thích tà dâm, cho nên mới sinh bệnh nầy, do đó có câu "Vật dĩ loại tụ, Nhân dĩ quần phân", nhân như vậy, quả như vậy. Loài quỷ nầy tìm đến họ, có thể nói là có "Duyên", cũng có thể nói là có "Oán", trong đạo lý đó mà nói ra thì vô cùng vô tận. Bốn câu kệ nầy đã nói đại khái về tiền nhân hậu quả. Nếu thật nhận thức được, thì sẽ biết nó là ý nghĩa gì. Nếu không thật hiểu biết, thì tả ra vật gì cũng đều chẳng giống như in với câu Chú.

       510. Tát bác lô.

          Dịch: Quỷ mạn dâm nhọt.

          Kệ:

Mạn duyên biến thể tẩm dâm khuẩn
Thử dũ bỉ khởi tối kham kinh
Bát Nhã trí kiếm trảm tình đế
Khôi phục thanh tịnh bổn lai chân.

          Nghĩa là:

Vương vít khắp thân ngấm khuẩn dâm
Đây hết kia sinh rất kinh sợ
Trí kiếm Bát Nhã chém rễ tình
Khôi phục thanh tịnh thật xưa nay.

          Giảng giải: Chúng ta giảng Chú Lăng Nghiêm tức là Lăng Nghiêm đàn tràng, đây là việc kinh thiên động địa, còn trịnh trọng hơn việc vũ khí hạch tử, cho nên chúng ta phải nhận thức rõ ràng.
          "Vương vít khắp thân ngấm khuẩn dâm": Quỷ ngấm dâm là quỷ nữ, tức người nữ hành dâm dục. Thứ nhân tố nầy đều do tâm dâm dục mà khởi, không khác gì mấy bệnh nhọt dương mai. Thứ bệnh nhọt nầy chẳng dễ gì trị khỏi, trị khỏi ở chỗ nầy, thì chỗ khác lại phát bệnh. Thứ khuẩn bệnh nầy có tính độc tố truyền nhiễm, hay lan toả vương vít, từ địa phương nhỏ, lan rộng ra địa phương lớn, cho nên nói "Vương vít khắp thân". Ngâm dâm tức cũng là xâm lược, cho nên gọi "Mạn dâm" như dùng nước ngâm.
          "Tại sao có loài quỷ nầy? Vì lúc cô ta còn sống, thì cứ hành dâm dục, chết rồi chuyển qua giận người khác, nói "Tốt! Tôi chết vì bệnh nầy, tôi cũng kêu bạn chết vì bệnh nầy". Cô ta không nghĩ là chính mình không giữ quy cụ, chết vì bệnh nầy, ngược lại có một sự oán giận, cho rằng người khác làm cho cô ta chết vì bệnh nầy, cho nên cô ta cũng làm cho người khác chết vì bệnh nầy. Do đó người mắc thứ bệnh nhọt nầy, điều trị cũng trị không khỏi. Vào thời xưa, bệnh nhọt dương mai (còn gọi là bệnh hoa liễu) khó trị nhất, đây đều thuộc về khuẩn nấm.
          "Đây hết kia sinh rất kinh sợ": Thứ độc nầy không dứt, chỗ nầy chữa khỏi, thì chỗ khác lại sinh ra, bạn thấy nó giống như khỏi bệnh, qua vài ngày lại phát tác, vì khuẩn độc chưa tiêu diệt, dù dùng thuốc sát trùng cũng giết không chết nó.
          "Trí kiếm Bát Nhã chém rễ tình": Vì bệnh độc thâm căn cố đế, không dễ gì làm sạch sẽ được. Vậy phải làm sao? Phải dùng trí huệ. Người có trí huệ thì không sinh tâm dâm dục, dùng kiếm báu trí huệ Bát Nhã, để chặt đứt gốc rễ tình dục.
          "Khôi phục thanh tịnh thật xưa nay": Sẽ hồi phục lại thanh tịnh, trở về nguồn cội, trở về bản tâm không dâm dục, trong cảnh giới tư tưởng không tà thiên chân hoạt bát. Người thế gian nói trần lao? "Trần" là gì? Tức là ý niệm dâm dục. Bạn xem từng hạt bụi ở trong hư không, đều thuộc về bên ngoài, tại sao con người hay sinh ra mệt mỏi cực khổ? Vì trong tâm có "trần".
Một số người đều cho rằng người nam kết hôn với người nữ là thiên kinh địa nghĩa, do đó có câu "Nam nữ ở với nhau, chuyện bình thường xưa nay", đức Khổng Tử cũng khuyến khích người ta kết hôn, cho nên đều làm hại người chết. Cái hại của người nam khi sinh ra, gì cũng không biết, chỉ biết đi tìm cầu người nữ. Người nữ khi sinh ra, gì cũng đều chẳng minh bạch, chỉ biết đi tìm người nam. Họ thật sự hiểu biết gì? Gì cũng đều chẳng hiểu biết. Tuy hiện tại có ti vi để xem, nhưng đối với vấn đề nầy chẳng chân chánh minh bạch. Nếu minh bạch, thì sẽ không mê như thế. Vì không biết, không minh bạch, mới đi tìm cầu, nên càng tìm cầu thì càng đoạ lạc, mà biến thành quỷ ngâm dâm, biến thành quỷ bệnh ghẻ nhọt, bạn xem đáng thương hay không đáng thương? Loài quỷ nầy hằng ngày thống khổ không thể tả, cho nên chúng có một sự oán khí rằng: "Tôi thống khổ như vầy, tôi cũng sẽ làm cho các bạn thọ khổ giống như tôi"! Cho nên chúng muốn tìm đồng bạn, đi thọ khổ với chúng. Chúng thấy người khác thọ khổ, thì giống như giảm bớt đi sự thống khổ của chính họ, đây là tâm đố kị hình thành. Nếu ai có tâm đố kị, thì phải coi chừng một chút.

       511. Ha lăng già.

          Dịch: Quỷ bệnh nhọt đỏ.

          Kệ:

Xích sang quỷ độc tâm hoả thịnh
Đại chúng Tăng già tác Yết Ma
Nguyện biện Phật sự cầu chân trí
Ái tác pháp vụ chánh giác thành.

          Nghĩa là:

Quỷ nhọt đỏ tâm độc lửa mạnh
Đại chúng Tăng già tác Yết Ma
Nguyện làm Phật sự cầu thật trí
Thích làm việc pháp thành Chánh Giác.

          Giảng giải: Ha Lăng là “Quỷ bệnh nhọt đỏ”.
          "Quỷ nhọt đỏ tâm độc lửa mạnh": Tại sao bệnh nhọt nầy là màu đỏ? Vì quỷ nầy lúc ban đầu chẳng biết lúc làm người, làm ngựa, làm bò, thì tánh nóng giận rất lớn, tâm lửa mạnh, họ chết về bệnh tâm lửa. Vì chết vì bệnh nầy, nên họ có bản lãnh khiến cho người khác cũng sinh bệnh nhọt đỏ giống nhau, khiến cho người linh tánh hao mòn từng chút từng chút, còn tà tánh thì dần dần tăng thêm, chánh tánh thì mất đi. Chánh tánh suy, thì tà tánh thịnh; tà tánh suy, thì chánh tánh thịnh. Chánh tánh tức là trí huệ, tà tánh tức là ngu si. Hoặc giả có người không đồng ý, nói: "Lão Tử nói rằng: 'Đại đạo phế, có nhân nghĩa; trí huệ xuất, có đại nguỵ'. Pháp sư! Ngài giảng chẳng hợp với Lão Tử"! Vậy thì bạn đi học với Lão Tử, không cần theo tôi học. Kỳ thật, bạn không thể thâm nhập nghiên cứu trong đạo lộ, không thể đạo thính đồ thuyết.
          "Đại chúng Tăng già tác Yết Ma": Quỷ bệnh nhọt đỏ tâm lửa mạnh, vậy làm thế nào bình tâm lửa? Một người không được, phải nhờ sức lực của mười phương Tăng, để làm Yết Ma thế cho người bệnh sám hối. Yết Ma tức là chiếu theo Phật chế, tuyên cáo việc quan trọng ba lần, gọi là "tam phiên Yết Ma", sau đó y chiếu quy cụ tác pháp, tựa như lập pháp, ba lần đọc thông qua. Tại sao vậy? Vì không dùng quy cụ, không thành vuông tròn.
          "Nguyện làm Phật sự cầu thật trí": Làm Yết Ma tức là nguyện làm tất cả sự việc của Phật giáo và y Phật chỉ thị mà học pháp, cầu trí huệ chân thật. Tại sao phải cầu trí huệ? Vì quỷ bệnh nhọt đỏ lúc tại nhân địa ngu si, nóng giận quá lớn, tâm lửa mạnh, mà chết bởi ngu si. Hiện tại phải nhờ mười phương Tăng làm pháp Yết Ma, làm Phật sự, thì căn lành của họ sẽ thành thục, sẽ có thể giác ngộ, sửa lỗi làm mới, cải ác hướng thiện.
          "Thích làm việc pháp thành Chánh Giác": Thích làm việc pháp tức là không lười biếng, khoá lễ sớm tối, quá đường, đều phải tuỳ hỉ đại chúng, đi đứng đều phải giữ quy cụ giới luật. Ở trong tùng lâm không thể xuất chúng, tiêu dị hiện kỳ, mà còn phải tất cung tất kính, chí thành khẩn thiết, thì mới có thể thành Chánh Giác.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni "Tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo". Tu lâu như vậy, hiện tại bạn tu mới hai ngày rưỡi, mà muốn khai ngộ, bèn cho rằng mình có công đức, đó là nằm mộng phát cuồng. Cơ sở của bạn chưa tốt, nói đến công phu gì, chứng ngộ đều là gạt người. Người thật có công phu, sẽ không khoe khoang đức hạnh của mình với người khác, trong bất cứ trường hợp nào, cũng đều mai danh ẩn tích, không xuất đầu lộ diện, không thể tiêu dị hiện kỳ, duy ngã độc tôn.
Nhưng thích làm việc pháp, chẳng phải việc của mình, chẳng phải mình muốn làm gì thì làm. Bạn làm pháp của bạn, tôi làm pháp của tôi, đây gọi là lìa khỏi đại chúng, chẳng hợp chúng, thì làm sao nói đến hoà hợp Tăng, do đó "Thích làm việc pháp thành Chánh Giác", bao quát không lười biếng, giải đãi, tánh tình nhu hoà, không nổi nóng, không chướng ngại người khác, tất cả làm được như pháp có thứ lớp.

