KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 6
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
PHẨM NHƯ LAI XUẤT HIỆN
THỨ BA MƯƠI BẢY (tiếp theo)
Phật tử[1] ! Đại
Bồ Tát phải làm thế nào biết được âm thanh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?
Phật tử! Đại Bồ
Tát phải biết âm thanh Như Lai đến khắp tất cả, vì khắp cùng vô lượng các âm
thanh. Phải biết âm thanh Như Lai tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh, đều khiến
cho hoan hỉ, vì thuyết pháp thấu rõ.
Phải biết âm
thanh Như Lai tuỳ theo sự tin hiểu của chúng sinh, đều khiến cho hoan hỉ, vì
tâm được mát mẻ.
Phải biết âm
thanh Như Lai giáo hoá chẳng thất thời, vì người đáng được nghe, thảy đều được
nghe.
Phải biết âm
thanh Như Lai không sinh diệt, vì như tiếng ứng vang. Phải biết âm thanh Như
Lai không có chủ, vì tu tập tất cả nghiệp sinh khởi. Phải biết âm thanh Như Lai
thâm sâu, vì khó có thể độ lượng.
Phải biết âm
thanh Như Lai không tà khúc, vì pháp giới sinh ra. Phải biết âm thanh Như Lai
không đoạn tuyệt, vì vào khắp pháp giới. Phải biết âm thanh Như Lai không biến
đổi, vì đến nơi rốt ráo.
Phật tử! Đại Bồ
Tát phải biết âm thanh Như Lai, chẳng có lượng, chẳng vô lượng. Chẳng có chủ,
chẳng vô chủ. Chẳng có thị, chẳng vô thị. Tại sao?
Phật tử! Ví như
khi thế giới sắp hoại, chẳng có chủ, chẳng tạo tác, tự nhiên phát ra bốn thứ âm
thanh. Những gì là bốn?
Một là: Các vị
nên biết, Sơ thiền an lạc, lìa các dục ác, vượt khỏi dục giới. Chúng sinh nghe
rồi, tự nhiên đắc được thành tựu Sơ thiền. Xả thân dục giới, sinh về cõi Phạm
Thiên.
Thứ hai: Các vị
nên biết: Nhị thiền an lạc, không giác, không quán, vượt qua cõi Phạm Thiên.
Chúng sinh nghe rồi, tự nhiên được thành tựu Nhị thiền. Xả thân Phạm Thiên,
sinh về cõi trời Quang Âm.
Thứ ba: Các vị
nên biết, Tam thiền an lạc, không có lỗi lầm, vượt qua cõi trời Quang Âm. Chúng
sinh nghe rồi, tự nhiên được thành tựu Tam thiền. Xả thân trời Quang Âm, sinh về
cõi trời Biến Tịnh.
Bốn là: Các vị
nên biết, Tứ thiền tịch tịnh, vượt qua cõi trời Biến Tịnh. Chúng sinh nghe rồi,
tự nhiên được thành tựu Tứ thiền. Xả thân trời Biến Tịnh, sinh về cõi trời Quảng
Quả. Đó là bốn.
Phật tử! Các âm
thanh đó, không có chủ, không tạo tác, do từ sức các nghiệp lành của chúng sinh
mà sinh ra.
Phật tử! Âm
thanh Như Lai cũng lại như thế, chẳng có chủ, chẳng tạo tác, chẳng có phân biệt,
chẳng vào, chẳng ra. Do từ sức pháp công đức của Như Lai, sinh ra bốn thứ âm
thanh rộng lớn. Những gì là bốn?
Một là: Các vị
nên biết, tất cả các hành đều là khổ. Đó là: Khổ địa ngục, khổ súc sinh, khổ ngạ
quỷ, khổ không phước đức, khổ chấp cái ta và của ta, khổ làm các hạnh ác. Muốn
sinh về cõi trời người, nên trồng căn lành. Sinh trong trời người, lìa nơi các
nạn. Chúng sinh nghe rồi, xả lìa điên đảo, tu các hạnh lành. Lìa khỏi nơi các nạn,
sinh về cõi trời người.
Hai là: Các vị
nên biết, tất cả các hạnh, các khổ thiêu đốt, như hòn sắt nóng. Các hành vô thường,
là pháp diệt mất. Niết Bàn tịch tĩnh, vô vi an lạc. Xa lìa thiêu đốt, tiêu các
nhiệt não. Chúng sinh nghe rồi, siêng tu pháp lành. Nơi Thanh Văn thừa, được tuỳ
thuận âm thanh nhẫn.
