Xem trọn bộ 4 tập video có chữ rất dễ theo dõi
251. Dược
xoa yết ra ha.
Dịch: Quỷ
giữ hồn.
Kệ:
Dũng kiện bạo ác địa không hành
Đồng loại chủng
tộc các đế thính
Thủ hộ hồn quỷ
y chánh giáo
Công mãn tam
thiên tự siêu sanh.
Nghĩa là:
Dũng kiện bạo ác địa không hành
Đồng loại chủng
tộc đều lắng nghe
Quỷ giữ hồn y
theo chánh giáo
Công viên quả
mãn tự siêu sanh.
Giảng giải: Dược Xoa là tiếng Phạn,
có khi viết là Dạ Xoa, Duyệt Xoa, dịch là « Dũng kiện », rất là dũng mãnh tráng
kiện. Còn dịch là « Bạo ác », đây cũng là tên của loài quỷ. Có nơi còn dịch là
« Khinh kiện », vì chúng tựa như trận gió, vốn chẳng có thân thể, tuy gió thổi
nhẹ nhàng, nhưng rất kiện tráng, vì do nghiệp báo. Dạ Xoa đều có chút công đức,
đừng cho rằng Dạ Xoa là quỷ, tức là không tốt, chúng có chút công đức. Nhưng
khi chúng tạo công đức, tâm sân không trừ, vẫn nổi nóng, làm công đức rồi có
khi về sau hối hận. Nếu xưa kia chúng chỉ dùng tài thí, thì đắc được quả báo là
địa hành Dạ Xoa, Dạ Xoa đi trên đất, không thể bay. Nếu bố thí voi, ngựa, xe cộ,
hoặc máy bay .v.v... nhưng mà sự nóng giận không thay đổi, thì đắc được quả báo
là đại lực Quỷ Vương, bay được trong hư không, gọi là không hành Dạ Xoa. Tại
sao vậy? Vì nghiệp báo vậy.
"Dũng kiện bạo ác địa không
hành": Địa tức là chỉ địa hành Dạ Xoa (Dạ Xoa đi trên đất). Không tức là
không hành Dạ Xoa (Dạ Xoa bay trên không).
"Đồng loại chủng tộc đều lắng
nghe": Yết Ra Ha, dịch là « Đồng loại chủng tộc », tức là bất cứ Dạ Xoa đi
trên đất, Dạ Xoa bay trên không, đều phải nghe sự triệu tập, đều phải chú ý lắng
nghe, không thể lơ là được.
"Quỷ giữ hồn y theo chánh
giáo": Dạ Xoa đối với con người cũng có chỗ tốt, có lúc người sợ hồn bay
phách lạc, thì Dạ Xoa bay trên không, giúp bạn truy hồn phách về lại. Hồn có ba
hồn, phách có bảy phách. Hồn thật trong ba hồn, tức là Phật tánh, còn có hộ thần.
Ba hồn nầy phân ra nói là ba, hợp lại là một, tức là Phật tánh vốn có. Bảy
phách tức là trong mỗi thân người có bảy chỗ, mỗi chỗ đều trụ một phách. Bảy
phách nầy, có cái có mắt, không có tai mũi; có cái có lỗ tai, không có mắt mũi;
có cái có lỗ mùi, không có mắt tai; có cái lại có cái mõm, không có khí quản
khác. Tóm lại, bảy cái nầy tướng mạo đều khác nhau, chúng hợp với nhau cùng
nhau lợi dụng. Bảy cái nầy hợp lại với nhau thì sẽ phát sinh tác dụng, nếu
không hợp lại với nhau, thì mỗi cái đều có sở trường, đều có sở đoản, chúng đều
có chức vụ riêng trên cơ thể con người. Dạ Xoa giữ hồn phách của con người, nói
rõ con người y theo chánh giáo phụng hành.
"Công viên quả mãn tự siêu
sanh": Tu đạo phải lập đức, lập công, lập ngôn, đến được công viên quả
mãn, thì sẽ thành Phật. Siêu sanh tức cũng là thành Phật, hộ pháp Kim Cang cũng
siêu sanh, người tu đạo cũng siêu sanh, hộ pháp Kim Cang cũng phải có công viên
quả mãn ba ngàn, người tu đạo cũng phải có công viên quả mãn ba ngàn. Đây chẳng
phải là nói chỉ có ba ngàn thứ công đức, mà là đầy khắp ba ngàn đại thiên thế
giới, bạn đều phải có công đức, vì vậy cho nên nói tận hư không khắp pháp giới,
chẳng có chỗ một hạt bụi nào, chẳng phải là chỗ Phật làm công đức, chỗ xả thân
mạng.
Cho nên người tu đạo, đừng chỉ có tu
hai ngày rưỡi, chưa đến ba ngày bèn muốn thành Phật, làm gì có chuyện đó! Người
học Phật, bất cứ làm việc gì, đều phải có tâm nhẫn nại, phải lập đức, lập công,
lập ngôn.
252. Ra xoa
tư yết ra ha.
Dịch: Quỷ giữ cung phụ nữ, trừ nạn
phi mạng.
Kệ:
Tốc tật khả uý La Sát quỷ
Thủ cung phụ nữ
bảo kiên trinh
Trừ diệt nhất
thiết phi mạng nạn
Viễn ly hiểm đạo
miễn lôi truy.
Nghĩa là:
Quỷ La Sát mau chóng đáng sợ
Bảo vệ phụ nữ
giữ trinh tiết
Trừ diệt tất cả
nạn chết oan
Xa lìa đường hiểm
khỏi ngũ lôi.
Giảng giải: Ra Xoa gọi là La Xoa,
cũng gọi là La Sát tác, La Sát tư, dịch là « Hộ thi » (giữ thây chết), tức là
quỷ La Sát.
"Quỷ La Sát mau chóng đáng sợ":
Quỷ La Sát là tiếng Phạn, dịch là « Quỷ mau chóng ». Vì chúng chạy rất nhanh,
còn gọi là quỷ đáng sợ, rất đáng sợ. Vì loài quỷ nầy mặt xanh tóc đỏ, miệng thì
to, răng thì nhỏ. Mắt thì lớn, lỗ mũi thì nhỏ. Người mà nhìn thấy chúng, thì
sinh tâm kinh hãi. Thứ quỷ La Sát nầy, còn dịch là « Quỷ giữ cung phụ nữ », bảo
vệ phẩm đức của phụ nữ. Nếu ai có phẩm đức tốt, thì chúng sẽ bảo vệ người đó,
cho nên nói: "Giữ phụ nữ bảo vệ trinh tiết".
"Diệt trừ tất cả nạn phi mạng":
Hay khiến cho người không bị chết oan, không chết tự tử, không chết sông, không
có những hành vi chết một cách phi pháp, tránh khỏi đủ thứ những cái chết oan uổng.
"Xa lìa đường hiểm khỏi ngũ
lôi": Xa lìa đường nguy hiểm, không đoạ lạc vào ba đường ác. Ngũ lôi cũng
sẽ không truy tìm bạn.
253. Tất rị
đa yết ra ha.
Dịch: Quỷ
giữ thây chết.
Kệ:
Thủ thi tổ phụ bệ lệ đa
Thận chung truy
viễn hiếu tư bác
Sự tử như sanh
thường tế tự
Ma ha Bát Nhã mật
ba la.
Nghĩa là:
Quỷ tổ phụ giữ gìn thây chết
Cẩn thận cúng tế
hiếu tâm lớn
Việc chết như sống
thường cúng tế
Ma ha Bát Nhã
ba la mật.
Giảng giải: Tất Rị Đa dịch là « Quỷ
giữ thây chết ». Người chết rồi, thì quỷ xả bỏ không được đầu thây chết của
chính mình, đều nhìn giữ gìn, họ cho rằng cái đầu thây chết nầy, sẽ biến thành
lão đồ cổ (lão cổ đổng), tương lai đem đi bán, giá trị rất là lớn. Do đó họ chẳng
làm gì hết, chỉ giữ cái đầu thây chết.
Còn dịch là « Quỷ tổ phụ ». Quỷ tổ phụ
tuy mình là người chết, nhưng họ cũng không muốn lìa khỏi thế gian nầy, vì đợi
con cháu đến cúng tế họ, cúng chút đồ vật cho họ ăn. Có hai ý nghĩa:
1. Vì xả bỏ
không được sự lìa khỏi.
2. Vì đời người
đến cúng tế.
Do đó, giữ gìn
đầu thây chết. Đây đều là sự chấp trước.
"Cẩn thận cúng tế hiếu tâm lớn":
Lúc chết rất cẩn thận chiếu theo lễ nghĩa mà cúng tế, nói đến tâm hiếu rất
thành khẩn, rộng lớn.
"Việc chết như sống thường cúng
tế": Cha mẹ chết rồi, thì chúng ta phải lo việc ma chay như lúc còn sống,
do đó: "Tang tận lễ, tế tận thành". Cúng tế phải dùng tâm thành, bạn
dùng đại trí huệ, đừng quá mê tín, đừng đốt tiền giả, đừng đốt giấy vàng bạc,
nhà cửa xe cộ, như vậy là lãng phí tiền bạc, vô ích. Người chết rồi, không giống
như người Trung Quốc mê tín, lại đốt quần áo, lại đốt vàng bạc châu báu, lại đốt
xe lửa, máy bay .v.v... đây thật là mê tín đến cực điểm, đừng có như thế.
"Ma ha Bát Nhã ba la mật":
Ma ha là lớn, Bát Nhã là trí huệ, cho nên phải có đại trí huệ, mới có thể minh
bạch đạo lý, mới có thể đến được bờ bên kia. Đừng có mê tín, đừng có đọc sách
mà không cầu sự hiểu biết thâm sâu. Việc làm rồi, bạn hỏi họ: "Tại sao lại
làm như vậy". Họ nói: "Không biết". Việc không biết sao bạn lại
có thể làm. Họ đều muốn đi làm, cho nên nói con người thật là điên đảo đến cực
điểm.
254. Tỳ xá
giá yết ra ha.
Dịch: Quỷ giữ vỏ, trừ nạn thuốc độc.
Kệ:
Thử phiên điên quỷ đạm tinh khí
Hấp thực nhân
tuỷ ngũ cốc chân
Miễn trừ độc dược
ma tuý chướng
Thọ trì Như Lai
nghĩa vô cùng.
Nghĩa là:
Đây dịch quỷ điên ăn tinh khí
Hút ăn tuỷ người
và sinh tánh
Miễn khỏi thuốc
độc và ma tuý
Thọ trì Như Lai
nghĩa vô cùng.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là « Quỷ
điên ». Sao gọi là quỷ điên? Vì chúng chẳng nói đạo lý, không nói lời tốt. Còn
có tên là quỷ thần kinh, quỷ cũng hay phát thần kinh. Loài quỷ nầy hay hại người,
hút ăn tuỷ và tinh khí của con người. Nếu bạn cứ khởi vọng tưởng tà, thì chúng
sẽ có cơ hội hút ăn tinh khí thần của bạn. Nếu bạn chỉ có chánh niệm, thì chúng
chẳng làm gì được. Vì quỷ đều thừa lúc con người có vọng tưởng không chánh đáng
mới nhập vào được.
"Đây dịch quỷ điên ăn tinh
khí": Cho nên con người có lúc, vô duyên vô cớ, cảm thấy chẳng có khí lực,
là vì tinh khí đã bị quỷ bắt đi rồi.
"Hút ăn tuỷ người và sinh
tánh": Trong xương đầu con người có tuỷ, nếu bạn khởi vọng tưởng, thì
chúng liền đến hút tuỷ của bạn, khiến cho thân thể của bạn suy nhược, thân xác
đều có tự tánh, tự tánh tức là thần khí, thân xác xem ra là vật chết, trên thật
tế, nó cũng có mạng sống, quỷ Tỳ Xá Giá bèn đến ăn tánh của thân xác. Cho nên
khi cúng tế, tuy nhiên chẳng thấy Phật Bồ Tát, và tất cả quỷ thần đến ăn, nhưng
khi đồ vật cúng rồi, thì chẳng còn "sinh tánh". Hút đi "sinh
tánh" rồi, thì có ích gì? Sẽ tăng thêm sức lực của họ. Niệm câu Chú nầy,
thì sẽ trừ được tất cả thuốc độc, nạn thuốc ma tuý, cho nên nói: "Miễn khỏi
thuốc độc và ma tuý".