       512. Du sa đát ra.

          Dịch: Quỷ con nít bệnh nhọt.

          Kệ:

Tiểu nhi sang quỷ thai độc xâm
Nghiêm tịnh Tỳ Ni giới luật tân
Diệu thuật khôi phục thanh tịnh thể
Ly cấu trừ tham hiện pháp thân.

          Nghĩa là:

Quỷ nhọt con nít thai độc xâm
Nghiêm tịnh Tỳ Ni giới luật mới
Diệu thuật khôi phục thể thanh tịnh
Lìa cấu trừ tham hiện pháp thân.

          Giảng giải: Câu Chú nầy là « Quỷ nhọt con nít ». Câu ở trước có liên quan tâm lửa, câu nầy có quan hệ đến nước. "Quỷ nhọt con nít thai độc xâm", đây có sự quan hệ với thai giáo, nếu cha mẹ tâm dâm dục nặng, sinh con ra dễ mắc đủ thứ bệnh nhọt. Do đó, khi người nữ mang thai, thì người nam ở riêng. Truyền thống cổ xưa, khi người nữ mang thai thì về nhà mẹ đẻ. Nếu đã mang thai, nam nữ vẫn không giữ quy cụ, làm loạn xạ ngầu, thì con nít sẽ cảm nhiễm thai độc. Vì tinh hoa của nam nữ căn bản có chứa độc tố.
          Khoa học còn chưa nghiên cứu ra chất độc nầy, hiện tại khoa học đều đang phát triển bên ngoài, chẳng phải trên trời, mà là dưới đất, không đi nghiên cứu bản thân thể con người của khoa học, đây gọi là hướng ngoại truy cầu. Cách đây mấy ngày tôi có nói chuyện với một vị khoa học gia không gian, anh ta có chức vị quan trọng trong bộ quốc phòng.
          - Tôi hỏi anh ta: "Các anh chỉ đi lên trời, hoặc dưới đất, nghiên cứu vũ khí giết người. Nhưng anh không nghiên cứu trong thân thể của mình, có sức đề kháng ra sao, khiến cho bức xạ hạch tử không làm hại anh. Đây như hướng ngoại truy cầu, cho đến hết thuở vị lai, cầu xa lắc xa lơ không có bờ mé".
          - Anh khoa học gia đáp: "Tôi học khoa học đã nhiều năm, chưa từng nghe qua luân lý nầy".
          Anh ta cảm thấy rất mới lạ.
          - Tôi lại nói: "Anh đừng ngại hãy nghiên cứu khoa học bên trong thử xem. Nếu thật biết thì tất cả khoa học đều đón nhận mà giải quyết; bên trong chẳng minh bạch, mà cứ hướng ngoại tìm cầu, thì thuỷ chung là bỏ gốc tìm ngọn".
          Vì nam nữ chẳng giữ quy cụ, cho nên con nít sinh ra thân đầy nhọt độc. Nhi đồng kém trí huệ đến như thế nào? Một số y học đối với lý luận nầy, đều là gãi ngứa ngoài chiếc giầy. Chân chánh nguồn gốc là nam nữ không giữ quy cụ, nhất là thanh thiếu niên nam nữ hút độc, dùng ma tuý, hoặc thuốc á phiện, bản thân của chúng đều hồ đồ điên đảo, cho nên sinh ra con cái không có trí huệ. Bác sĩ còn không biết nguồn gốc nhân tố ở đâu? Đây là nhân tố hiện tại rất nhiều đứa trẻ kém trí huệ, bị bệnh thần kinh, tàn phế, bại liệt! Bản thân cha mẹ không bình thường, sinh ra con cái đương nhiên cũng không bình thường. Vì bất chánh, thì quả sẽ bất chánh. Nhân như vậy, thì quả như vậy, sự việc rõ ràng ở trước mắt, con người còn bịt tai ăn cắp chuông, không chịu thừa nhận. Thai độc rất là lợi hại, không dễ gì trị, cho nên tâm dâm dục hại chết tất cả con người. Nếu người không có tâm dâm dục, căn bản sẽ không sinh bệnh nhọt ngâm dâm và tất cả nhọt độc không sạch sẽ. Vấn đề đối với bản thân con người một khi tột cùng chẳng thông, cứ hướng cầu bên ngoài, còn ăn nói hồ đồ.
          "Nghiêm tịnh Tỳ Ni giới luật mới": Nghiêm tịnh Tỳ Ni tức là phải giữ giới luật. Trước kia bạn không giữ giới luật là cũ; bây giờ giữ giới luật là mới. Tơ hào cũng không thể phạm, trong tâm vọng niệm cũng không được khởi lên. Nghiêm tịnh Tỳ Ni, tức là không khởi một tâm niệm dâm dục. Nếu tâm khởi lên niệm dâm dục, thì chẳng có nghiêm tịnh Tỳ Ni. Bạn coi thường giới luật, tức là cũ; bạn coi trọng giới luật, tức là mới.
          "Diệu thuật khôi phục thể thanh tịnh": Bạn hay giữ giới luật, tức là diệu thuật, sao lại phải cầu bên ngoài? Giữ giới luật tức là không sai nhân quả. Thế nào gọi là không sai nhân quả? Tức là bạn đừng có rơi vào không, cũng đừng có rơi vào có. Bạn rơi vào không, đây là bát không nhân quả, rơi vào có, vẫn là sai nhân quả. Trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư có nói rằng:

Khoát đạt không, bát nhân quả,
Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa.
Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên,
Hoàn như tị nịch nhi đầu hỏa.

          Nghĩa là:

Ðắm ngoan không, bát nhân quả
Bừa bãi, rối ren, càng thêm họa.
Bỏ có, níu không, bệnh vẫn nguyên
Khác nào trốn nước sa vào lửa.