"Thọ trì Như Lai nghĩa vô
cùng": Thọ trì vô cùng vô tận pháp nghĩa của Phật nói.
255. Bộ đa yết
ra ha.
Dịch: Quỷ
thân lớn.
Kệ:
Đại thân tự sanh Quỷ Vương danh
Lực khả bạt sơn
Hạng Vũ năng
Thần thông diệu
dụng thiện biến hoá
Đa đầu đa túc
hiển oai linh.
Nghĩa là:
Thân lớn tự sanh tên Quỷ Vương
Sức hay dời núi
như Hạng Vũ
Thần thông diệu
dụng chuyên biến hoá
Nhiều đầu nhiều
chân hiển oai thần.
Giảng giảng: Câu Chú nầy dịch là «
Thân lớn ». Khi chúng biến lớn, thì thân thể của quỷ nầy lớn như năm trăm núi
Tu Di. Biến nhỏ thì nhỏ như hạt bụi. Vì tự mình sinh ra thân thể lớn như thế,
cho nên còn dịch là « Tự sinh ». Tự sinh ra thân mình, cho nên nói: "Thân
lớn tự sinh tên Quỷ Vương".
"Sức hay dời núi như Hạng
Vũ": Sức lực của chúng có thể dời núi, vì thân thể của chúng rất lớn, sức
lực cũng rất lớn, tay cũng lớn, chân cũng lớn. Giống như vị anh hùng Hạng Vũ của
nước Sở.
"Thần thông diệu dụng chuyên biến
hoá": Chúng có đủ thứ thần thông, đủ thứ sự biến hoá, diệu dụng vô cùng,
khéo biến hoá.
"Nhiều đầu nhiều chân hiển oai
thần": Chúng có mấy trăm cái đầu, mấy trăm cái chân. Tay cũng rất nhiều,
khiến cho người trông thấy mà kinh sợ.
Hội thứ ba, từ "Ra Xà Bà Dạ"
đến "Tô Ba Ra Noa Bà Dạ" là pháp tiêu tai. Hiện tại đoạn nầy, từ
"Dược Xoa Yết Ra Ha" về sau là pháp câu triệu. Niệm đoạn Chú nầy, thì
câu triệu lại hết tất cả yêu ma quỷ quái, ngưu quỷ xà thần. Chú Lăng Nghiêm có
pháp tiêu tai, pháp tăng ích, pháp câu triệu, pháp hàng phục, pháp cát tường.
Chúng ta phải nghiên cứu thâm sâu Chú Lăng Nghiêm, thì mới minh bạch đoạn nào
có tác dụng gì, đây mới là chân chánh thọ trì Chú Lăng Nghiêm. Nếu bạn nghiên cứu
Chú Lăng Nghiêm không kỹ càng, thì lợi ích chẳng bao nhiêu.
256. Cưu bàn
trà yết ra ha.
Dịch: Quỷ cỡi ngồi. Trừ nạn thành
quách cỡi xe.
Kệ:
Úng hình đông qua yểm mị tinh
Thành quách xa
thừa ngũ lôi băng
Ngoại ý tai nạn
giai tị miễn
Xuất nhập bình
an viễn hoạ xâm.
Nghĩa là:
Quỷ hình cái lu yêu ma đè
Đất lở gỗ đánh
bị té ngựa
Tai nạn các thứ
đều qua khỏi
Ra vào bình an lìa hoạ hoạn.
Giảng giải: "Quỷ hình cái lu yêu quái tinh": Yêu quái là quỷ,
cũng là yêu tinh. Quỷ mà câu Chú nầy nói, tức là quỷ ma đè (bóng đè), cũng gọi
là quỷ đông qua, quỷ hình như cái lu. Tại sao gọi là quỷ đông qua? Vì hình dáng
của chúng giống như lão đông qua. Bạn nói chúng dài ư, thì chúng chẳng dài. Bạn
nói chúng tròn ư, thì chúng lại chẳng tròn. Chúng vừa tròn, vừa dài, vừa mập, vừa
béo. Loài quỷ nầy chẳng phải là quỷ đói (ngạ quỷ), quỷ đói thì đói đến nỗi chỉ
còn da bọc xương, chẳng có chút thịt nào. Loài quỷ nầy là quỷ mập, cũng gọi là
quỷ giàu, quỷ Cưu Bàn Trà. Có khi hiện ra giống như một cái chum to, giống như
cái lu lớn. Cái cổ thì nhỏ, cái bụng thì bự.
Tại sao gọi là quỷ ma đè? Vì loài quỷ nầy
thường đi tìm người quấy rối. Khi con người ngủ, chúng chạy một cái, thì tới cạnh
bên người đó, đè người đó gần như ngộp thở, không thể thở được, gần như chết,
không thể động đậy được, nói cũng nói không được, mở mắt cũng mở không lên, đây
gọi là ma đè, bị quỷ Cưu Bàn Trà đè. Rất nhiều người đều có sự kinh nghiệm nầy.
Các vị có lúc ngủ bị ma đè, khiến cho bạn mở mắt không lên được, tức là bị quỷ
nầy đè.
"Đất lở gỗ đánh bị té ngựa": Chú nầy trừ được nạn đất lở, nạn
dùng gỗ đánh, nạn cỡi ngựa bị té. Cho nên nói: "Tai nạn đủ thứ đều qua khỏi".
Đủ thứ tai nạn đều qua khỏi, được bình an.
"Ra vào bình an lìa xâm hại": Ra
vào đều được bình an, tất cả hoành hoạ hoạn nạn đều không thể xâm phạm.
257. Bổ đơn na yết ra ha.
Dịch: Quỷ thủ hình.
Kệ:
Sinh đại chấp trước
thủ thi hình
Viễn ly điên đảo mộng quỷ thanh
Nhẫn nhục tinh
tấn Ba La Mật
Trí quang phổ
chiếu bảo liên đài.
Nghĩa là:
Sinh tâm chấp trước hình giữ thây
Xa lìa điên đảo
mộng quỷ rõ
Nhẫn nhục tinh
tấn Ba La Mật
Trí quang chiếu
khắp bảo liên đài.
Giảng giải: Bổ Đơn Na là « Quỷ thủ
hình ». Tại sao chúng phải giữ hình? Vì sinh tâm đại chấp trước. Chúng còn gọi
là quỷ thúi, hay toả ra mùi hôi thúi. Bất cứ chúng ở đâu, đều có mùi vừa tanh,
vừa hôi thúi.
"Sinh đại chấp trước hình giữ
thây": Tại sao chúng muốn giữ hình thây chết? Vì có sự chấp trước, không xả
được cái thân thể nầy, cho rằng là bảo bối, lìa không khỏi hình tướng giả nầy.
"Xa lìa điên đảo mộng quỷ
rõ": Trước hết chúng khởi sự chấp trước, về sau dần dần chúng nhìn thủng
buông bỏ được, cho nên được tự tại. Một khi lìa khỏi điên đảo, thì mộng quỷ sẽ
rõ ràng, sự nằm mộng cũng rất cát tường.
"Nhẫn nhục tinh tấn Ba La Mật":
Tu hạnh nhẫn nhục, thì dù lúc không thể chịu được, vẫn phải nhẫn, càng nhẫn
không được, thì càng phải phá cửa ải nầy, càng phải tại chỗ nầy mà dụng công. Bạn
nhẫn nại được tức là chân tinh tấn. Bạn chân tinh tấn thì đây mới là nhẫn nại,
mới có thể đến được bờ bên kia, đến được Ba La Mật.
"Trí quang chiếu khắp bảo liên
đài": Bạn hay nhẫn nại tinh tấn tu hành đến được Ba La Mật, thì lúc đó sẽ
khải mở đại trí huệ, sẽ có trí quang chiếu khắp, sinh lên chín phẩm hoa sen
báu.
Hai câu Chú nầy dụng đồ vô cùng vô tận,
hiện tại chỉ nói đơn giản thôi, nếu mà giải thích tỉ mỉ, thì hết kiếp cũng khó
nói hết.
258. Ca tra
bổ đơn na yết ra ha.
Dịch: Quỷ
giữ vía.
Kệ:
Thủ phách kỳ xú đại ngạ quỷ
Đông tây nam bắc
các viễn ly
Thực thỉ ẩm niệu
khổ can kiệt
Tạo nghiệp thọ
báo nạn tự khi.
Nghĩa là:
Quỷ đói giữ vía rất hôi thối
Đông tây nam bắc
đều xa lìa
Ăn phân uống tiểu
khổ cạn kiệt
Tạo nghiệp thọ
báo tự gạt mình.
Giảng giải: Câu Chú nầy còn gọi là «
Quỷ giữ vía ». Còn gọi là đại ngạ quỷ. Bổ Đơn Na Yết Ra Ha ở trước là quỷ hôi
thúi. Đây là quỷ hôi thối, đại ngạ quỷ, vừa đói, vừa hôi thối. Tại sao chúng
hôi thối như thế? Vì chúng cứ ăn phân, ăn đến nỗi bên trong cũng thối, bên
ngoài cũng thối. Thối cách xa đến tám vạn bốn ngàn do tuần. Chúng chẳng có bổn
sự gì, chỉ có bổn sự thối mà thôi.
"Quỷ đói giữ vía rất hôi thối":
Loài quỷ nầy giữ gìn ba hồn bảy vía. Nếu hồn vía của con người chẳng có chúng
giữ gìn, thì cũng thường hay đi ra qua mấy lỗ trên cơ thể người. Có lúc con người
sợ hãi hồn phi phách tán.
Tại Đông Bắc
TQ, tôi đã gặp một đứa trẻ khoảng sáu tuổi bị mất hồn. Tại sao bị mất hồn? Là
vì bị thiên ma trên trời bắt hồn đi, người mà mất hồn thì u mê, giống như thực
vật, chẳng có tri giác gì. Tuy cũng ăn uống đi đứng ngủ nghỉ, cũng nói được,
nhưng chẳng có trí huệ, giống như người máy, vì đã mất hồn vía. Ma vương trên
trời hoan hỉ đứa trẻ nầy, nên bắt hồn vía của cậu ấy đi, hy vọng tương lai cậu
ta chết rồi, thì sẽ trở thành quyến thuộc của chúng. Đứa trẻ đó mười mấy tuổi
thì gặp tôi, vì thời gian đã trôi qua nhiều năm, tôi cũng chẳng có cách nào, bệnh
của cậu ta cuối cùng cũng chẳng tốt.
Mùi hôi thối nầy
rất đặt biệt thối, thối đến nỗi không chịu được. Chẳng những thối mà còn có độc,
trúng thứ độc thối nầy, không dễ gì chịu đựng được. Chúng còn là đại quỷ đói,
ăn vật gì cũng đều không no, ăn bao nhiêu cũng không no.
"Đông tây nam bắc đều xa lìa":
Nếu chúng phóng ra mùi hôi thối, giống như ở nước Mỹ có một loài động vật (thử
dứu), trên đường đi hay phóng ra một thứ mùi rất hôi thối, ở rất xa đều ngửi được,
khiến cho người khó mà chịu được, đại khái là do loài quỷ thối nầy biến hoá ra,
khi quỷ thối nầy chuyển súc sinh, đại khái là làm thứ súc sinh hôi thối nầy.
"Xa lìa": Là đều sợ mùi hôi thối nầy.
"Ăn phân uống tiểu khổ cạn kiệt":
Loài quỷ nầy chuyên môn ăn phân, uống nước tiểu, cho nên vật ô uế nhất, cũng là
thứ chúng hoan hỉ nhất. Mọi người đại tiện, thì chúng nhanh chóng đi tới ăn.
Chó cũng ăn phân, vì chó cũng là loài quỷ nầy biến hoá ra. "Khổ cạn kiệt":
Khổ não của chúng là bất luận uống bao nhiêu, uống bao nhiêu cà phê, cũng đều
khát. Suốt ngày tới tối đều muốn uống cà phê, uống trà. Uống xong, ly trà cũng
không rửa, để mọi người đi dọn dẹp. Đây đều là hành vi của quỷ thối.