          Người thể hội pháp thâm sâu, thì sẽ không bát vô nhân quả. Họ sẽ không lỗ mãng, bừa bãi rối ren, Phật cũng không sợ, ma cũng không sợ, nói rằng: "Tôi cũng là Phật, Phật cũng là tôi; Tôi cũng là ma, ma cũng là tôi". Ăn nói hàm hồ. Đây gọi là hồ đồ không rành, như Trư Bát Giới nuốt trựng quả nhân sâm, bèn đi hỏi Tôn Ngộ Không: "Anh Tôn! Anh Tôn! Quả nhân sâm mùi vị như thế nào vậy"?
          Tôn Ngộ Không đáp: "Chính mày ăn, sao lại phải hỏi tôi"?
          "Khoát đạt không", người bát vô nhân quả, cảm thấy gì cũng đều chẳng có, trên không có Phật đạo có thể thành, dưới không có chúng sinh có thể độ. Họ dám chửi Phật mắng tổ, không sợ trời, không sợ đất, chân lý mù tịt, lỗ mãng, ngang tàng, bướng bỉnh, đây là đã sai lại càng sai!
          Loại người nầy, lỗ mãng ngang tàng, họ biết nếu như họ mắng Phật, thì Phật cũng không thể lập tức cắt lưỡi của họ xuống, không thể lập tức khiến cho họ xuống địa ngục, cũng là việc tương lai. Tương lai làm kẻ câm cũng rất tốt, tỉnh khước rất nhiều phiền não! Quả nhiên tương lai họ đi làm người câm. "Bỏ có níu không": Bạn không cần cái có nầy, lại chấp trước vào cái không, vẫn như nhau, "Vẫn như trốn nước sa vào lửa": Giống như trốn nước mà chạy vào trong lửa.
          Cho nên chúng ta phải hồi quang phản chiếu từng giờ từng phút, đừng có truy cầu bên ngoài. Đi tìm bên ngoài, dù bạn có tìm bao nhiêu, cũng đều là của người ta, sao bạn không khai quật châu báu của mình vốn có. Trước khi chưa chứng được bốn trí: Đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sát trí, thành sở tác trí, có nói gì cũng đều là giả. Nếu chứng được đầy đủ bốn trí rồi, thì dù bạn mắng người cũng là thật. Phải thân tự chứng được cảnh giới nào đó, đừng có khoe đức hạnh của mình nói: "Tôi khai ngộ như thế nào, tôi chứng quả như thế nào .v.v...". Phàm là loại người nầy, đều là giả không thật. Bạn nghe được người nầy nói chuyện, nói tới nói lui đều là khen mình chê người, người nầy xong phim rồi đó. Phải từ tâm hạ khí, cung kính tất cả, mà cung kính thì phải từ trong tâm phát xuất, chẳng phải giả dối trước mặt. Phải trong ngoài như một, tâm chân thật, nói lời chân thật, hành vi chân thật, như vậy mới là giữ giới luật, tức là "Nghiêm tịnh Tỳ Ni", mới là đắc được "Diệu thuật". Tức nhiên đắc được bản thể thanh tịnh, thì cũng không có quỷ bệnh nhọt con nít.
          "Lìa cấu trừ tham hiện pháp thân": Cấu là gì? Tức là tình tình ái ái. Dâm dục là pháp nhiễm ô, lìa cấu tức là lìa khỏi pháp ô nhiễm nầy, tâm dâm dục nầy. Trừ tham, tức là trừ tâm dâm dục. Các vị có thừa nhận hay không, tôi cũng nói như thế. Khi nam tìm nữ, nữ tìm nam, đặc biệt rất chí thành khẩn thiết, ai cũng phá hoại không được. Nếu sức lực tin Phật mà có thứ tâm chí thành nầy, thì sớm sẽ thành Phật lâu rồi! Cho nên Không Tử có nói rằng:

"Tôi chưa thấy háo đức, như háo sắc vậy".

Nam nữ là tâm tâm niệm niệm muốn nói tình nói ái, nhưng không có người nào có thể tâm tâm niệm niệm nói Phật, nói Pháp, nói Tăng. Nếu bạn dùng thứ tâm nầy để cầu Phật pháp, có sự khẩn thiết như vậy, thì bạn sớm đã thành Phật lâu rồi, không đợi đến hôm nay.
          Có thể giảng cao hơn một bậc: Đây là :

"Người trong cuộc thì mê
Kẻ bàng quang thì rõ".

Khi làm người thì bạn mê, đến khi bạn mất đi thân người, thì mới giác ngộ, nhưng đã quá muộn, sau hối hận không kịp nữa! Đây cũng là đạo lý Diễn Nhã Đạt Đa đi tìm đầu. Có một buổi sáng sớm nọ, Diễn Nhã Đạt Đa dậy soi gương, bèn phát thần kinh nói: "Cái đầu của tôi chạy vào trong gương rồi, cái đầu của tôi đâu rồi"? Bị điên lên, chạy đi khắp các con đường, gặp người bèn hỏi: "Cái đầu của tôi chạy đi đâu mất rồi"? Chạy đi khắp nơi tìm đầu, còn cho rằng mình rất bận rộn, chẳng phải là điên đảo chăng? Đây thật là đáng thương, tức là phát cuồng. Nhưng :

"Nếu cuồng tâm mà hết, hết tức là bồ đề".

Nếu tâm cuồng của bạn dừng lại, một khi dừng lại, thì sẽ chuyển thành bồ đề, tức thời giác ngộ.
        
       513. Ta na yết ra.

          Dịch: Quỷ điên cuồng.

          Kệ:

Hút độc phục dược phát điên cuồng
Hồ ngôn loạn ngữ tự xưng vương
Bát vô nhân quả phi tinh phụ
Ngũ bộ pháp chủ trấn bát phương.

          Nghĩa là:

Hút độc uống thuốc phát điên cuồng
Ăn nói hồ đồ tự xưng vương
Bát vô nhân quả yêu tinh nhập
Năm bộ pháp chủ trấn tám phương.

          Giảng giải: "Hút độc uống thuốc phát điên cuồng": Câu Chú nầy là chỉ « Quỷ điên cuồng ». Tại sao có quỷ điên cuồng? Vì có người điên cuồng. Nếu không có quỷ điên cuồng, thì cũng không có người điên cuồng. Cho nên quỷ nhờ sức người, người nhờ sức quỷ, hổ tương trợ giúp. Bạn thấy người điên cuồng họ chẳng màng, chẳng lo gì hết, chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, người Mỹ nói tiếng Tàu, gì cũng đều chẳng sợ, cho rằng mình là ông trời, là Phật, là tổ tông. Sự điên cuồng nầy, cũng có một luồng oán khí bên trong. Điên cuồng chẳng phải chỉ là một thứ, mà là có rất nhiều tới tám vạn bốn ngàn thứ.
          Lúc tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc, đã từng thấy qua một dạng điên cuồng, nói ra đây cũng đều là do nhân quả. Có gia đình nọ, sinh ra hai người còn gái, cô con gái lớn được mười bảy tuổi, thì đi theo bạn trai, bèn có thai đã lớn. Tư tưởng của người xưa rất là bảo thủ, chẳng giống như nước Mỹ bây giờ rất cởi mở.
Cha của cô ta rất là nóng tính nói: "Việc nầy có thể nhẫn, thì gì chả nhẫn được? Làm gì chưa cưới hỏi mà có con? Đâu có lý nầy"! Bèn trừng trị cô ta. Vì ông ta say rượu, do đó ông ta với cô con gái út đào một cái hố, chôn sống cô con gái lớn. Đây là giết một người mà thành hai mạng người.
Từ đó về sau, oán khí oan hồn của cô chị nhập vào cô em, quỷ lớn và quỷ nhỏ liên hợp với nhau khiến cho cô ta điên cuồng. Điên cuồng như thế nào? Cô ta chạy ra đường, đi về trước ba bước, thì lùi về sau hai bước, đi khắp nơi nói với mọi người rằng: "Mày có biết tao là ai không? Tao là tổ tiên của nhà mày". Hoặc là: "Tao là lão gia trong nhà của mày". Hoặc là: "Tao là tổ tông ba đời nhà mày". Có cha của họ chết, cô ta bèn nói: "Tao là cha của mày". Cô ta đi khắp nơi mạo xưng.
Thật tế người khiến cho cô ta điên cuồng, là chị của cô ta và đứa con trong bụng của cô ta, cùng nhau đến đòi mạng cô ta. Ba của cô ta say rượu, thì cô ta cũng say rượu, cho nên chôn sống cô ta. Ba của cô ta chết rồi, thì báo ứng rơi vào trên thân của người em gái. Có người giới thiệu tôi đi đến độ cho cô ta, (một số người vẫn không biết cô ta đã giết người chị), lúc đó tôi tuổi còn trẻ, chẳng biết tốt xấu gì, vì cô ta mà trị, trị như thế nào? Lập tức trên trán cô ta mọc ra một cái sừng, dài khoảng hai tất, giống như sừng bò, bất quá do thịt hình thành.
          Tôi có một đệ tử quy y, trên đầu cũng có một "nhục kế", lớn cỡ quả cam. Trước kia cô ta vốn là con đà bối, giống như con ngan, nhưng cô ta thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có một lần nọ bị ngã nhào, đáng lý ngã sấp, nhưng lại ngã ngửa, bạn nói có kỳ lạ chăng? Đầu của cô ta mọc ra một vật, do đó bèn đến hỏi tôi rằng: "Cái nầy có đáng sợ không"? Tôi nói: "Nhục kế mà sợ gì? Đây là con niệm Phật có sự cảm ứng". Cô ta nghe rồi cũng cảm thấy rất vui. Nhưng hơn hai mươi năm qua, vật đó trên đầu cô ta càng dài ra, đầu lại thêm đầu, cảm giác chẳng dễ chịu, bèn thỉnh tôi nghĩ cách gia trì cho cô ta. Tôi bèn nói với cô ta: "Con giữ nó thì càng tốt, con so với người khác nhiều hơn một phần"! Nhưng cô ta chẳng có nhiều nơi như thế, lúc ngủ cũng rất bất tiện.
          Tôi gia trì cho cô ta chẳng bao lâu, một ngày nọ khi cô ta làm việc ở nhà bếp, nhục kế bị vỡ, chảy ra khoảng một tô nước trà, sau đó cô ta đến bệnh viện kiểm tra, bác sĩ bèn nói chẳng có độc. Cô ta nói: "Đương nhiên chẳng có độc, vì đã hơn hai mươi năm, tôi cũng chẳng chết".
          Tại sao hay bị điên cuồng? Vì người đó hút độc, hút thuốc phiện, điên điên đảo đảo, cho rằng mình đã thành Phật, thành Tiên. Thời xưa rất lâu xa đã có cây gai, người hút cây gai rồi, thì cảm thấy nhìn thấy thần, gì cũng nhìn thấy được, cho rằng mình hay giỏi, cho nên bị điên cuồng.
          "Ăn nói hồ đồ tự xưng vương": Ăn nói hồ đồ, tự xưng là hoàng đế, tự xưng mình là Phật, nói mình có tam sơn ngũ nhạc gì đó, loại cửu hầu tiên sinh, kỳ thật, đây là hầu tinh, ngưu tinh, mã tinh, điểu quy tinh đang tác quái. Kẻ ngu chẳng minh bạch, bèn nói đây là Bồ Tát khai nhãn, có ngũ nhãn lục thông, đây đều là bắn đại pháo (nổ).
Tôi có một vị đệ tử, suốt ngày đến tối muốn thần thông, nên nghe trong hư không có âm thanh kêu anh ta ăn đại tiện. Người đó chuyên tin Mật Lặc Nhật Ba, ôi, đây là do tôi dạy đệ tử, vì tôi làm sư phụ mà không biết dạy người, nên Hằng Không cũng chẳng không.
          "Bát vô nhân quả yêu tinh nhập": Tại sao không sợ nhân quả? Vì họ có yêu tinh nhập. Yêu tinh tức là hồ ly tinh, xà tinh, trăn tinh, hoàng thử lang tinh, những ngưu quỷ xà thần nầy, đều là yêu tinh, khi chúng thấy người đó có tố chất điên cuồng, thì chúng bám vào thân họ, trợ giúp họ. Ví như Lư Thắng Ngạn bị ma quỷ nhập, Lâm Vân thì có chim rùa theo, người nầy chuyên môn đi lường gạt tiền tài, sắc đẹp, nếu anh ta hành dâm với người nữ, thì người nữ đó từ từ cũng sẽ làm chim rùa, trở thành quyến thuộc của anh ta. Ở nước Mỹ thì có Jinones, Rojanish. Cho nên yêu ma quỷ quái đều muốn lập mối quan hệ với người, để phan duyên, để tăng thêm thế lực của chúng.
          "Năm bộ pháp chủ trấn tám phương": Như vậy phải làm thế nào? Bạn tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì năm bộ pháp chủ và năm bộ diệu pháp trấn tám phương, tất cả yêu ma quỷ quái đều lão thật.