Các vị! Chẳng phải là tôi giảng lời
tiếu cho các vị nghe, nếu ai muốn uống trà, uống cà phê, đừng để nhà bếp bầy hầy,
bằng không, tương lai sẽ biến thành quỷ thối, mặc dù hiện tại chẳng phải là quỷ
thối, tương lai đều sẽ làm quỷ thối, vì quá bầy hầy. Mình phải giữ phòng xá sạch
sẽ, đừng để người khác buồn phiền quở trách. Người tu hành ở đâu cũng đừng để tổn
phước, đừng làm cho người khác buồn phiền. Bạn muốn uống trà, hay uống các thứ,
uống xong phải rửa dọn dẹp cho sạch sẽ, không thể nào uống xong không rửa ly, bạ
đâu để đó.
Người tu đạo,
lúc không phải là giờ ăn cơm, thì không nên xuống nhà bếp. Suốt ngày tới tối cứ
tìm vật ăn, tìm vật uống, thì tu đạo gì! "Quân tử mưu đạo bất mưu thực"
(Người quân tử cầu đạo, chẳng cầu ăn uống", còn bạn thì "Mưu thực bất
mưu đạo" (Cầu ăn uống chẳng cầu đạo). Bất cứ người nào có mao bệnh nầy, muốn
ăn phân uống nước tiểu, thì ở tại Vạn Phật Thánh Thành không thể được, nhất định
phải sửa lỗi làm mới, cứ tìm việc cho người khác làm, mình không thu thập sạch
sẽ, đây đều là mọc ăn gỗ, tương lai phải làm trâu làm ngựa trả nợ cho người. Tu
hành không tốt thì sẽ đoạ lạc, đoạ lạc thì phải trả nợ. Cho nên mới nói:
"Ăn phân uống tiểu khổ cạn kiệt". Rất là kỳ quái, quỷ thối càng uống
thì càng muốn uống, càng uống thì càng không đủ, càng không đủ thì càng muốn uống.
Tóm lại, đều muốn đi đến nhà bếp tìm một chút đồ vật, quỷ hôi thối đó là như thế.
"Tạo nghiệp thọ báo tự gạt
mình": Tại sao chúng phải ăn phân, uống nước tiểu? Là vì tạo thứ nghiệp nầy,
nên thọ quả báo nầy. Mình không nên lường gạt chính mình. Tu đạo sai một ly, đi
ngàn dặm. Tại sao nói mình tu rất lâu, mà vẫn không khai mở trí huệ? Là vì suốt
ngày cứ nghĩ tới uống trà, uống cà phê, hoặc uống sữa, suốt ngày tới tối buông
bỏ chẳng đặng ăn uống những thứ đó, thì bạn khai ngộ gì!
259. Tất kiền độ yết
ra ha.
Dịch: Quỷ
đồng tử.
Kệ:
Thiện phẩm chủ trùng cổ độc mê
Diệc danh hương
thần thậm hi kỳ
Hoàng sắc đản tật
chư ách nạn
Hộ pháp đồng tử
kim tốc ly.
Nghĩa là:
Thiện phẩm chủ trùng cổ độc mê
Cũng tên Hương
Thần rất hi kỳ
Bệnh tật vàng
da các ách nạn
Hộ pháp đồng tử
khiến sớm lìa.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là « Thiện
phẩm ». Lại dịch là « Quỷ cổ độc ». Ở Mã Lai Á gọi là Lạc hàng đầu, hoặc Trung
trùng, đều là đồng loại.
"Thiện phẩm chủ trùng cổ độc
mê": Cổ độc của quỷ chủ trùng làm cho người mê hoặc.
"Cũng tên Hương Thần rất hi kỳ": Câu
Chú nầy còn gọi là Hương Thần, câu ở trước là quỷ thối, đối chiếu rất là tốt.
Hương Thần nầy, hay khiến cho những chúng sinh mê ngửi mùi hương, cổ độc cũng
có mùi hương. Nếu bạn ngửi mùi hương nầy rồi, thì liền trúng cổ độc.
"Bệnh tật vàng da các ách nạn":
Con người có khi sinh ra bệnh hoàng đản, vàng mắt, miệng cũng vàng, da cũng
vàng. Có khi trúng cổ độc, cũng sinh ra chứng bệnh nầy, đây là một thứ ách nạn.
"Hộ pháp đồng tử khiến sớm
lìa": Có chứng bệnh nầy, bạn trì câu Chú nầy, thì hộ pháp thiện thần đồng
tử sẽ khiến cho bệnh sớm khỏi. Chú Lăng Nghiêm càng giảng, thì càng bất khả tư
nghì, sức lực vô cùng vô tận. Bất quá bất cứ bạn làm gì, đừng có làm quỷ thối.
Quỷ thối ai ai cũng đều sợ, bạn muốn gần gũi người, nhưng chẳng ai dám gần gũi
bạn, làm Hương Thần còn tốt hơn một chút.
260. A bá tất ma ra yết ra ha.
Dịch: Quỷ
đầu dê.
Kệ:
Hình như dã hồ cao đại thụ
Thanh sắc quỷ
quái nhiễu nhân tộc
Chủ dương điên
phong thần danh hiệu
Đồng tử lễ bái
hồ như như.
Nghĩa là:
Hình như hồ ly đại thụ cao
Sắc xanh quỷ
quái nhiễu loài người
Chủ thần đầu dê
khiến người điên
Đồng tử thần dê
thường lễ bái.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là « Thần
đầu dê », hình như hồ ly. Cũng thuộc về loài quỷ, hình tượng của chúng như hồ
ly trên núi. Còn dịch là « Đại thụ cao ». Cho nên nói: "Hình như hồ ly đại
thụ cao".
"Sắc xanh quỷ quái nhiễu loài
người": Câu Chú nầy thuộc về phương đông. Phương đông có quỷ quái màu
xanh, những loài quỷ nầy thích nhiễu loạn người. Có quỷ vương màu xanh quản lý
những quỷ quái màu xanh nầy, nếu không thì thế gian sẽ xảy ra tai nạn trùng
trùng.
"Chủ thần đầu dê khiến người
điên": Chủ thần đầu dê điên khùng nầy, thường thường hay khiến cho người
phát bệnh điên khùng, giống như một loại đầu dê điên khùng. Người mắc chứng bệnh
nầy, thì mặt ngửa lên trời, đi về trước một bước, lại lùi về sau hai bước, giống
như người say rượu, điên điên khùng khùng.
"Đồng tử thần dê thường lễ
bái": Đồng tử là chỉ đồng tử thần dê, chúng thường thường lễ Phật, hy vọng
đạo nghiệp ngày càng tăng trưởng, căn lành tăng thêm.
261. Ô đàn
ma đà yết ra ha.
Dịch: Quỷ
nhiệt.
Kệ:
Tấn tật mãnh liệt chủ phong oai
Lục địa thụ đảo
hải lãng tồi
Không trung
hình thành loa toàn lực
Điểu sắc quỷ
vương song thủ thôi.
Nghĩa là:
Thần gió mãnh liệt rất oai phong
Đất đai cây đổ
biển dậy sóng
Trong không
hình thành sức gió xoáy
Quỷ vương dùng
hai tay tung chưởng.
Giảng giải: Đây là Thần Gió, dịch là
« Quỷ mau chóng ». Chúng chạy phi thường mau chóng. Một giờ có thể chạy mấy
ngàn dặm, cho nên nói: "Thần gió mãnh liệt rất oai phong". Gió nầy có
sức lực rất phi thường, mãnh liệt phi thường, cường liệt phi thường, có oai
phong rất lớn.
"Đất đai cây đổ biển dậy
sóng": Thần Gió nầy có đại oai phong, một khi hiện ra thì phi thường mãnh
liệt, dũng mãnh không gì sánh bằng, khiến cho đất đai cây cối, nhà cửa phòng xá
sập đổ, trong biển thì dậy sóng rất lớn, sóng vỗ ầm ầm.
"Trong không hình thành sức gió
xoáy": Ở trong hư không bèn hình thành khí lưu, giống như gió xoáy, sức lực
rất lớn, khiến cho người, trâu, ngựa, nhà cửa, đều cuốn lên không trung. Cho
nên sức lực nầy rất lớn vô cùng. Tại sao có sức lực nầy? Vì "Quỷ vương
dùng hai tay tung chưởng": Có quỷ vương màu đen vận dụng thần thông của
mình, mới có thể thổi ra gió có sức mãnh liệt như thế, tạo thành tai nạn lớn như
vậy.
Chú Lăng Nghiêm đều là tên của các vị
Quỷ Thần Vương, một khi niệm lên tên của Quỷ Thần Vương, thì các quyến thuộc của
chúng đều giữ quy cụ, không dám làm bậy. Mỗi ngày đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, thì
khiến cho yêu ma quỷ quái trên thế gian, đều lão thật một chút, không dám hiện
ra hại người. Hay đọc tụng Chú Lăng nầy, tức là lợi ích hết chúng sinh trên thế
gian, không đọc tụng thì không lợi ích chúng sinh. Các vị hãy mau học thuộc
lòng Chú Lăng Nghiêm, rồi nghiên cứu minh bạch, mới là hành vi của Phật giáo đồ
nên có.
Trong Phật giáo
không có gì quý trọng hơn Chú Lăng Nghiêm, Chú Lăng Nghiêm là đại biểu cho
chánh pháp, còn Chú Lăng Nghiêm thì còn chánh pháp, không còn Chú Lăng Nghiêm
thì không còn chánh pháp, không thể thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm thì không xứng
đáng là Phật giáo đồ, Chú Lăng Nghiêm gọi là Lăng nửa năm, mỗi ngày đọc tụng phải
nửa năm mới thuộc lòng.
262. Xa dạ yết
ra ha.
Dịch: Quỷ
bóng.
Kệ:
Ngũ dục chư lạc phú chân tánh
Tam độc sung mãn
cái trí minh
Căn trần duyên ảnh
đa chướng ngại
Bát Nhã không
trung khởi phù vân.
Nghĩa là:
Năm dục thú vui che chân tánh
Ba độc đầy dẫy
che trí sáng
Căn trần duyên
bóng nhiều chướng ngại
Bát Nhã trong
không khởi mây trôi.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là « Quỷ
bóng », tức là hình bóng của quỷ. Quỷ nầy tựa có mà không, lúc ẩn lúc hiện.
Loài quỷ nầy hoan hỉ khiến cho người điên đảo, khiến cho người mất đi trí huệ
chân chánh, thì sẽ chuyển theo cảnh giới của chúng.
"Năm dục thú vui che chân
tánh": Việc lớn nhất của chúng, là dùng cảnh giới năm dục để mê hoặc tâm
tánh con người, để nhiễu loạn người. Năm dục tức là: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ.
Lại có: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Cảnh giới năm dục nầy khiến cho con người
mê hoặc, làm cho con người hồ đồ. Tiền tài chi phối mọi người hồ hồ đồ đồ, điên
điên đảo đảo, người nầy tranh với người kia, nhà nầy tranh với nhà kia, nước nầy
tranh với nước kia, cũng là vì tài. Sắc càng lợi hại hơn, giống như một thanh
đao giết người, nhưng con người còn không biết. Danh cũng làm cho con người
điên điên đảo đảo. Ăn càng làm cho con người từ sáng tới tối cứ vọng tưởng chuyện
ăn uống, bạn xem có diệu chăng!
Chúng ta đừng khởi vọng tưởng tiền
tài, tu đạo không cần tiền, cũng đừng khởi vọng tưởng về sắc, tu đạo phải khử dục
đoạn ái, không khởi vọng tưởng về danh, người tu đạo không cầu danh, nhưng vọng
tưởng ăn không buông bỏ đặng, lúc nghĩ tới ăn một bát ngũ cốc có mật ong, hoặc
một ly sữa tươi, hoặc uống cà phê, nước ngọt, khởi những vọng tưởng đó làm cho
mình điên điên đảo đảo. Ngủ thì có người nói: "Những thứ ở trước vừa nói
tôi đều chẳng có, tôi muốn một lòng tu đạo, nhưng chỉ thích ngủ". Đó là bị
năm dục chi phối con người điên điên đảo đảo, che lấp đi chân tánh của con người,
cho nên những dục lạc nầy che lấp đi chân như tự tánh.
"Ba độc đầy dẫy che trí
sáng": Ba độc tức là: Tham, sân, si. Vì có ba độc nầy, cho nên bị cảnh giới
năm dục ở trên làm lay chuyển. Sức lực của ba độc nầy rất lớn vô cùng, lay động
tất cả, hoàn toàn che đậy đi ánh sáng trí huệ.
"Căn trần duyên bóng nhiều chướng
ngại": Lúc đó dụng công phu, sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp
xúc với sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nhân duyên và hình bóng nầy
sinh ra nhiều chướng ngại.
"Bát Nhã trong không khởi mây
trôi": Trong tự tánh Bát Nhã không sinh ra nhiều hình bóng mây trôi, hoảng
hoảng hốt hốt, khiến cho bạn điên đảo, khiến cho bạn buông bỏ chẳng đặng, khiến
cho bạn không thể tu hành. Quỷ bóng có bổn sự nầy, quỷ bóng chưa làm căng, khi
quỷ bóng nầy mà ra tay, thì con người sẽ biến thành quỷ.
263. Hê rị
bà đế yết ra ha.
Dịch: Quỷ âm thanh.
Kệ:
Độc xứ xuyên trạch
bất đồng quần
Bát âm tề tấu mộc thạch kim
Sư tử ngu lạc thường khởi vũ
Kỳ hình như cẩu chủ thú hồn.
Nghĩa là:
Một mình sống ở
nơi đầm trạch
Bát âm đều tấu gỗ đá kim
Sư tử vui vẻ thường nhảy múa
Hình như chó làm chủ dã thú.
Giảng giải: Đây là quỷ âm thanh, quỷ âm nhạc. Loài quỷ nầy tự mình thường
thường làm vang ra âm thanh âm nhạc, cũng hoan hỉ nghe tiếng nhạc, nhưng chúng
lại chỉ muốn sống một mình ở nơi đầm trạch. Cho nên nói: "Một mình sống ở
nơi đầm trạch", loài quỷ nầy thích đơn độc, thích một mình ở một nơi, ở
nơi có nước, hoặc ở chỗ dơ bẩn, hoặc ở trong nhà vệ sinh. Loài quỷ nầy không sợ
dơ bẩn, cho nên tục ngữ nói: "Quỷ dơ bẩn", càng bẩn càng tốt. Mỗi
ngày chúng chẳng chải đầu, chẳng rửa mặt, chẳng giống như con người thích chải
chuốt trang điểm, tô chút phấn, xịt chút nước hoa, làm cho có một thứ mùi vị thật
là cổ quái. Quỷ thì chẳng như thế, càng dơ bẩn, càng hôi thối, thì càng tốt.
Chúng ăn những thứ con người thải ra như máu mủ chảy ra từ mụt nhọt. Loài quỷ nầy
chẳng thích ở chung với quỷ khác. Chúng ở một mình làm gì? Tấu âm nhạc, tám thứ
âm nhạc, cho nên nói: "Bát âm đều tấu gỗ đá kim".
"Sư tử vui vẻ thường nhảy múa": Chúng ở một mình lại tấu âm nhạc,
lại nhảy múa, náo nhiệt giống như sư tử, rất là vui vẻ, tuy chỉ có một mình mà
rất náo nhiệt, làm vang lên rất nhiều âm thanh.
"Hình như chó làm chủ dã thú": Hình tướng của chúng có chút giống
như con chó, cho nên có lúc bạn nhìn thấy chó, nói không chừng chúng là quỷ, nhất
là bạn không nhận thức rõ. Có lúc quỷ cũng biến thành chó, heo, chim nhỏ, gì
cũng đều có thể biến được, đừng cho rằng chim nhỏ là chim nhỏ. Loài quỷ nầy quản
lý dã thú, chính quỷ cũng không việc tìm việc làm.
Hỏi: Quỷ bóng hoạt động như thế nào?
Đáp: Thiện cũng nhiều, ác cũng nhiều, người
như thế nào thì tìm người cùng như vậy. Trong tâm bạn có quỷ, thì quỷ liền tìm
bạn; trong tâm bạn không có quỷ, thì quỷ không dám tìm bạn. Tu đạo phải chuyên
nhất, đừng khởi vọng tưởng, thành đến cực điểm, thì vàng đá cũng khai mở. Tâm
thành thì linh, tâm thành hay khiến cho vàng đá cũng khai mở. Cho nên chữ
"thành" rất là quan trọng. Người tu đạo tu từ từ, như gà ấp trứng,
như rồng dưỡng châu, không cần đi tắc, không thể nói tu hành nhanh một chút,
đây là hoàn toàn sai lầm. Do đó có câu:
"Thanh sắt mài thành kim,
Công đáo tự nhiên thành".
Tu hành nhanh quá thì sẽ đứt, chậm quá thì sẽ
chùng, không nhanh không chậm mới thành công. Tiến nhanh quá thì lùi cũng mau!
Xưa kia bạn tiến nhanh quá, thì lùi cũng nhanh, bạn tiến chậm thì sẽ không lùi.
Tu đạo phải hợp với trung đạo, không rơi vào không, không rơi vào có, không rơi
vào không có hai bên. Rơi vào không thì thiên về không, rơi vào có thì thiên về
có, cũng không, cũng có, lìa trung đạo liền xa. Trung đạo là chẳng không, chẳng
có, cũng không, cũng có, nói nó là không, lại chẳng không, nói nó là có, lại chẳng
có, nhưng lại là không, lại là có, không, có, chẳng chấp tức là trung đạo.
Chúng ta người học Phật, phải cung hành thực tiễn, nghe được một câu Phật
pháp, thì phải chiếu theo pháp mà tu hành. Ví như, người tu đạo không nổi nóng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải nhẫn nại nhẫn nhục. Lại như ăn cơm, chỉ
ăn no tám phần thôi, đừng ăn quá no, cũng đừng quá đói. Có khi đói một chút tốt
hơn là quá no, đói còn có thể dụng công, no quá thì sẽ hôn trầm, sẽ muốn ngủ,
không thể dụng công. Tu đạo nơi nơi phải tìm trung đạo, đừng thái quá, cũng đừng
bất cập, tóm lại giữ trung đạo liễu nghĩa, liễu nghĩa tức là minh bạch đạo lý,
đừng sợ sửa lỗi, đừng tự mâu thuẫn nhau. Trong tâm vừa muốn sửa lỗi, vừa không
muốn sửa lỗi, không muốn sửa lỗi lại muốn sửa lỗi. Vừa muốn tu hành, vừa không
muốn tu hành. Hai chân bước lên chiếc thuyền, vừa muốn đi hướng nam, vừa muốn
đi hướng bắc, không biết như thế nào là tốt, như vậy thời gian sẽ trôi qua lãng
phí.
Cho nên chúng ta là người học Phật pháp, biết một chút thì làm một chút,
chân thật tu hành, đừng khởi vọng tưởng, đừng phan duyên,đừng có tâm ích kỷ,
tâm lợi mình, đừng tranh với người, đừng tham, không mong cầu gì hết. Thường nhớ
năm điều nầy, thì mới thật là tu hành, cũng đừng sinh tâm đố kị, đừng sinh tâm
chướng ngại, đừng chướng ngại người khác thành tựu, thấy người nào giỏi thì cố
gắng làm cho bằng họ, thấy họ có trí huệ, có năng lực, thông minh, thì mình nên
học tập theo họ, đừng sinh tâm đố kị chướng ngại.
264. Xã đa ha rị nẫm.
Dịch: Quỷ ăn tinh khí.
Kệ:
Thực tinh khí quỷ
phiên Chí đức
Quỷ tử mẫu chúng Thiên thần hợp
Vị quy y Tam Bảo danh Oán tặc
Tùng Phật chi hậu hiệu Trừ ma.
Nghĩa là:
Quỷ ăn tinh khí dịch
Chí đức
Quỷ mẹ con hợp chúng Thiên thần
Chưa quy y Tam Bảo tên Oán tặc
Từ khi theo Phật hiệu Trừ ma.
Giảng giải: Xã Đa là tiếng Phạn, là chân ngôn. Chân ngôn gọi là gì? Là
ngôn ngữ chân thật. Do đó gọi là chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, đều gọi là chân
ngôn, tức cũng là lời của Phật nói, quỷ thần đều minh bạch. Còn con người thì
sao? Con người thì không hiểu lắm. Chân ngôn cũng có thể nói là ngôn ngữ của một
thế giới bên ngoài. Ngôn ngữ gì của thế giới bên ngoài? Tức là thuộc về ngôn ngữ
của linh giới (cõi linh), linh tức là linh minh mạc trắc, một số phàm phu không
thể thấu hiểu được. Vì phàm phu đều chuyển ở tại sáu căn, sáu trần, sáu thức.
Tóm lại là có sự giới hạn, có sự câu thúc, chẳng đến được cảnh giới linh minh,
cho nên ngôn ngữ nầy, chúng ta không hiểu nhiều, nhưng cổ Thánh tiên hiền cũng
tiết lộ ra chút chút ý nghĩa trong ngôn ngữ không hiểu biết chút ít nầy, những
gì hiện tại giảng của sự phiên dịch tức là chút chút ý nghĩa nầy.
Xã Đa, dịch ra là « Quỷ ăn tinh khí
», loài quỷ nầy trước khi chưa theo Phật, đều chuyên môn ăn tinh khí. Tinh là vật
tinh tốt nhất, khí là chỉ có hình tượng mà không có thật thể. Bất cứ phi tiềm động
thực, đều có tinh khí của mỗi loài, không có bất cứ vật chất gì mà không có
tinh khí, thậm chí vàng có tinh khí của vàng, cho nên tinh khí không nhất định
chỉ nói đến tinh khí của con người, bất quá nói tới nói lui vẫn lấy con người
làm chủ thể. Loài quỷ nầy đi khắp nơi ăn tinh khí của con người, ăn trộm tinh
khí của con người, lớn thì chúng biến thành quỷ hút máu, quỷ hút máu nầy đều là
quỷ ăn tinh khí biến ra một hình tượng, cho nên trong câu Chú chữ "Ha Rị",
dịch ra là « Quyến thuộc ». "Nẩm": Tức là « Nam » của nam nữ, vậy sao
không dùng chữ "Nam"? Vì hoà âm, không nhất định kêu con người biết.
Câu nầy tức là nói về quỷ ăn tinh khí mang theo quyến thuộc của chúng.
"Quỷ ăn tinh khí dịch chí đức":
Tuy trước kia chúng là quỷ ăn tinh khí, nhưng sau khi quy y Phật rồi, lập chí
muốn hộ trì người có đức hạnh, cho nên gọi là Chí đức.
"Quỷ mẹ
con hợp chúng thiên thần": Đây là chỉ chúng quỷ mẹ con, còn là tên của
thiên thần.
"Chưa quy
y Tam Bảo tên oán tặc": Trước khi chưa quy y Tam Bảo, chúng có tên gọi là
"Oán tặc", trong "Phẩm Phổ Môn" có nói:
"Hoặc oán
tặc vây quanh
Đều cầm đao làm
hại
Nhờ sức niệm
Quán Âm
Họ liền khởi
tâm từ".
Sau khi chúng
quy y Phật rồi, thì sửa lỗi làm mới, bèn đổi tên là "Trừ ma", không
còn làm ác nữa, cho nên nói: "Từ khi theo Phật hiệu Trừ ma".
265. Yết bà
ha rị nẫm.
Dịch: Yết
bà ha rị nẫm.
Kệ:
Đạm thai tạng quỷ hựu mật hộ
Đế thần tôn thiên
giai quyến thuộc
Nam nữ phu phụ
phụ mẫu tử
Bảo vệ đạo
tràng trợ phổ độ.
Nghĩa là:
Quỷ ăn thai lại bí mật hộ
Đế thần tôn
thiên đều quyến thuộc
Nam nữ vợ chồng cha mẹ con
Bảo vệ đạo tràng giúp phổ độ.
Giảng giải: Yết Bà dịch là “Quỷ ăn thai tạng”, lại có tên gọi là Mật Hộ.
"Quỷ ăn thai lại bí mật hộ": Bất cứ loài chúng sinh nào khi
sinh sản, nếu có bào thai, thì loài quỷ nầy đều cấp tốc đến ăn bào thai, hoặc
là nuốc trựng thai nhi vừa mới sinh mà chết, hoặc là ăn thai nhi chưa đủ tháng
mà chết, do đó cũng gọi là quỷ dơ bẩn. Vật mà con người cho là dơ bẩn hôi hám,
thì chúng cho rằng ngon thơm. Trước kia chúng là quỷ ăn thai tạng, về sau phát
nguyện bảo vệ đạo tràng. Sự bảo vệ của chúng là một sự bí mật, không hiện công,
không biểu đức, cũng không cần người khác biết, chúng lập công lập đức như vậy.