       514. Tỳ sa dụ ca.

          Dịch: Quỷ bệnh hủi nhọt.

          Kệ:

Cổ độc xương quyết lại sang anh
Vọng tưởng tạp niệm tà dâm thành
Kiên trì tụng đọc Thiên thần hộ
Giải không đốn giác thông tương ưng.

          Nghĩa là:

Bùa ngải tung hoành hủi nhọt bướu
Vọng tưởng tạp niệm tà dâm thành
Kiên trì đọc tụng Thiên thần hộ
Giải không sớm ngộ thông tương ứng.

          Giảng giải: "Bùa ngải tung hoành hủi nhọt bứu": Bùa ngải là một trong những thứ tà thuật, đạo nhân mao sơn của Trung Quốc cũng hay bỏ bùa ngải, còn có những thứ quỷ đuổi thây chết trở về, chúng niệm chú đối với người chết, có thể kêu người chết đứng dậy đi bộ, bạn xem có đáng sợ chăng.
          Bỏ bùa ngải tức là họ bỏ một chút đồ vật, hoặc kêu bạn ăn, hoặc kêu bạn nhìn, hoặc kêu bạn làm gì đó, đều có thể trúng bùa ngải của họ. Tung hoành tức là lợi hại, có thể kêu người trên thân bệnh nhọt dài và hủi. Ông Dư Đông Tuyền người Hồng Kông bị người ta bỏ bùa ngải, trong bụng đầy dẫy trùng, bác sĩ lấy ra cũng lấy không hết. Đây là từ vọng tưởng tạp niệm và trong tư tưởng tà dâm chiêu lại, mới có thứ quả báo nầy, mọi người nên nhớ phải giữ gìn chánh niệm, cho nên nói: "Vọng tưởng tạp niệm tà dâm thành".
          "Kiên cố đọc tụng Thiên thần hộ": Đừng có tà tri tà niệm, phải có chánh niệm kiên cố, đừng có nghĩ tưởng lung tung, thì Thiên thần sẽ bảo hộ bạn.
          "Giải không sớm ngộ thông tương ứng": Khi bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì thứ ma quỷ nầy chúng cũng sẽ cải ác hướng thiện, nghiệp chướng của bạn và chúng cũng sẽ tiêu trừ, hổ tương thông với nhau, hổ tương không còn oán hận, cho nên giải quyết được vấn đề nầy, cho nên nói "Thông tương ứng". Lợi ích tụng niệm Chú Lăng Nghiêm nói không hết được, hiện tại chỉ nói một chút chút trong trăm phần mà thôi, kỳ thật, sự lợi ích không cách chi để nói.

       515. A kỳ ni.

          Dịch: Quỷ lửa độc.

          Kệ:

Hoả độc quỷ sùng sí nhiên hung
Nhiệt liệt tình dục nhật dạ công
Tụng trì linh diệu thanh lương cú
Tai tiêu phần thối hộ pháp ủng.

          Nghĩa là:

Quỷ lửa độc thiêu đốt rất mạnh
Tình dục hăng hái làm ngày đêm
Tụng trì linh văn vi diệu nầy
Tiêu tai cháy sạch hộ pháp ủng.