"Đế thần tôn thiên đều quyến thuộc": Sau khi chúng quy y Tam Bảo
rồi, bèn làm hộ pháp ở chỗ Đế thần tôn thiên, chúng mang theo hết thảy quyến
thuộc của chúng.
"Nam nữ vợ chồng cha mẹ con": Vì đế thần tôn thiên còn có nam
nữ, vợ chồng, cha mẹ, con cái.
"Bảo vệ đạo tràng giúp phổ độ":
Cho nên nói những quyến thuộc nầy, cùng nhau bảo vệ đạo tràng, chỗ nào chân
chánh tu đạo, thì chúng sẽ hộ trì đạo tràng đó, giúp Phật hoằng hoá, trợ giúp
Phật Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, cũng trợ giúp đại đức pháp sư kiến lập đạo
tràng.
Các vị! Nếu sự giảng giải của tôi có chỗ nào không hợp lý, các vị nào có
kiến giải đặc biệt, hoặc lối giảng pháp đặc biệt, thì hãy đưa ra để thảo luận,
chẳng phải những gì tôi giảng đều hoàn toàn đúng hết, bất quá tôi chỉ nói một
ít phần thôi. Các vị nếu ai có chỗ thấy của mình cao thâm, thì hãy đưa ra để mọi
người cùng tham khảo.
266. Lô địa ra ha rị nẫm.
Dịch: Quỷ uống máu.
Kệ:
Tầm đàn mịch uế
thực huyết quỷ
Hấp ẩm tinh huyết bổ âm tiên
Tối thượng tinh tấn Ba La Mật
Ma Ha Bát Nhã đại pháp thuyền.
Nghĩa là:
Quỷ uống máu tìm
vị hôi tanh
Hút uống tinh máu bổ âm tiên
Tối thượng tinh tấn Ba La Mật
Ma Ha Bát Nhã thuyền pháp lớn.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là “Quỷ uống máu”. Loài quỷ nầy đi các nơi
tìm máu uống, bao quát máu mủ mụt ghẻ chảy ra, càng uống càng thơm, uống đầy miệng
đều là máu, đều là mủ, chúng cảm thấy thơm ngọt không gì bằng, giống như chúng
ta ăn mật ong, cảm thấy rất là có vị đạo. Ha Rị Nẫm tức là “Quyến thuộc của
chúng".
"Quỷ uống máu tìm vị hôi tanh": Chúng đi các nơi tìm vị hôi
tanh, giống như trên thân trâu dê có mùi vị hôi tanh, trên thân cá cũng tanh,
chúng cảm thấy ngon vô cùng.
"Hút uống tinh máu bổ âm tiên": Chúng đi các nơi hút máu người,
thích mùi vị máu tanh, để bổ dưỡng chính mình, đây là quỷ tiên thuộc âm.
"Tối thượng tinh tấn Ba La Mật": Đây là quỷ uống máu, lại tên
là Tối thượng. Chúng vốn là quỷ uống máu, nhưng từ khi quy y Phật rồi, thì biến
thành Tối thượng tinh tấn, có thế đến được bờ bên kia.
"Ma Ha Bát Nhã thuyền pháp lớn": Chúng tinh tấn dụng công, sẽ
lên thuyền pháp lớn đại trí huệ.
267. Mang ta ha rị nẫm.
Dịch: Quỷ
uống dầu.
Kệ:
Bạch sắc đại quỷ thực dầu chi
Kim cang bộ mẫu
chúng linh hiền
Nhật dạ cần lao
sát thiện ác
Công thưởng quá
phạt hào bất thiên.
Nghĩa là:
Quỷ lớn màu trắng uống dầu mỡ
Kim cang bộ mẫu
chúng linh hiền
Ngày đêm chuyên
cần xem thiện ác
Công thưởng lỗi
phạt không thiên vị.
Giảng giải: Đây
là quyến thuộc của quỷ uống dầu.
"Quỷ lớn
màu trắng uống dầu mỡ": Chúng chuyên uống dầu mỡ.
"Kim cang
bộ mẫu chúng linh hiền": Chúng cũng gọi là kim cang bộ mẫu. Quyến thuộc là
những linh quỷ, loài Dạ Xoa, Dược Xoa.
"Ngày đêm
chuyên cần quán thiện ác": Ban ngày, ban đêm, chưa từng nghỉ ngơi để khảo
sát thiện ác ở nhân gian.
"Công thưởng
lỗi phạt không thiên vị": Người có công thì thưởng cho họ, người có tội
thì phạt họ. Tóm lại, tơ hào không sai, cho nên chúng ta mỗi cử chỉ hành động,
bất cứ làm gì, đều không thể sai nhân quả. Nếu sai nhân quả, thì quả báo không
thể nghĩ bàn.
Trong Chú Lăng
Nghiêm có rất nhiều quỷ, cũng có rất nhiều vị Thần, và Thiên long bát bộ. Một
khi tụng danh hiệu của Quỷ Thần Vương, thì các quyến thuộc của họ đều phải y
giáo phụng hành, không dám không giữ quy cụ. Cho nên người xuất gia, mỗi ngày
nên tụng Chú Lăng Nghiêm, tức là trợ giúp thế giới trừ diệt tất cả phi tai
hoành hoạ, khiến cho thế giới được bình an.
Người xuất gia,
sáng sớm tụng khoá lễ sáng, tối tụng khoá lễ tối, trong sự vô hình, khiến cho hết
thảy mọi người đều bình an vui vẻ. Giống như quỷ uống máu, có lúc biến thành rất
nhiều hình dạng các loài để hút máu của bạn, hoặc biến thành con ruồi xanh, con
muỗi, con ong, vi trùng, không nhất định là một. Tóm lại, loài quỷ quái nầy
không nhất định hiện ra hình dáng rất đáng sợ, mà là hiện ra hình dáng rất bình
thường, để hút máu của bạn, uống dầu của bạn. Hình tướng giống loài, làm sao mà
bạn biết được. Nếu bạn khai mở ngũ nhãn, thì sẽ biết được con ruồi xanh nầy,
con muỗi nầy, là quỷ hút máu biến thành. Tuy chúng là vô hình, nhưng có thể biến
thành hữu hình để hút máu của bạn. Đạo lý nầy nói ra không thể khiến cho người
tin, nhưng là sự thật. Làm thế nào để trừ được những loài quỷ nầy đến làm phiền
bạn? Thì phải tụng Chú Lăng Nghiêm. Tụng Chú Đại Bi sức lực vẫn không bằng tụng
Chú Lăng Nghiêm. Nếu hay tụng Chú Lăng Nghiêm, thì con người cũng bình an, thế
giới cũng bình an, có sự trợ giúp rất lớn đối với thế giới.
Một khi đọc tụng
Chú Lăng Nghiêm, thì những bệnh bệnh ôn dịch truyền nhiễm ở trong hư không cũng
đều tiêu diệt. Vốn ở trong không có độc, một khi đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, thì
độc sẽ giải trừ. Đừng có xem Chú Lăng Nghiêm là rất bình thường, nếu bạn đọc tụng
hết toàn bài Chú thì tốt nhất, còn không thể đọc tụng hết, thì đọc tụng một đoạn
cũng có sức lực rất lớn, đừng có gặp được vàng thật mà cho nó là đồng. Các vị
nghiên cứu Phật học, không thể không tụng Chú Lăng Nghiêm.
268. Mê đà
ha rị nẫm.
Dịch: Quỷ
ăn sản.
Kệ:
Thực sản đại quỷ bách ngàn vạn
Hà cơ chướng nạn
Diêm Vương quan
Sinh tức yểu
chiết luân hồi chuyển
Háo sát quả báo
bất thác thiên.
Nghĩa là:
Quỷ ăn thai sản trăm ngàn vạn
Nguyên do chướng
nạn gặp Diêm Vương
Sinh ra rồi chết
chuyển luân hồi
Quả báo sát
sinh không sai lạc.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là « Quỷ
ăn sản », còn dịch là « Quỷ màu đỏ ». Loài quỷ nầy đi các nơi tìm máu tanh để
ăn, do đó bất cứ khi con người, hoặc súc sinh sinh sản, thì loài quỷ nầy đều đến,
hoặc uống máu, hoặc ăn nhau thai, hoặc cũng ăn thai. Cho nên nói phàm là người,
hoặc súc sinh khi sinh sản, thì chúng vây quanh tứ phía, không biết số là bao
nhiêu, đợi khi sinh sản thì cướp lấy mà ăn, hoặc cướp lấy nhau thai để ăn, hoặc
do chúng cùng nhau cướp giựt làm cho thai nhi chết.
"Quỷ ăn
thai sản trăm ngàn vạn": Loài quỷ nầy không chỉ là một, mà có nhiều như số
cát sông Hằng.
"Nguyên do
chướng nạn gặp Diêm Vương": Chúng ở đó đợi cơ hội sinh sản, thì dùng đủ thứ
pháp thuật để làm chướng nạn, hoặc khiến cho người mẹ chết, hoặc khiến cho đứa
con chết, cùng nhau đi gặp vua Diêm Vương.
"Sinh ra rồi
chết chuyển luân hồi": Sao lại sinh ra rồi chết, lại đi thọ sinh?
"Quả báo
sát sinh không sai lạc": Là vì kiếp trước thích sát sinh, cho nên nói nếu
người minh bạch nhân quả, có nhân thì có quả, thuận theo lẽ tự nhiên mà phát
triển, không sầu lo.
269. Ma xà
ha rị nẫm.
Dịch: Quỷ
ăn mạng.
Kệ:
Thọ yểu cùng thông tự tạo duyên
Mạng do ngã lập bất do thiên
Khởi hoặc tác nghiệp ứng thọ báo
Tơ hào bất sai tội triền khiên.
Nghĩa là:
Thọ yểu cùng
thông tự tạo duyên
Mạng do ta lập chẳng do trời
Khởi hoặc tạo nghiệp phải thọ báo
Tơ hào chẳng sai tội triền miên.
Giảng giải: Ma Xà là “Quỷ ăn mạng”, bất cứ sinh mạng của con người, hoặc
sinh mạng của chúng sinh khác, chúng đều muốn bắt lấy ăn. Mạng tức là một thứ
linh tánh, linh tánh mà bị ăn rồi, thì con người sẽ chết đi. Câu Chú nầy lại dịch
là “Quỷ thần gió”, thích gió bão, thổi làm cho sinh mạng của cây cối đổ ngã,
sinh mạng của nhà cửa sập, sinh mạng của con người cũng đều đổ ngã, bèn cướp đoạt
sinh mạng của con người.
"Thọ yểu cùng thông tự tạo duyên":
Thọ là sống lâu, yểu là chết yểu, cùng tức là bần cùng, thông tức là thông đạt,
nhân duyên nầy đều là tự mình tạo, nghiệp của mình tự mình tạo.
"Mạng do ta lập chẳng do trời": Sống
lâu, chết yểu, bần cùng, thông đạt, đủ thứ những nhân duyên nầy, đều là do mình
tự tạo ra. Mình trồng nhân lành, thì kết quả lành; mình trồng nhân ác thì kết
quả ác. Mình cứ phóng sinh, thì sẽ được sống lâu, cứ sát sinh thì sẽ chết yểu.
Còn nghèo thì tại sao? Vì kiếp trước bạn cứ đi trộm cắp tài sản của người khác,
cho nên đời nầy bị nghèo, bị người khác trộm cắp lại tài sản của bạn, cho nên
nói đều là do mình tạo. Thông tức là cố gắng tài bồi công đức lành của mình,
thì tất cả sẽ tự nhiên thông đạt thuận lợi. "Mạng do ta lập chẳng do trời",
sinh mạng là do mình tạo, chứ chẳng phải do ông trời tạo. Nếu do ông trời tạo mạng
của bạn, vậy thì ông ta nên khống chế bạn, khiến cho bạn không làm điều xấu, chỉ
làm việc tốt mới đúng. Tôi nghe trong "Thánh kinh" có nói, là vì con
người ăn quả thiện ác, cho nên mới không tự chủ được, vậy ông Trời, Chúa trời
cũng chẳng có cách gì hết, như vậy thì Chúa trời vẫn không phải là vạn năng. Nếu
là vạn năng, thì tại sao ông ta phải để con người ăn quả thiện ác? Mà không thể
kêu con người đừng có ăn! Vì bạn rõ biết là thuốc độc, uống vào chắc chắn sẽ chết.
Nếu trẻ con muốn uống thuốc độc, thì cha mẹ ở bên cạnh trông coi chúng, biết
thuốc độc uống vào sẽ chết, thì tại sao không đem thuốc độc đi giấu chỗ khác,
kêu chúng đừng uống! Cha mẹ đều thương con cái, đều không nhẫn tâm nhìn thấy
con cái của mình bị uống thuốc độc mà chết, Thiên chúa vạn năng của bạn tại sao
lại nhẫn tâm như thế? Nhìn chúng sinh bạn tạo ra, ăn quả thiện ác, bạn có thể
không kêu họ ăn mà. Có người nói: "Lúc đó Thiên Chúa ngủ mất rồi, cho nên
không nhìn thấy". Thiên Chúa hay ngủ, vậy chúng ta làm việc gì, cũng không
phải ông ta sai bảo, ông ta thường thường ngủ, ông ta không nhìn thấy! Chẳng phải
nói, tại sao mắt nhìn không thấy người mà ông ta tạo ra, đi ăn quả thiện ác? Mọi
người hãy nghiên cứu vấn đề nầy, chẳng phải tôi không nói đạo lý, hãy nghiên cứu
xem. Bạn nói: "Chuyện nầy thì không thể giải thích". Không thể giải
thích tức là hồ đồ, như vậy thì chẳng có lý do. Thiên Chúa không giảng lý do, vậy
ai giảng? Thiên Chúa có thể làm tên trộm chăng? Tôi mới không tin.
Cho nên "Mạng do ta lập", sinh mạng
của chúng ta là do mình tạo, chẳng phải do bất cứ chủ tạo vật nào khống chế, nếu
bạn cho rằng có chủ tạo vật khống chế sinh mạng của bạn, thì bạn sẽ có một thứ
tâm ỷ lại, mình chẳng có chút dụng nào, giống như là người máy. Cho nên nói:
"Mạng do ta lập chẳng do trời", Thiên chúa chẳng quản được sinh mạng
của bạn, người nào đó muốn tự tử, hoặc uống thuốc độc chết .v.v... Nếu là Thiên
chúa vạn năng, thì tại sao kêu họ làm như thế? Đó thật là quá điên đảo. Thiên
chúa vạn năng, sao lại tạo ra những người hồ đồ như thế! Cho nên đừng ỷ lại
Thiên chúa, nói tôi cái gì cũng đều do Thiên chúa ban cho tôi, uống một hớp nước
là Thiên chúa cho, ăn một miếng cơm cũng là Thiên chúa cho. Thiên chúa thật là
một chút cũng đều không sợ làm phiền, những việc nhỏ nhặc của mỗi người như vậy,
ông ta đều muốn đích thân đi làm, như vậy thật là quá từ bi! Cho nên tôi không
tin gì cũng đều là Thiên chúa ban cho.
"Khởi hoặc tạo nghiệp phải thọ báo": Câu nầy nói càng rõ ràng
hơn, do vô minh sinh ra mê hoặc, khi khởi mê hoặc thì tạo nghiệp, tạo nghiệp
thì phải thọ báo.
"Tơ hào không sai tội triền miên": Đây là tơ hào không sai,
cho nên nói tội nghiệp mà bạn tạo ra ràng buộc bạn, làm cho bạn thọ quả báo sống
lâu, chết yểu, bần cùng, thông đạt.
Đây chẳng phải là Thiên chúa làm, tôi tin rằng Thiên chúa sẽ không đi lo
mấy chuyện nhỏ nhặc như vậy, có người nghĩ ra một ví dụ nói: "Thiên chúa
quản lý chúng ta, chúng ta giống như con muỗi nhỏ, Thiên chúa tuỳ tiện kêu người
sống thì người sống, kêu người chết thì người chết. Giống như chúng ta đối với
con muỗi, thích đập nó một cái thì nó sẽ chết, còn nếu không đập nó thì nó sẽ sống.
Khi chúng ta nổi nóng lên, thì đập con muỗi chết. Khi có lòng từ bi thì thả con
muỗi đi, Thiên chúa cũng từa tựa như vậy". Chuyện từa tựa nầy không thể
nói được, cho đến có một chút cũng không được, sai một ly thì đi ngàn dặm, cho
nên lý luận từa tựa nầy là không cần nói.
270. Xà đa ha rị nữ.
Dịch: Quỷ ăn chất béo bẩn.
Kệ:
Cứu hộ quỷ đạo
chư chúng sinh
Thực cấu ẩm tương hỉ tanh tinh
Dầu nị cao chi gia thường phạn
Lãnh nhiệt hàn lương bội gia tăng.
Nghĩa là:
Cứu hộ quỷ đạo
các chúng sinh
Ăn bẩn uống nước thích hôi tanh
Dầu béo mỡ tảng nhà thường ăn
Rét nóng lạnh mát tăng gấp bội.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là “Quỷ ăn chất béo bẩn”, cũng dịch là “Cứu
hộ”, cũng dịch là “Quỷ đạo”. Quỷ có rất nhiều loài, mỗi loài quỷ đều có quỷ
vương, quỷ vương quản lý những quỷ nầy. Nếu quỷ chẳng có quỷ vương, thì chúng
càng không giữ quy cụ. Có quỷ vương, đôi khi chúng cũng hay lén lút đi chướng
ngại người, gây nhiều phiền toái. Câu kệ nói: "Cứu hộ quỷ đạo các chúng
sinh": Hết thảy chúng sinh quỷ đạo đáng cứu hộ. Loài quỷ nầy chuyên ăn những
đồ dơ bẩn, ăn chất béo dơ bẩn, như ăn máu mủ, con người thấy càng dơ bẩn, thì
chúng lại càng thích ăn. Chúng ta nhìn thấy đồ vật chúng ăn, thì sẽ nôn mửa.
Chúng thích đi khắp nơi tìm những thứ đồ vật nầy để ăn. Đồ vật mà con người thải
đi, thì chúng rất thích ăn, chúng nói những đồ vật nầy đã trải qua thực nghiệm
hoá học, trong đó chẳng có độc, những thứ đồ vật dơ bẩn nầy, đã thức nghiệm
trong công xưởng hoá học của con người thải ra, hợp với tiêu chuẩn khoa học.
Cho nên chúng lấy lại ăn, bạn không tin, thì tối nay đi đến chỗ dơ bẩn nhìn
xem, chúng cứ ở chỗ đó quơ lấy, cho nên nói: "Ăn bẩn uống nước thích hôi
tanh": Chúng ăn đồ dơ bẩn, uống thì uống nước tiểu dơ bẩn nhất. Nước hôi
thối nhất, thì chúng đều hoan hỉ uống, lại thích tanh hôi. Mùi trâu dê gọi là
hôi, mùi cá gọi là tanh. Chúng rất thích ngửi những mùi vị nầy, thích ăn những
đồ vật nầy. Cho nên nói: "Dầu béo mỡ tảng nhà thường ăn": Hoặc nơi
nào có chút mỡ béo, tức là nước mỡ béo, thì chúng sẽ tới. "Trong tánh thuốc"
có một thứ thuốc gọi là phấn béo, là phấn mà người dùng tô lên mặt, lấy ra từ
nước trong đầu, tức cũng là một thứ dầu béo, thứ mỡ béo nầy cũng là thứ nhà họ
thường dùng ăn.
"Rét nóng lạnh mát tăng gấp bội": Câu nầy là ý nghĩa gì? Ví
như có đồ vật lạnh, ăn vào trong miệng của chúng, thì càng lạnh hơn, so với nước
đá còn lạnh hơn. Còn đồ vật nóng chúng ăn vào rồi, thì mát hơn một chút phải
không? Không phải, đồ vật nóng, chúng ăn vào thì càng nóng hơn, nóng giống như
lửa. Có thứ nghiệp nầy thì thọ quả báo nầy. Ha Rị Nữ là chỉ quyến thuộc nữ, ở Ấn
Độ, nam gọi là Ha Rị Nam. Nữ cũng gọi nữ.
271. Thị tỷ đa ha rị nẩm.
Dịch: Quỷ ăn cúng tế.
Kệ:
Tế tự hàn lâm đại
thụ vương
Vô lượng đống quỷ các bôn mang
Chiến chiến căng căng xỉ giao kích
Tham tâm nghiệp báo dục phát cuồng.
Nghĩa là:
Cúng tế rừng lạnh
đại thụ vương
Vô lượng quỷ rét đều bận rộn
Răng trên răng dưới nghiến với nhau
Tâm tham nghiệp báo dục phát cuồng.
Giảng giải: Thị Tỷ Đa dịch là “Quỷ ăn cúng tế”. Phàm là bạn cúng tế cái
gì, thì chúng đều chạy đến ăn, thọ sự cúng dường của bạn. Cho nên câu kệ đầu
nói là: "Cúng tế rừng lạnh đại thụ vương". Người cúng tế, có cúng tế
trời, cúng tế đất, cúng tế quỷ, cúng tế cây, bày một cái bàn thờ để dưới gốc
cây nói: "Ngài là cây rất tốt, Ngài có sức lực rất lớn, thần thông rất lớn".
Kỳ thật, đây chẳng phải là cây có linh, đây là bạn cúng tế ở địa phương đó, những
quỷ rét, quỷ đói đó đều chạy lại, cướp lấy ăn những vật bạn cúng tế.
Câu nầy lại dịch là “Rừng lạnh”, trong rừng cây đó rất lạnh lẽo, cho nên
hầu hết những quỷ rét đều ở đó, do đó làm cho tiếng gió khí lạnh vù vù, rét lạnh
chịu không thấu, so với quạt gió điện, khí lạnh còn mát hơn, tức là những quỷ
thiên nhiệt, quỷ rét, hay phóng ra khí lạnh, giống như hơi lạnh ở trong phòng lạnh,
trên thân quỷ rét cũng có khí lạnh, vì thọ lạnh, rét đói mà chết, thường có một
luồng khí lạnh phóng ra, đó gọi là "Rừng lạnh đại thụ vương". Là một
đại thụ vương rất lớn vô cùng. Con người thì nói cây đó có thần, phải đi cúng tế
thần, kỳ thật đó là những quỷ rét chết, ở đó chờ bạn đến cúng tế, thì chúng
giành giựt mà ăn, cho nên nói: "Cúng tế rừng lạnh đại thụ vương".
"Vô lượng quỷ rét đều bận rộn": Không biết có bao nhiêu quỷ
rét chết, quỷ đói chết, quỷ khát chết, ở nơi đó, chờ đợi ăn những đồ vật mọi
người cúng tế.
"Răng trên răng dưới nghiến với nhau": Những quỷ rét đó lạnh
thật là đáng thương, răng trên đánh răng dưới, làm vang ra tiếng nghiến răng,
so với tiếng đánh mõ tụng kinh của chúng ta, thì tiếng nghiến răng của chúng có
thanh, có sắc, giống như tiếng âm nhạc. Răng của chúng đánh với nhau, làm cho
người nghe như tiếng âm nhạc. Đây là quả báo gì? Là vì tâm tham, quả báo tâm
tham, nên biến thành quỷ rét, biến thành quỷ đói, biến thành quỷ dơ bẩn, cho
nên "Tâm tham nghiệp báo dục phát cuồng", lúc nào cũng đều muốn phát
thần kinh. Cho nên quỷ thần kinh nầy, đều có cái đặc biệt như thế. Đại ước của
chúng cũng là tâm tham, hoan hỉ kêu người chú ý chúng, cho nên lúc đó chúng đều
có sự động tĩnh, răng đánh run lập cập, chiến chiến căng căng, đó là sự rét lạnh.
Bạn có cảm giác khi chúng ta bị rét lạnh,
thì hai hàm răng nghiến với nhau chăng? Răng với răng đánh với nhau, đây cũng
tình hình như thế. Đây là quỷ rét, cho nên khi cúng tế, có khi quỷ gì cũng đều
đến, bạn thắp hương cũng dẫn quỷ đến. Đến nơi không có chánh thần, khi bạn thắp
hương lên, thì quỷ liền đến, cho nên chúng ta thắp hương, phải ở trong chánh điện
thắp hương, đừng có đến dưới gốc cây đại thụ, miếu thổ địa thắp hương. Thắp
hương bậy bạ thì khiến cho quỷ theo bạn, chúng theo bạn nói: "Hãy cho tôi
một chút đồ ăn, cho tôi ăn một chút, tôi chưa ăn đủ, bạn hãy cho tôi ăn thêm một
chút". Chúng theo bạn, hoá duyên với bạn, bạn không cho chúng, thì chúng sẽ
nổi giận lên, đánh một chưởng làm cho bạn lưng cũng đau, đùi cũng đau, răng
cũng đau, thậm chí đầu của bạn cũng đau, những lỗ chân lông cũng đều đau, bạn
thấy có lợi hại chăng?