          Giảng giải: "Quỷ lửa độc thiêu đốt rất mạnh": Hai câu Chú nầy, một là lửa, một là nước, hôm nay muốn hợp lại giảng. Lửa là thuộc dương, nước là thuộc âm. Một là quỷ dương, một là quỷ âm. Một là quỷ nam, một là quỷ nữ. Nhưng trong dương lại có âm, trong âm lại có dương, đây chỉ là một sự biến hoá, giống như người nữ nếu háo sắc, có tâm dâm dục, thì sẽ biến thành quỷ lửa độc. Người nam có tâm dâm dục, thì sẽ biến thành quỷ nước độc, hổ tương biến hoá. Tuy nói là quỷ mẹ nước độc, ở đây cũng có quỷ nam, chẳng phải chỉ riêng quỷ mẹ, nhưng dùng quỷ mẹ làm đứng đầu; người nam nên gọi là quỷ công, quỷ công nước độc, một mẹ một công. Nhưng ở trong quỷ nam nầy, cũng có mẹ (quỷ nữ), như vậy chẳng phải là loạn chăng? Chẳng phải loạn, tóm lại, người nữ háo sắc, sẽ biến thành người nam, người nam háo sắc, sẽ đi làm thành người nữ, đây là biến hoá, vì nói họ quá hoan hỉ, quỷ nước dùng mẹ nước làm lãnh đạo. Quỷ lửa độc thì do quỷ công làm lãnh đạo, nhưng tuy là nói như vậy, vẫn là có nam, có nữ. Có lúc họ hổ tương hợp tác với nhau, có lúc lại hổ tương công kích với nhau. Công kích như thế nào? Giống như người lúc bị nóng, hốt nhiên bị lạnh, đó là quỷ nước độc công kích quỷ lửa độc, khi lửa thối lui rồi, quỷ lửa độc đến nơi khác rải độc, quỷ nước độc bèn đến phá hoại quỷ lửa độc, do đó bệnh nhân lại bị lạnh. Do đó, khi người bị gió, có lúc lạnh, lúc nóng. Lúc lạnh là quỷ độc đến rải độc, lúc nóng là quỷ lửa độc đến rải độc, hai con quỷ nầy hợp tác với nhau.
Tại sao lại làm hai con quỷ nầy? Vì tâm dâm dục quá lợi hại, tại sao câu Chú phía sau chưa nói "Lạnh"? Vì bản tánh của nước là lạnh, bản tánh của lửa là nóng. Phía trước biết là nóng, phía sau nên biết là lạnh. Tối nay giảng hai quỷ nước lửa nầy rất có ý nghĩa. "Thiêu đốt rất mạnh": Giống như bị lửa thiêu mạnh, nếu ai có thứ bệnh nầy mà sinh bệnh nhọt, lại vừa nóng, đầu cũng rất đau. Đây là bị lửa độc thiêu đốt.
          « Tình dục hăng hái làm ngày đêm": Tại sao hay có thứ quỷ lửa độc nầy? Vì sự nhiệt tình quá lợi hại. Tình dục giống như lửa dục đốt thân, loạn hành dâm dục, cho nên người nam biến thành quỷ nước độc, người nữ biến thành quỷ lửa độc. Vì dâm dục quá mãnh liệt, cho nên âm dương điên đảo, chẳng tự nhiên.
          "Tụng trì linh văn vi diệu nầy": Sự vi diệu như sự mát mẻ, bạn tụng trì câu nầy, thì lửa sẽ thiêu đốt sạch, tai nạn đều sẽ tiêu trừ.
          "Tiêu tai cháy sạch hộ pháp ủng": Hộ pháp Tam Bảo đều đến ủng hộ bạn. Do đó mới nói "Hộ pháp ủng", chẳng phải chúng làm hộ pháp để ủng hộ Tam Bảo, mà là hộ pháp của Tam Bảo đến ủng hộ bạn. Hộ pháp chứ chẳng phải pháp hộ, khi nói đông nói tây phải nhận thức đề mục nầy, chỗ nầy là chỉ hộ pháp đến ủng hộ người có bệnh.

       516. Ô đà ca.

          Dịch: Quỷ nước độc.

          Kệ:

Thuỷ độc quỷ mẫu quyến thuộc ác
Phiên giang đảo hải hưng lãng ba
Kim Cang long thần hộ lương thiện
Hoá hiểm vi di niệm Phật đà.

          Nghĩa là:

Quỷ mẹ nước độc quyến thuộc ác
Dời sông lấp biển nổi sóng lớn
Kim Cang rồng thần hộ lương thiện
Chuyển hung hoá cát niệm Phật đà.

          Giảng giải: "Quỷ mẹ nước độc quyến thuộc ác": Quyến thuộc của chúng rất ác, vì tánh tình của chúng âm hiểm, cho nên hay muốn khiến người chết đuối, chết chìm, đây đều là quỷ nước độc đang tác quái.
          "Dời sông lấp biển nổi sóng lớn": Loài quỷ nước độc nầy, so với lửa độc còn lợi hại hơn, âm độc so với dương độc càng mãnh liệt hơn. Nếu độc quá lợi hại, thì sẽ làm thành núi lở biển gào, tạo thành các thứ tai nạn. Nếu hay thành tâm tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì sẽ cảm động Thần Kim Cang đến hộ trì bạn.
Những bài kệ nầy tuy là tôi viết ra, nhưng tôi giảng cũng chẳng phải tuỳ tiện muốn nói gì nói, phải thật đầy đủ con mắt chọn pháp (trạch pháp nhãn), mới có thể nói hợp vừa tốt, đây là xem bạn có giới định huệ hay không!
          "Kim Cang rồng thần hộ lương thiện": Nếu người có căn lành, thường làm việc thiện, thì Kim Cang rồng thần sẽ đến hộ trì bạn.
          "Chuyển hung hoá cát niệm Phật đà": Trách nhiệm của Kim Cang rồng thần, là ủng hộ người lương thiện, chẳng màng quỷ nước độc nổi sóng, nổi gió, như thế nào, nếu bạn có căn lành, thì cũng sẽ chuyển hung hoá cát, vượt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nhờ quá khứ có căn lành, đã từng làm việc thiện, đã từng niệm Phật, sẽ cảm động đến Kim Cang rồng thần đến cứu bạn. Vì rồng thần là cai quản về nước, nếu bạn bị nước độc, thì Ngài sẽ đến trợ giúp bạn.

       517. Mạt ra bệ ra.

          Dịch: Quỷ nữ chết.

          Kệ:

Đố kị sân khuể lượng trách hiệp
Biến hoá mạc dò độc tuý ma
Tấn lôi phong nhiệt trợ oai ngược
Âm hồn phiêu đãng phó hoàng sa.

          Nghĩa là:

Đố kị sân hận lượng hẹp hòi
Biến hoá khó dò độc ma tuý
Sấm sét gió mạnh thêm ác liệt
Âm hồn trôi dạt đâu mặc kệ.

          Giảng giải: Chú Lăng Nghiêm, mỗi một câu đều có sự linh cảm, đều có công năng biến hoá khó dò, đều có nhân quả tuần hoàn báo ứng hàm chứa bên trong, chúng ta phải nhận thức triệt để mỗi một câu Chú Lăng Nghiêm, đây mới là chân chánh minh bạch Phật pháp và tâm ấn của Phật.
          Các vị hãy nghĩ xem, Ngài A Nan là Tỳ Kheo, bị ngoại đạo dùng Chú Phạm Thiên mê hoặc, cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Chú nầy, để cứu Ngài về, không bị mê mất bản tánh. Chú Phạm Thiên nầy giống như hiện tại Lư Thắng Sâm, loại Lâm Vân, sống theo anh ta hưng yêu tác quái, dùng tay trị bệnh sờ người tầm bậy .v.v... Cũng vì dùng tay sờ người nầy, mà làm cho tâm người không lão thật. Những thứ nầy Chú Lăng Nghiêm có nói đến, đó là "Yêu tinh nhập vào người". Minh bạch Chú Lăng Nghiêm là chuyên môn phá những thứ pháp thuật nầy, con người một khi trúng ma quỷ nầy, thì thần hồn điên đảo, không làm chủ được nữa, mà nghe theo lời ma quỷ. Do đó Phật Thích Ca Mâu Ni tại hoá thân của Ngài nói Chú nầy, sai Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi dùng Chú nầy đến cứu Ngài A Nan trở về từ trong nhà của nữ Ma Đang Già. Chúng ta nghiên cứu đoạn nhân duyên nầy, thì phải biết Chú Lăng Nghiêm là như thế nào.
          "Đố kị sân hận lượng hẹp hòi": Câu Chú Lăng Nghiêm nầy là “Quỷ nữ chết”. Quỷ nữ nầy lúc còn sống, thì chuyên đố kị, sân hận, tâm lượng rất là hẹp hòi.
          "Biến hoá khó dò độc ma tuý": Vì tánh tình của cô ta cũng biết hoá khó dò, miệng thì nói lời tốt, nhưng hàm ý rất thâm độc, như là thuốc ma tuý, làm cho thần trí của bạn không thanh tịnh. Cô ta cũng giống như thuốc độc, cũng giống như rượu và hút nha phiến, khiến cho ý chí của bạn tiêu trầm, chẳng còn sáng suốt.
          "Sấm sét gió mạnh thêm ác liệt": Cô ta giống như sấm sét gió mạnh. Giúp thêm ác, trợ giúp cho hành vi thêm ác liệt.
          "Âm hồn trôi dạt đâu mặc kệ": Khi còn sống thì như thế, chết rồi thì âm hồn trôi dạt, tâm vẫn không ngừng gây ra bão tố, tạo thành đủ thứ tai hoạ để hại người. Đây là ác tập khí từ lúc còn sống, sau khi chết vẫn còn tiếp tục.
        
       518. Kiến đa ra.

          Dịch: Từ thiện chủ.

          Kệ:

Thiên thần địa kì hộ nhân gian
Kí lục thiện ác chánh bất phiên
Tâm từ bi nguyện hoá quần phẩm
Đồng chứng vô sinh học Thánh hiền.

          Nghĩa là:

Thiên thần địa thần hộ nhân gian
Ghi chép thiện ác đúng không sai
Tâm từ bi nguyện hoá quần sinh
Đồng chứng vô sinh học Thánh hiền.

          Giảng giải: Kiến Đa Ra, dịch ra là “Từ thiện chủ”. Ở trước nói về quỷ nữ chết, chết rồi tác oai tác quái.
          "Thiên thần địa thần hộ nhân gian": Có âm cũng có dương. Dương là chỉ Thiên thần, địa thần và thần gió. Thần gió là cai quản quỷ nữ phát cuồng. Thiên thần địa thần có phải như thế chăng? Tôi là cô vọng ngôn, các vị thì cô vọng thính. Quỷ nữ chết đợi Thiên thần địa thần ngủ nghỉ rồi, thì chúng nổi sóng nổi gió tác quái, khi có sự động tĩnh, thì Thiên thần địa thần tỉnh dậy, có phải vậy chăng? Tôi không có gì chứng minh cho các vị, tôi chỉ giảng nghĩa thôi, các vị làm Thần thì đừng có ngủ. Làm quỷ nổi sóng nổi gió, cát bay đá chạy, cây ngã bậc gốc, thứ oai phong nầy rất là lợi hại, lúc đó Thiên thần đại khái cũng cảnh tỉnh. Tuy Thiên thần đang nhập định ở đó, nhưng Ngài quản thiện ác ở nhân gian, một chút cũng không lơ là.
          "Ghi chép thiện ác đúng không sai": Chủ trì công đạo, không thiên vị chút nào.
          "Tâm từ bi nguyện hoá quần sinh": Tại sao Ngài phải như vậy? Vì Ngài có tâm từ bi nguyện. Thần tại sao làm thần? Vì thuở xưa tại nhân địa, cũng đã từng bị quỷ nữ chết hại, cho nên phát nguyện: "Nếu tôi gặp được quỷ nữ chết, thì tôi phải giáo hoá chúng". Đối với chúng sinh có nhân duyên, muốn phát tâm từ bi và tâm nguyện thương trời xót người đến giáo hoá họ.
          "Đồng chứng vô sinh học Thánh hiền": Chúng sinh có nhân duyên, chúng ta đều phải giáo hoá, khiến cho họ đồng chứng vô sinh pháp nhẫn, đồng sinh Phật đạo, học tập mô phạm của bậc Thánh hiền.
Những gì tôi giảng, các vị tốt nhất là đừng nhớ, hãy quên hết đi. Hằng ngày nghe đều là cái nầy, nghe tới nghe lui làm cho lỗ tai khó chịu, đều là kêu người làm điều tốt. Giống như trước kia có người nói: "Sư phụ giảng tới giảng lui đều là tham, sân, si, kêu người đừng tham, đừng sân, đừng si". Tôi nói, bạn trừ được chưa vậy? Nếu bạn không trừ được, thì đương nhiên tôi phải nói năm lần bảy lược, giống như sáu đại tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỉ, không lợi mình, không nói dối. Các vị mỗi người phải thực hành sáu đại tông chỉ, thì tôi không cần nói. Bạn không thực hành, không làm được, thì đương nhiên tôi phải nói.

       519. A ca ra.

          Dịch: Quỷ hoành tử.

          Kệ:

Phi tai hoành hoạ li nạn vong
Vô minh thác nhân chiêu tội ương
Đại từ tâm độ chư não khổ
Diệu thuật chưng cứu hoá cát tường.

          Nghĩa là:

Phi tai hoành hoạ mắc nạn chết
Vô minh sai nhân chiêu tội ương
Đại từ tâm độ các não khổ
Diệu thuật cứu độ hoá cát tường.

          Giảng giải: "Phi tai hoành hoạ mắc nạn chết": Phi tai hoành hoạ là gì? Vốn không nên có, mà bạn có; chẳng phải thuộc về bạn, mà bạn lại có được, vốn bạn không nên chịu, mà bạn phải chịu. Hoành hoạ đến một cách bất ngờ, tức là tai nạn. Có người uống rượu, bị thùng rượu bằng gỗ ngập rượu chết, đây có phải là hoành hoạ chăng? Ăn gà bị mắc nghẹn xương gà mà chết, đây có phải là tai nạn chăng? Như Tống Tử Văn ăn thịt một con gà, bị mắc nghẹn một cái xương gà ở cổ họng, không xuống được, mà lấy ra cũng không được. Còn có sự thắt cổ chết, ném xuống biển chết, tai nạn lửa chết, nước ngập chết, bị gỗ đập chết, bị đá đập chết, bị đất chôn sống, đều gọi là hoành tử. Gặp kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, chết một cách bất ngờ, đều gọi là hoành tử, cũng gọi là gặp nạn mà chết.
          “Vô minh sai nhân chiêu tội ương”: Tại sao phải thọ thứ quả báo nầy? Đây là phải tính ngược lại ba ngàn năm về trước, hoặc là một vạn năm, không nhất định được, đều do một niệm vô minh ban đầu mà sai nhân quả, cho nên gặp tội ương hoành tử.
          “Đại từ tâm độ các khổ não”: Người trầm luân ở trong biển khổ không dễ gì thoát khỏi, may mắn gặp được chư Phật Bồ Tát đại từ bi tâm phổ độ, cũng không nhất định một vị Phật nào đó, hoặc Bồ Tát, Thánh nhân, hoặc vị A La Hán nào đó, có duyên với bạn. Đây cũng phải vãng hồi tính xem, cũng có thể sự việc trong ba ngàn năm, năm ngàn năm, một vạn năm, hoặc tám vạn đại kiếp, tính ra bạn có chút duyên với vị Phật Bồ Tát, hoặc Thánh nhân nào đó. Nhờ đó Ngài dùng đại từ tâm đà la ni, hoặc đại bi tâm Chú Lăng Nghiêm, hoặc dùng đại bi tâm của Ngài vốn có, để độ tất cả phiền não và tất cả thống khổ.
          “Diệu thuật cứu độ hoá cát tường”: Trì tụng Chú Lăng Nghiêm là diệu thuật, tụng Chú Đại Bi, 42 thủ nhãn cũng là diệu thuật. Hoặc người đó y thuật cao minh, cũng gọi là diệu thuật, vì có một ý nghĩa trong câu Chú nầy là “Năng y” (có thể chữa trị). Diệu thuật có thể cứu bạn, hoá nguy hiểm thành cát tường, nếu bạn gặp may mắn thì sẽ giải trừ được tai nạn, cho nên khiến cho đáng lẽ chết cũng không chết, đây gọi là hoá cát tường.

       520. Mật rị đốt.

          Kệ:

Chủng chủng hoành tử oán xung thiên
Sĩ cơ tầm trảo thế đại duyên
Thiện giả hỉ thí phương tiện lực
Giải kết thích khiên miễn ngao tiên.

          Nghĩa là:

Đủ thứ hoành tử oán ngất trời
Đợi cơ hội tìm người chết thế
Người thiện vui thí sức phương tiện
Giải kết tội khiên hết thống khổ.