272. Tỳ đa ha rị nẩm.
Dịch: Quỷ ăn hoa.
Kệ:
Chư hoa hàm bao
nhị chánh khai
Bằng hữu quyến thuộc quỷ tề lai
Thực mật ẩm lộ giải cơ khát
Lược chỉ hoả phần cứu nghiệp tai.
Nghĩa là:
Các hoa bao hàm
hoa mới nở
Bạn bè quyến thuộc quỷ đều đến
Ăn mật uống sương hết đói khát
Dập tắt lửa đốt cứu nghiệp tai.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là “Quỷ ăn hoa”, lại dịch là “Bạn bè”. Quỷ
có đủ thứ sự khác nhau, một số người cho rằng quỷ đều là hình dáng dữ tợn đáng
sợ. Kỳ thật, không nhất định, có khi quỷ cũng hay biến thành người, bạn nhìn thấy
còn cho rằng chúng là người bình thường! Nếu đã khai mở ngũ nhãn, thì sẽ biết
được.
Quỷ cũng hay biến thành súc sinh, ngựa, dê,
thỏ, hoặc loài cá. Vì quỷ có thần thông, không những có thể biến thành súc sinh
lớn, mà cũng có thể biến thành súc sinh nhỏ, như chim nhỏ, côn trùng, con kiến,
con ong v.v... Ví như con ong, ong thật thì do nghiệp báo mà ra, kết quả do tạo
nghiệp thọ báo, ong giả tức là quỷ biến thành, chúng hay ăn mật hoa, cho nên đừng
cho rằng quỷ là hình quỷ. Bạn mỗi ngày nhìn thấy rất nhiều rất nhiều quỷ, chỉ
là bạn không biết mà thôi. Do đó, trước mặt chẳng biết Bồ Tát Quán Thế Âm, trước
mặt cũng chẳng biết là quỷ. Vì bạn mắt thịt nhìn chẳng biết, cho nên không tin
là có quỷ, cũng chẳng ai kêu bạn tin, tôi chỉ là nói đạo lý thôi. Bạn hãy tự
mình nghĩ tưởng, đừng có mỗi ngày thấy chúng mà không biết.
Quỷ có thể biến thành con bướm, bay đến đậu
trên đầu bạn, bạn vốn cũng không biết, nói: "Đừng nói về chuyện nầy, làm
cho chúng con sợ, tối cũng ngủ không được". Vậy thì đừng ngủ, tôi nói lời
thật thì bạn không tin, đây cũng không có gì kỳ lạ, về sau tôi sẽ nói ít một
chút. Bạn nói: "Ngài muốn nói lời giả chăng"? Tôi không nói lời giả,
tôi ít nói lời thật, nhưng chắc chắn không nói lời giả. Nói quá nhiều lời thật,
mọi người đều không tin.
Tà ma quỷ quái cũng hay biến thành đủ thứ súc sinh, động vật, quyến thuộc
của chúng và quyến thuộc của chúng ta khác nhau, ai cũng đều có quyến thuộc của
người đó, quyến thuộc của mỗi loài đều có nghiệp báo của họ.
Các vị có còn nhớ năm 1976 không? Chúng ta vừa
mới dọn về Vạn Phật Thánh Thành, mua rất nhiều chim, rùa, để phóng sinh. Trong
đó có một con rùa xanh lục, nằm ngửa lật qua không được. Có vị cư sĩ họ Mã, đêm
đó mộng thấy có người mặc y phục xanh lạc cầu cứu, ông ta ở trong Vạn Phật
Thành đi tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng mới nhìn thấy con rùa đó nằm ngửa lật qua
không được, bèn giúp nó lật qua, giải nạn cho nó. Rùa tuy là có linh tánh,
nhưng thần lực lật thân qua không còn nữa, còn muốn tìm người giải nạn cho nó.
Chúng sinh của mỗi loài, đều có quyến thuộc của họ, mỗi quyến thuộc đều có nghiệp
báo của họ, đây là một trường hợp, do đó "luân hồi thọ báo".
"Các hoa bao hàm hoa mới nở": Hoa cũng có quyến thuộc của hoa,
hoa lại có Thần hoa, quả thì có Thần quả, càng giảng càng huyền diệu. Làm sao
quỷ dám khi dối thần hoa? Thần hoa là quản lý về hoa, khi nào hoa nở, khi nào
hoa tàn, Thần hoa chủ quản về vấn đề nầy. Quỷ muốn ăn hoa, thì Thần hoa không
quản, vì quỷ có thứ nghiệp nầy, có quỷ chuyên môn ăn hoa, loài quỷ nầy có tư
cách ăn hoa, cho nên có khi chúng biến thành con bướm đi ăn nhuỵ hoa, mật hoa,
phấn hoa, sương hoa. Có khi lại biến thành con ong đi hút mật. Tóm lại, chúng
có đủ thứ sự biến hoá, dùng thần thông nghĩ cách đi ăn hoa, trước khi hoa chưa
nở thì gọi là hoa búp, hoa nở rồi bên trong gọi là nhuỵ hoa, chúng biến thành
bướm ong đi ăn mật ong trong nhuỵ hoa, ăn sương, ăn phấn hoa.
"Bạn bè quyến thuộc quỷ đều đến": Những người bạn bè nầy là bạn
bè của quỷ, chẳng phải bạn bè của người, quỷ bạn bè nầy nói: "Tôi mời anh
đi uống trà". Do đó biến thành hai con bướm, cùng kéo nhau bay đi đến chỗ
có hoa, tha hồ ăn mật hoa, phấn hoa, sương hoa. Cũng giống như mọi người uống
rượu, uống đến độ say sưa, uống no, ăn no rồi thì về. Đây là nói quyến thuộc bạn
bè của quỷ cùng nhau tụ hội lại ăn, nhuỵ hoa tức là sảnh ăn của chúng.
Khi bạn chưa nghe qua Chú Lăng Nghiêm, thì không biết có nhiều quỷ, đã
nghe Chú Lăng Nghiêm rồi, thì mới biết có nhiều quỷ, tại sao vậy? Vì con người
tạo tội nghiệp thì đoạ làm quỷ, làm quỷ lâu rồi thì không thể thoát ra. Cho nên
có một lần nọ, đức Phật lấy một ít đất hỏi đệ tử rằng: "Đất trong bàn tay
của ta nhiều, hay đất ngoài đại địa nhiều"?
Đệ tử đáp: "Đương nhiên đất ngoài đại địa nhiều"!
Đức Phật nói: "Được thân người như đất trong bàn tay, mất thân người
như đất ngoài đại địa".
Thân người mất đi rồi làm gì? Tức là đi làm quỷ, như vậy mà cũng còn hỏi.
Cho nên quỷ nhiều hơn người, máy vi tính cũng tính không được có bao nhiêu quỷ,
trừ khi dùng thần não, thần não là não trên trời.
Có người hỏi: "Sư Phụ! Sự phát minh Thiên não và nhân não như thế
nào"? Bạn đi đến trời nhìn xem thì sẽ biết, chẳng phải tôi phát minh,
Thiên não nầy không cần người quản lý, bất cứ những gì bạn nghĩ muốn biết, thì
nó sẽ tính ra, rất là tự nhiên, không cần dùng một chút sức nào hết, không cần
phải mở điện lên, như điện não còn phải mở điện lên, bật máy lên rồi mới tính
toán. Thần não thì không cần tính toán, nói đến thần não, bạn không biết nhưng
nó đều biết, trong tâm bạn nghĩ gì, nó cũng biết. Nhưng số mục quỷ thì dùng thần
não cũng không tính đếm được số bao nhiêu, vì quá nhiều, vừa mới tính rồi, qua
một giây, thì lại tăng thêm rất nhiều, rất nhiều, cho nên không có cách gì tính
đếm được số mục bao nhiêu, vì quỷ cũng hốt nhiên trên trời, hốt nhiên dưới đất,
chẳng có nhất định, cho nên không cách gì tính đếm được số mục.
Quỷ có quyến thuộc của quỷ, bạn bè của quỷ, chúng biết nơi nào có đồ ăn,
thì mời bạn bè của chúng cùng đi ăn, bạn bè của chúng liền đến, do đó "Ăn
mật uống sương hết đói khát", ăn mật trong hoa, uống chút sương trong hoa,
thì giải trừ được sự đói khát.
"Dập tắt lửa đốt cứu nghiệp tai": Loài quỷ nầy từ sáng đến tối,
đều có lửa thiêu đốt chúng, bên trong có lửa, bên ngoài cũng có lửa. Lửa nầy từ
đâu đến? Từ nghiệp báo mà đến. Tại sao phải thọ quả báo nầy? Vì kiếp trước nóng
giận quá lớn, sau khi chết rồi bị đoạ làm quỷ, thật là không thoải mái chút
nào. Ban ngày cũng bị lửa đốt, ban đêm cũng bị lửa đốt, ai kêu bạn quá nóng giận,
thiêu đốt toàn thân, lửa bên ngoài cũng đốt, lửa bên trong cũng đốt, thiêu đốt
trong ngoài. Nhưng khi ăn chút mật hoa, thì khiến cho mát mẻ bớt nóng bức được
khoảng một giây, dù một giây cũng cảm thấy rất tốt, rất có ý nghĩa. Nghiệp báo
của chúng là như thế, thật là đáng thương!
273. Bà đa ha rị nẩm.
Dịch: Quỷ ăn.
Kệ:
Đại thân nương mẫu
quả tân tiên
Kiến sắc văn hương khứu vị tiền
Xúc thực tư chi đồng thọ dụng
Nhân duyên như thị nghiệp giao tiên.
Nghĩa là:
Thân lớn nương mẫu
quả tươi mới
Thấy sắc nghe mùi ngửi vị trước
Xúc thực nghĩ ăn cùng thọ dụng
Nhân duyên như vậy đều do nghiệp.
Giảng giải: Câu Chú nầy lại dịch ra có ba ý nghĩa: “Thân lớn”, “Nương mẫu”,
“Trái cây”.
"Thân lớn nương mẫu quả tươi mới": Ăn có bốn thứ, chúng ta
chúng sinh hữu hình ăn uống gọi là phần đoạn thực. Chúng sinh vô hình có xúc thực,
có tư thực, có thức thực. Xúc tức là tiếp xúc, tư tức là nghĩ tưởng, thức thì
cho đến nghĩ tưởng cũng không cần nghĩ tưởng thì có thể ăn. Phàm là có huyết
khí, chúng sinh có hình tượng, ăn vật gì đều gọi là phần đoạn thực. Phần đoạn tức
là bạn có phần của bạn, tôi có phần của tôi. Đoạn tức là một đoạn, một đoạn, tức
cũng là một bữa ăn, một bữa ăn. Giống như buổi sáng, buổi trưa, buổi tối. Khi bạn
cho súc sinh ăn, thì cũng là cho ăn buổi sáng một lần, trưa một lần, tối một lần.
Bạn thấy chim nhỏ không, sáng sớm dậy liền đi các nơi tìm thức ăn, ban ngày có
thức ăn thì chúng ăn một chút, không có gì ăn thì chúng nhảy nhót trên cây, từ
cành cây nầy nhảy qua cành cây khác, từ cành cây kia lại nhảy qua cành cây nọ,
cảm thấy vô câu vô thúc, không quái không ngại, không có gì bị ràng buộc,
"Ê, hãy nhìn phòng của tôi lớn cỡ nào, tận hư không khắp pháp giới, chỗ
nào cũng đều là chỗ tôi ở"! Nhưng các bạn phải biết, cho đến con chim nhỏ
cũng có đồng loại của nó, cùng nhau ở một chỗ, nếu không muốn đến làm khách nhà
người khác, cũng không thể được, chúng sẽ đá đánh với nhau.