          Giảng giải: "Đủ thứ hoành tử oán ngất trời": Ai muốn thế chúng làm quỷ chết, thì chúng cho rằng là bạn bè tốt của chúng, có duyên với chúng. Ví như chỗ bị tai tạn và chỗ đụng xe, vào tháng 3 năm đó, có người đụng xe, tháng 3 năm sau, cũng lại có người đụng xe, qua tháng 3 năm sau nữa, cũng lại có người đụng xe, qua tháng 3 năm sau kế tiếp, cũng lại có người đụng xe, chỗ đó có quỷ ở đó, muốn tìm người thay thế quỷ chết. Đụng xe, chết đuối, lửa thiêu, tai nạn máy bay, xe lửa trật đường rầy, tàu chìm trong biển .v.v... cũng đều như thế, đủ thứ trong đó nói không hết.
          Nếu như có người treo ngược chết, chúng cũng kêu bạn treo ngược, thay thế quỷ chết. Nói đến đây, tôi nhớ lại lúc tôi ở Chùa Tam Duyên đông bắc Trung Quốc, vị hoà thượng phương trượng có cô em gái, khi Ngài đang thủ hiếu, thì cô em gái đã kết hôn. Không biết nguyên nhân như thế nào, mà một ngày nọ cô em gái của Ngài hốt nhiên nghĩ: "Thắt cổ chết cho rồi! Thắt cổ chết cho rồi"! Đang lúc khởi vọng tưởng đó, thì hoà thượng phương trượng liền biết. Lúc đó tôi còn chưa xuất gia, phương trượng kêu tôi đi cứu cô ta. Sư phụ của tôi là người nông dân không biết chữ, còn tôi đây người nông dân, cũng lạy người nông dân làm sư phụ, cho nên đệ tử của tôi gọi tôi là "Lão Thổ Bao Tử", kỳ thật Lão Thổ Bao Tử không cần phải học, chỉ cần ngốc ngết là được.
          Tôi đi đến xem thử tình hình, thì thấy cô em gái của Ngài phương trượng đang ở đó, một mặt khóc lóc, một mặt chải đầu, bôi son phấn và mặc quần áo mới. Tôi thấy tình hình như vậy bèn hỏi cô ta rằng:
- "Cô làm gì vậy"?
          - Em gái phương trượng nói: "Tôi cảm thấy sống không có ý nghĩa gì".
          - Tôi nói: "Anh của cô kêu tôi đến đây xem cô, nói cô muốn thắt cổ tự tử, kêu tôi khuyên cô đừng có khởi vọng tưởng nầy".
          - Em gái phương trượng nghe lời nầy bèn nói: "Tôi cũng không biết tại sao cứ nghĩ đến muốn thắt cổ chết cho xong, nhưng lại bỏ nhà đi không đành". Đây tức là bị ma quỷ mê hoặc.
          Từ chỗ nầy mà nhìn lại, đây đều là có ma quỷ. Quỷ là gì? Có người thì có quỷ, quỷ tức là người biến thành, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu quỷ. Có bao nhiêu người, thì có bấy nhiêu Phật. Có người nói: "Tại sao tôi không nhìn thấy Phật, hoặc quỷ? Chỉ nhìn thấy người". Nên biết những thứ mà bạn không nhìn thấy thì nhiều lắm, không thể cho rằng vì bạn không nhìn thấy thì nói không có. Những sự việc mà bạn không nhìn thấy, thì nhiều vô số, đừng bịt tai ăn cắp chuông, tự cho rằng mình rất thông minh. Như đây thì chứng minh "Đợi cơ hội tìm người chết thế", có người thế họ chết, thì họ có thể đi đầu thai, quy cụ nầy tức là như thế. Quỷ chết oan uổng cần chính mình đi tìm người thay thế quỷ chết, vì Vua Diêm La cũng chẳng quản vấn đề nầy.
          "Người thiện vui thí sức phương tiện": Người thiện tức là bậc Thánh nhân, tức cũng là chư Phật Bồ Tát, dùng từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng, dùng pháp môn phương tiện, để vì họ hoá giải khai mở.
          "Giải kết tội khiên hết thống khổ": Giải kết và tiêu diệt những tội khiên của họ, bằng không mỗi ngày loài quỷ nầy ở chỗ hoành tử, khi cố định, họ đều phải thọ sự thống khổ cực lớn. Siêu độ họ rồi, thì tất cả sự thống khổ đều không còn nữa.   

       521. Ðát liểm bộ ca.

          Dịch: Quỷ dược thảo độc.

          Kệ:

Tâm độc ý lang hại thương sinh
Tánh hoá kim thạch thảo mộc hình
Bổn chất liệt ư chậm tì đẳng
Nha phiến ma dược sát nhân tình.

          Nghĩa là:

Tâm ý lang độc hại muôn sinh
Tánh hoá hình vàng đá cỏ cây
Bản chất rất kịch độc vô cùng
Nha phiến ma tuý giết tình người.

          Giảng giải: Câu nầy là “Quỷ dược thảo độc”.
          "Tâm ý lang độc hại muôn sinh": Khi họ làm người, thì tâm đã lang độc, thích hại người.
          "Tánh hoá hình vàng đá cỏ cây": Chết rồi làm quỷ, tánh độc của họ bèn hoá thành loại vàng đá cỏ cây.
          "Bản chất rất kịch độc vô cùng": Sự lang độc của loài quỷ nầy, mãnh liệt giống như rượu chim tu hú, hoặc tì sương. Chim tu hú rất độc, lấy lông cánh của nó bỏ vào trong rượu, người nào uống rồi, thì ngũ tạng sẽ bị cháy, bảy lỗ chảy máu. Vua chúa thời xưa muốn xử tử những vị đại thần nào, thì ban cho rượu chim tu hú, người đó uống rồi, thì lập tức trúng độc mà chết.
          "Nha phiến ma tuý giết tình người": Nha phiến là thực vật làm thành, có rất nhiều loại ma tuý, thuốc á phiện cũng do thực vật làm thành. Những thứ thực vật nầy, hàm chứa độc tố, phía sau những thứ nầy, là quỷ dược thảo độc tác quái, đem khí độc rải lên trên vàng đá cỏ cây. Tuy nhiên tính chất của nha phiến và ma tuý so với rượu chim tu hú, tì sương, thì khiến cho người dùng vọng sinh một thứ sung sướng, cảm giác tự tại, nhưng trên thật tế thì đối với con người chỉ có hại mà không có lợi. Nói tóm lại, những thứ độc nầy đều thuộc về tánh lửa. Do đó "Tích nhiệt thành độc", trong thân thể con người có lửa nóng, bèn biến thành độc. Cho nên thuốc Trung Quốc có rất nhiều thứ đều có tác dụng "Thanh nhiệt giải độc". Những loại nha phiến, ma tuý, đều là yêu tinh hoá thân, muốn mạng người.

       522. Ðịa lật lặc tra.

          Dịch: Quỷ bò cạp độc.

          Kệ:

Ngoan xà phúc hiết cập ngô công
Du diên thiềm thừ cổ độc trùng
Sân khuể oán hận tương tầm báo
Linh văn tẩy địch hoá hanh thông.

          Nghĩa là:

Rắn độc bò cạp và con rết
Sâu bọ cóc nhái trùng cổ độc
Sân hận oán thù tìm báo nhau
Linh văn rửa sạch hoá hanh thông.

          Giảng giải: Câu nầy là chỉ “Quỷ bò cạp độc”. Quỷ nầy khi còn làm người, thì tâm độc ác, làm quỷ rồi tánh độc vẫn còn không thay đổi, mà hoá thành đủ thứ loài ác thú.
          "Rắn độc bò cạp và con rết, Sâu bọ cóc nhái trùng cổ độc": Những loài độc nầy đều rất nguy hiểm, đều có thể cắn chết người.
          "Sân hận oán thù tìm báo nhau": Những thứ độc trùng nầy, khi còn làm người, thì thường ôm lòng oán hận. Đoạ lạc vào đường súc sinh rồi, đó đây vẫn tương tàn sát hại lẫn nhau, báo thù với nhau.
          "Linh văn rửa sạch hoá hanh thông": Chú Lăng Nghiêm có thể tẩy rửa pháp nhiễm ô thành thanh tịnh, giải trừ oán hận, khiến cho tất cả đều hoá làm cát tường.
          Trên đây đủ thứ độc trùng và bò cạp, sâu bọ, cóc nhái .v.v... trong y học cũng hay dùng làm thuốc. Đây vốn là nguyên tắc "Lấy độc trị độc", lấy chất độc trong thân độc trùng, làm thành thuốc để đối trị đủ thứ bệnh. Các độc đều thuộc tánh lửa, trong thân thể con người có ba lửa, đó là: Lửa tâm, lửa gan mật, lửa tướng. Nếu như trong thân thể lửa độc thạnh khắp, lửa khí lớn, thì người nầy rất dễ nổi nóng, biến thành sân độc. Trong các thứ độc, thì sân độc là đứng đầu. Tất cả thiên tai nhân hoạ, nguồn gốc cứu kính của nó, đều do sân độc trong tâm con người tích luỹ mà thành. Sân độc tích luỹ đến cực điểm, thì có hiện tượng chiến tranh bùng nổ. Do đó, hiện tại bức xạ hạch tử, chiến tranh vi khuẩn, chiến tranh hoá học .v.v... đâu chẳng phải là do sự nóng giận của con người mà thành. Chất độc mà lợi hại nhất là sự nóng giận, nếu không có sự nóng giận, thì dù bức xạ hạch tử ở trước mặt, cũng không sợ hãi.

       523. Tỷ rị sắc chất ca.

          Dịch: Con bò cạp độc.

          Kệ:

Hiết độc quỷ mị tánh âm ác
Ám tiễn thương nhân tử nan hoạt
Độc Giác Bích Chi thí cam lồ
Khô mộc phùng xuân khởi trầm kha.

          Nghĩa là:

Quỷ bò cạp độc tánh hiểm ác
Bắn tên hại người chết khó sống
Độc Giác Bích Chi thí cam lồ
Cây khô gặp xuân lại đâm chồi.

          Giảng giải: "Quỷ bò cạp độc tánh hiểm ác": Câu Chú nầy là nói về “Con bò cạp độc”. Con bò cạp khi còn làm người, thì thích bắn tên, bắn tên rất là hay, khiến cho người đề phòng cũng phải chết. Loại người nầy, họ có tư tưởng độc ác, suốt ngày đến tối đều nghĩ tưởng hại người. Tham sân si thì ngày càng nhiều, tội nghiệt thì ngày càng nặng. Công đức lành thì ngày càng giảm, như vậy họ chẳng có giới định huệ.
          "Bắn tên hại người chết khó sống": Vì khi họ làm người thì, thích ám tiễn hại người, chết đi rồi đoạ lạc thành con bò cạp. Vì gốc rễ độc của nó nhổ đi, cho nên làm quỷ bò cạp. Quỷ bò cạp chứ chẳng phải con bò cạp, nó có độc của con bò cạp, nhưng bạn nhìn không thấy, vì nó là quỷ. Chẳng những bò cạp có quỷ, mà rắn cũng có quỷ, con trùng có quỷ con trùng, con muỗi có quỷ con muỗi, con kiến cũng có quỷ con kiến. Bất quá quỷ nầy nhỏ, bạn không quan sát biết được. Có người nói: "Tôi không tin có quỷ"! Bạn không tin có người, mới có thể nói không tin có quỷ. Nếu người không có, thì đương nhiên quỷ cũng không có. Quỷ là từ chúng sinh biến thành, loài chúng sinh nào thì làm loài quỷ đó. Bất quá quỷ còn phân chia ra, có quỷ giàu, quỷ nghèo. Quỷ giàu là lúc còn sinh tiền vẫn làm những việc đức hạnh. Quỷ giàu tức là Sơn Thần, Thổ Địa Thành Hoàng, Xã Tắc .v.v... Đây đều là quỷ có tiền tài. Quỷ không có tiền tài tức là quỷ nghèo, suốt ngày đến tối tìm không được chút gì để ăn, thậm chí mấy ngàn năm một giọt nước cũng không có mà uống, lúc nào cũng đói khát, nhưng vẫn không chết, vì quỷ là do nghiệp báo mà hiện ra.
          Quỷ bò cạp, quỷ rắn, khi còn làm người, cũng có chút đạo hạnh. Cho nên khi làm bò cạp, cũng biến thành một con quỷ bò cạp, nó là tu đạo độc, chẳng phải tu thiện đạo. Xà tinh cũng như thế. Xà tinh, bò cạp tinh, đều rất thông minh, tinh tức là rất thông minh, thông linh, chúng cũng có thần thông. Tuy có thần thông, nhưng vô minh vẫn rất nặng. Thần thông của chúng, có thể nói là âm hiểm thông, chẳng phải là dương thông, mà là âm thông. Chúng chỉ minh bạch phương pháp xấu, chứ không dùng phương pháp tốt. Chỉ biết hại người, không biết lợi ích người, cho nên gọi là quỷ độc. Quỷ độc tức là quá khứ khi làm người, thì dùng ám tiễn, lãnh tiễn hại người, cho nên đoạ lạc biến thành bò cạp tinh. Chết rồi vẫn không lão thật, vẫn đi hại người, cho nên tánh của chúng âm hiểm ác độc, chẳng có gì xấu xa như chúng. Vì tâm độc của chúng, tham sân si quá sâu nặng, chết rồi thì làm bò cạp. Chúng làm bò cạp mỗi ngày cũng rất khó chịu, vì có độc bên trong, tuy không thoải mái, nhưng chúng cũng dùng độc để làm vũ khí đi hại người khác.
          "Độc Giác Bích Chi thí cam lồ": Câu Chú nầy hàm có ý Thánh nhân, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Thánh nhân thấy loài chúng sinh nầy rất đáng thương xót, cho nên từ bi hỉ xả để thí nước cam lồ, chẳng những cứu bò cạp, đồng thời cũng cứu người. Cho nên bò cạp cũng chẳng còn độc, người cũng không thọ nhiều quả báo, như "Cây khô gặp xuân lại đâm chồi", cây khô gặp xuân lại đâm chồi, bệnh đáng chết nầy, cũng không chết.

       524. Tát bà na cu ra.

          Dịch: Quỷ rắn độc.

          Kệ:

Xà độc quỷ sùng thổ hoả yên
Khẩu can thiệt táo nhiệt bệnh triền
Thống khổ nan đương duy dục tử
Hạnh ngộ thần Chú giải oán oan.

          Nghĩa là:

Quỷ rắn độc phun ra lửa khói
Miệng lưỡi khô khan bệnh nóng hoài
Thống khổ khó chịu chỉ muốn chết
May gặp thần Chú giải oan khiên.

          Giảng giải: "Quỷ rắn độc phun ra lửa khói": Những rắn độc nầy đều là thuở xưa khi làm người, thì chuyên dùng miệng lưỡi ác độc châm chích người khác, dùng lời cay độc để làm hại người, đây cũng giống như dùng khí độc để hại người. Độc của nó quá thâm, khi thấy người thì phun ra, người nầy khi làm bác sĩ, thì đã từng dùng kim độc chích người, lòng dạ lang độc, cho nên chết rồi thì chất độc đó mang vào trong lưỡi. Phàm là dùng thuốc độc hại chết người, thì tương lai đều sẽ biến thành rắn độc. Nó phun ra lửa khói, con mắt thịt của phàm phu nhìn chẳng thấy được. Nếu người nào có thiên nhãn thông, thì có thể thấy rắn thè ra cái tín của nó, độc thì giống như súng nước, phóng ra xa mấy trượng, giống như phun lửa, phun khói.
          "Miệng lưỡi khô khan bệnh nóng hoài": Loài quỷ nầy tung khí độc lên thân của bạn, thì miệng lưỡi đều khô khan, thứ bệnh nhiệt khí độc nầy đi vào tim, thì toàn thân nóng lên, không thể chịu được.
          "Thống khổ khó chịu chỉ muốn chết": Quá thống khổ thì chẳng còn muốn sống nữa, chỉ muốn chết.
          "May gặp thần Chú giải oan khiên": May mắn gặp được Thần Chú Lăng Nghiêm, cho nên giải trừ được tất cả oán độc.
          Bạn niệm một biến Chú Lăng Nghiêm, thì trong vô hình các thứ oán khí, độc khí, đều giải trừ rất nhiều, chúng ta người tu đạo nên trợ giúp cho thế giới, không màng bạn dùng bao nhiêu tiền cũng mua không được. Chú Lăng Nghiêm nầy là thần đơn chân chánh cứu người, bảo bối cứu đời, tiên đơn diệu dược cứu sinh mạng con người. Nếu người thật minh bạch Chú Lăng Nghiêm, thì đó là bậc chân cứu đời.

       525. Tứ dẫn già tệ.

          Dịch: Quỷ hổ lang độc.

          Kệ:

Hung mãnh tàn bạo tái hổ lang
Dĩ lực khi nhân quỷ bá vương
Năng nhân từ bi phương tiện độ
Trực thụ lâm trung hoạch an khang.

          Nghĩa là:

Hung dữ tàn bạo bầy hổ lang
Cậy sức dối người quỷ bá vương
Hay nhân từ bi phương tiện độ
Trong rừng cây thẳng được an khang.

          Giảng giải: "Hung dữ tàn bạo bầy quỷ lang": Chúng ta nhìn thấy hổ là hổ, sói là sói, nhưng hổ cũng chẳng phải hổ, sói cũng chẳng phải sói, là loại gì? Tức là khi làm người, thì tánh tình như hổ lang, hung dữ tàn bạo, muốn giết người, giết càng nhiều thì càng tốt, giống như Trương Hiến Trung, ông ta là đại tướng cướp vào cuối thời nhà Minh ở Trung Quốc, ông ta còn lợi hại hơn so với hổ lang, chuyên ăn con nít, ông ta ra lệnh cho quân đội vào các thôn xóm bắt trộm con nít, để ăn não của con nít. Ông ta còn có một sở thích nữa, đó là thích ăn chân của con gái trẻ, xưa nay phụ nữ ràng rịt chân nhỏ như tam tất kim liên, ông ta chặt chân của những cô gái trẻ mà ăn, ông ta thật là ma quỷ, hỗn thế ma vương tái sanh, ông ta còn lợi hại hơn loài sói lang, ăn uống bạo ngược.
          "Cậy sức dối người quỷ bá vương": Khi chúng làm quỷ, thì cũng làm bá vương, đi làm hổ, làm sói, cũng không sửa đổi tập tánh ác liệt của họ.
          "Hay nhân từ bi phương tiện độ": Bây giờ gặp được Phật pháp, gặp được Chú Lăng Nghiêm, lời Chú của Phật Thích Ca Mâu Ni nói, để thành tựu họ,  dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hoá họ, độ họ, Chú Lăng Nghiêm cũng là pháp phương tiện.

          "Trong rừng cây thẳng được an khang": Do nhân của họ sai lầm, khiến cho họ bỏ mê về giác, như trụ ở rừng cây thẳng, trên cây rất cao, mà được bình an. Trong rừng cây thẳng tức cũng là Chú Lăng Nghiêm.

No comments:

Post a Comment