Tôi còn nhớ con hạc trắng ở trên núi của Vạn Phật Thánh Thành, con hạc
trắng thường thường đá nhau với con chim ưng. Năm ngoái con chim hạc trắng nhỏ
bị đá bị thương, hoặc là vì lúc bị đá, thì từ trên nhánh cây cao té xuống bị
thương. Vì Quả Đà kiếp trước đã từng làm bạn với nó, kiếp trước đại khái Quả Đà
cũng từng làm con chim hạc, vì nghe một chút Kinh, cho nên đời nầy được làm người,
anh ta thấy con chim hạc trắng nầy bị thương, bèn đem nó vào nhà thương để chữa
trị, không ngờ y tá cũng không có cách nào chữa, thương mà không giúp gì được,
bèn mang con chim hạc trở về, thả nó vào rừng. Các vị cũng không nói cho tôi
nghe, con chim hạc lớn đó thua một trận, bảo hộ nó, nhưng không biết sao con
chim ưng lại đến, bắt nó mang đi. Cho nên mỗi loài đều có quyến thuộc của
chúng.
Câu Chú nầy dịch ra là “Thân lớn”, loài quỷ nầy không thấy thân mình, bạn
nhìn thấy thì biết chúng là đỉnh thiên xúc địa, đầu đội trời, chân đạp đất, thật
là oai phong, thế lực của chúng thật là lớn! Đây là nghĩa thân lớn! Nương mẫu tức
là quỷ mẹ con, quỷ mẹ con có rất nhiều, chẳng phải chỉ có một. Vị nầy gọi là
nương mẫu, lại còn dịch là “Quả tươi”, trái cây. Nói đến trái cây, các bạn phải
biết, trái cây hái xuống rồi, chưa đem dâng cúng Phật, thì có hai trái cây. Ví
như một quả tần bà, tổng cộng có hai quả tần bà, một có thể nói là cái bóng, một
cũng có thể nói là linh tánh của quả tần bà, cái tánh của quả tần bà.
Chúng ta mỗi người, cũng chẳng phải chỉ có một người, cũng có hai người,
bất quá hai người nầy cũng thường thường ở bên trong, ở trong thân thể của con
người, nó chẳng chạy ra, vì nó chạy ra
thì e rằng bị kẻ khác ăn nó mất. Ai ăn? Yêu ma quỷ quái chạy đến muốn ăn hồn
phách của bạn, cho nên nó không chạy ra ngoài, bạn nói sư phụ: "Hôm nay
Ngài giảng chẳng có căn cứ gì hết".
Tôi bèn nói: "Tôi không giảng lời thật, tôi giảng lời thật thì chẳng
có ai nghe". Con người, bất cứ là biến thành người gì, ở phía sau của bạn
còn có một cái bóng. Ví như ngựa biến thành người, kiếp trước là ngựa, thì đời
nầy ở phía sau lưng của bạn có hình bóng con ngựa. Bất cứ bạn là gì, thì có
hình bóng đó phía sau bạn. Cho nên người khai ngũ nhãn nhìn, thì biết người nầy
nguyên lai là con thỏ, kiếp trước của họ là con thỏ, họ nhìn một cái là biết liền.
Tại sao chẳng có nhiều người khai ngũ nhãn? Nếu nhiều người khai ngũ nhãn, thì
e rằng bạn sẽ tiết lộ ra hết đời trước của họ. "Bạn xem! Bạn chẳng phải là
người, người đó là con chó tái sinh". Bạn nói như thế thì mọi người đều
cho rằng đó là con chó, ai cũng không dám làm bạn với họ, sợ họ cắn, có đúng
chăng? Vì lẽ đó, cho nên không thể kêu bạn biết quá nhiều, thiên cơ bất khả lậu.
Trái cây chẳng có khí huyết, chẳng phải động vật, mà là sinh vật, sinh vật
nầy cũng có sinh mạng, nó cũng muốn sống, không muốn chết. Tại sao nó có sinh mạng?
Vì nó có tánh, cho nên trái cây cúng Phật, hoặc cúng quỷ, thì Phật cũng ăn cái
tánh đó. Quỷ ăn trái cây, chẳng phải cầm lấy trái cây cắn ăn, quỷ cũng chỉ ăn
cái tánh đó, chúng hút cái tánh đó đi mất. Chúng hút tánh trái cây đi rồi, khi
bạn ăn trái cây đó, thì chẳng còn mùi vị trái cây nữa. Giống như lúc tôi ở tại
Đông sơn lĩnh, chỗ tôi ở có mấy con gấu, gấu ăn vật gì thì cũng không nhai, chỉ
nuốt trựng, như nuốt trựng trái lê vào bên trong, cũng không tiêu hoá, sau đó
thải ra ngoài thì trái lê vẫn còn nguyên vẹn, nhưng không còn mùi vị nữa. Tại
sao vậy? Vì đã trải qua công xưởng hoá học tiêu hoá, đã lấy đi tinh hoa của
trái cây rồi, nên chẳng còn mùi vị nữa. Từ con gấu ăn lê, bạn sẽ biết quỷ ăn lê
cũng chẳng phải ăn quả lê, mà chỉ ăn cái "tánh" thôi.
Cho nên nói "Quả tươi mới", bạn xem đó, trái cây bạn đã cúng tế
quỷ thần rồi, hoặc đã cúng Phật Bồ Tát rồi, thì trái cây không thể để được lâu,
sớm sẽ hư thối. Tại sao vậy? Cũng giống như con người còn sống thì không thối,
nhưng sau khi chết rồi, linh hồn chẳng còn nữa, thì tử thi sớm sẽ thối. Trái
cây cũng thế, bạn thấy trái cây đó có sinh tánh, nó không thể sớm hư được, chết
rồi thì sớm sẽ hư thối. Trái cây hư thối không thể ăn, ăn vào chẳng có dinh dưỡng
gì hết, bạn mua đồ vật, lại mua lúa tẻ, lại mua cái nầy cái nọ, nói là có dinh
dưỡng, đó chẳng phải. Thật có dinh dưỡng, tức là vật gì chẳng hư thì đều có
dinh dưỡng, khi hư rồi thì dinh dưỡng chẳng còn nữa.
"Thấy sắc nghe mùi ngửi vị trước": Thấy được nhan sắc trái cây
rồi, thì cũng ngửi được hương vị của trái cây, rất thơm, "ngửi vị trước",
chúng ngửi được mùi thơm rồi, thì chúng muốn ăn, cho nên chúng đến chỗ trái cây
đó hút khí một cái, thì ăn xong trái cây đó, chúng đến hút khí một cái là đã ăn
rồi. "Sư Phụ, tại sao Ngài biết"? Vì quá khứ tôi cũng đã từng làm quỷ,
nên tôi còn nhớ chuyện quỷ ăn như thế.
Xúc thực, quỷ là xúc thực, chúng ăn vật ăn,
có thể tiếp xúc đến vật đó, hút một cái là đã ăn rồi. Bạn xem người trời là tư
thực, tức là họ chỉ nghĩ tưởng một cái thì no rồi. Ở cõi trời Tứ Không Xứ, lấy
thức làm thức ăn, tức là họ dùng tám thức làm ẩm thực của họ, cho nên nói:
"Xúc thực nghĩ ăn cùng thọ dụng", đều đắc được thọ dụng, cùng nhau đắc
được thọ dụng. "Nhân duyên như vậy đều do nghiệp": Nhân duyên như vậy
có nghiệp báo đó không thể nghĩ bàn.
274. A du giá ha rị nữ.
Dịch: Quỷ
ăn hạt giống ngũ cốc.
Kệ:
Vô ưu khả ái hoa thụ danh
Ngũ cốc chủng tử
tánh bất sinh
Hựu dịch vô tỉ
sắc quang diệm
Thiên biến vạn
hoá diệu thông linh.
Nghĩa là:
Tên cây Vô ưu hoa khả ái
Tánh hạt giống
ngũ cốc không sinh
Lại dịch vô tỉ
sắc quang diệm
Thiên biến vạn hoá
diệu thông linh.
Giảng giải: Câu Chú Lăng Nghiêm nầy,
là câu 274, vẫn là hội thứ ba, dịch ra là « Vô ưu », tức là cây Vô ưu. Khả ái,
tức là hoa khả ái. Quỷ nầy không giống như quỷ ăn hoa, quỷ ăn lửa ở trước. Loài
quỷ nầy chuyên môn ăn ngũ cốc, ăn hạt giống ngũ cốc, cho nên có những ngũ cốc
gieo xuống rồi, không mọc lên, tức là đã bị quỷ ăn mất. Vì chúng ta không hiểu
được cảnh giới của quỷ, cho rằng quỷ tức là quỷ, kỳ thật, trong loài quỷ cũng
phân ra đủ thứ màu sắc, ngàn sai vạn biến, chẳng phải một loài quỷ.
Bình thường
chúng ta biết tức là quỷ, quỷ có nhiều loài như số cát sông Hằng. Hiện tại đang
giảng về loài quỷ nầy, chúng chuyên môn ăn cái tánh hạt giống ngũ cốc. Cái tánh
hạt giống ngũ cốc đã ăn mất rồi, thì hạt giống gieo vào trong đất sẽ không sinh
ra ngũ cốc, cho nên kệ nói: "Tên cây Vô ưu hoa khả ái, Tánh hạt giống ngũ
cốc không sinh". Bất cứ hạt giống ngũ cốc gì, mà bị loài quỷ nầy ăn rồi,
thì sẽ không sinh ra ngũ cốc. Chúng cũng chỉ "ăn cái tánh" của ngũ cốc
thôi, cái tánh mà bị ăn rồi, thì sẽ không mọc lên, tánh bị ăn rồi, thì cũng như
đã chết rồi.
"Lại dịch vô tỉ quang sắc diệm,
Thiên biến vạn hoá diệu thông linh": Có chỗ lại dịch ra là "A Du Giá,
A Sắc Trá", A Sắc Trá, lại dịch là "Vô tỉ sắc quang", thứ màu sắc
nầy, thứ quang minh nầy, đều vô tỉ, không gì sánh bằng. "Thiên biến vạn
hoá diệu thông linh", tuy là một thứ quỷ, nhưng chúng đều có thần thông
thiên biến vạn hoá, bất quá chúng có sự chấp trước của quỷ. Tuy có thần thông,
nhưng chúng vẫn còn một chút vô minh không phá được, do phá không được, cho nên
chúng chấp trước vào thần thông nầy, cảm thấy rằng cũng rất tốt, cũng rất thiên
biến vạn hoá, có một thứ linh cảm.
275. Chất đa
ha rị nữ.
Dịch: Quỷ
ăn đèn.
Kệ:
Thực đăng ẩm quang thôn hoả yên
Háo thắng cang
cường tranh trường đoản
Tâm vô quái ngại
ly khủng bố
Điên đảo mộng
tưởng nhất khái quyên.
Nghĩa là:
Ăn đèn uống sáng nuốt lửa khói
Háo thắng cang
cường tranh dài ngắn
Tâm không quái
ngại lìa sợ hãi
Điên đảo mộng tưởng
đều trừ sạch.
Giảng giải: Câu Chú nầy dịch là
"Thắng tâm", có tâm háo thắng, còn gọi là "Quỷ ăn đèn".
Nhìn kỹ càng một chút, thì loài quỷ nầy chuyên môn ăn đèn. Tại sao loài quỷ nầy
ăn đèn? Vì đó là dùng chút dầu đèn, dầu rất là dơ bẩn, chúng đến ăn ánh sáng của
đèn, ăn đèn làm ẩm thực của chúng. Câu đầu tiên bài kệ nầy nói: "Ăn đèn uống
sáng nuốt lửa khói, háo thắng cang cường tranh dài ngắn". Thời thời đều
tranh luận dài ngắn, biện luận thị phi, có sự háo thắng cang cường, rất là cang
cường. Lúc nào cũng đều tranh đạo lý nầy, cho nên nói háo thắng cang cường, rất
là cang cường, tranh dài ngắn với người, tranh đúng và chẳng đúng, tranh thị
phi.
"Tâm không quái ngại lìa sợ
hãi": Nếu hay tu hành, thì trong tâm chẳng có sự quái ngại, chẳng có sự sợ
hãi, gì cũng đều không sợ.
"Điên đảo mộng tưởng đều quét sạch":
Cũng chẳng còn điên đảo, cũng chẳng còn mộng tưởng, đều trở về thanh tịnh, thảy
đều quét sạch hết.
No comments:
Post a Comment