Ba là: Các vị
nên biết, bậc Thanh Văn thừa do người khác mà được ngộ hiểu, trí huệ hẹp kém. Lại
có thừa cao hơn, gọi là Độc Giác thừa, chẳng do thầy mà tự ngộ. Các vị nên học.
Người ưa thích đạo thù thắng, nghe lời đó rồi, xả bỏ đạo Thanh Văn, tu Độc Giác
thừa.
Bốn là: Các vị
nên biết, vượt qua bậc nhị thừa, lại có đạo thù thắng, gọi là đại thừa. Bồ Tát
tu hành thuận sáu Ba la mật, chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng xả bỏ tâm bồ đề. Nơi
vô lượng sinh tử, mà chẳng nhàm chán. Vượt qua nhị thừa, gọi là đại thừa, đệ nhất
thừa, thắng thừa, tối thắng thừa, thượng thừa, vô thượng thừa, thừa lợi ích tất
cả chúng sinh. Nếu có chúng sinh, tin hiểu rộng lớn, các căn dũng mãnh lanh lợi,
xưa đã trồng căn lành, nhờ phước lực của các Như Lai gia trì, có thệ nguyện thù
thắng, mong cầu quả Phật, nghe lời đó rồi, phát bồ đề tâm.
Phật tử! Âm
thanh Như Lai chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, mà hay lợi ích vô lượng chúng
sinh.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ nhất của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Ví như tiếng vang, do trong hang núi và âm thanh khởi lên. Không có hình trạng,
không thể thấy được, cũng không có sự phân biệt, mà hay tuỳ theo tất cả tiếng
nói. Âm thanh Như Lai cũng lại như thế, không có hình trạng, không thể thấy được,
chẳng có phương sở, chẳng phải không có phương sở. Nhưng tuỳ theo nhân duyên
mong muốn hiểu biết của chúng sinh mà phát ra. Tánh của âm thanh rốt ráo, không
lời, không chỉ bày, không thể tuyên nói.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ hai của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như chư Thiên có trống pháp lớn, gọi là Giác Ngộ. Nếu lúc chư Thiên tử hành
phóng dật, thì ở trong hư không vang ra âm thanh nói: Các ông nên biết! Tất cả
dục lạc đều là vô thường, hư vọng điên đảo, trong khoảnh khắc sẽ biến hoại. Chỉ
kẻ cuồng ngu mới tham luyến, các ông chớ phóng dật. Nếu phóng dật, thì sẽ đoạ
vào các cõi ác, sau hối hận không kịp nữa. Chư Thiên phóng dật nghe tiếng đó rồi,
sinh tâm lo sợ, xả bỏ hết thảy dục lạc trong cung điện của mình, đến chỗ Thiên
chủ, cầu pháp hành đạo.
Phật tử! Tiếng
trống trời đó, không chủ, không tạo tác, không khởi, không diệt, mà hay lợi ích
vô lượng chúng sinh. Nên biết Như Lai cũng lại như thế, vì muốn giác ngộ chúng
sinh phóng dật, mà phát ra vô lượng âm thanh diệu pháp. Đó là: Tiếng không chấp
trước, tiếng không phóng dật, tiếng vô thường, tiếng khổ, tiếng vô ngã, tiếng bất
tịnh, tiếng tịch diệt, tiếng Niết Bàn, tiếng trí tự nhiên không có hạn lượng,
tiếng Bồ Tát hạnh không thể hoại, tiếng trí địa vô công dụng của Như Lai đến tất
cả chỗ. Dùng những tiếng đó trong khắp pháp giới để khai ngộ.
Vô số chúng sinh
nghe những tiếng đó rồi, đều sinh hoan hỉ, siêng tu pháp lành. Mỗi người đều ở
nơi thừa của mình mà cầu xuất ly. Đó là: Hoặc tu Thanh Văn thừa, hoặc tu Độc
Giác thừa. Hoặc tu Bồ Tát vô thượng đại thừa, mà tiếng Như Lai chẳng trụ phương
sở, không có lời nói.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ ba của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như Tự Tại Thiên Vương, có thiên thể nữ, tên là Thiện Khẩu. Ở trong miệng của
Thiện Khẩu vang ra một âm thanh. Âm thanh đó liền hoà đồng với trăm ngàn thứ nhạc.
Trong mỗi mỗi tiếng nhạc, lại có trăm ngàn thứ âm thanh khác nhau.
Phật tử! Một âm
thanh từ trong miệng của nữ Thiện Khẩu, vang ra vô lượng âm thanh như vậy. Nên
biết Như Lai cũng lại như thế, trong một âm thanh, vang ra vô lượng âm thanh,
tuỳ theo tâm ưa thích của các chúng sinh khác nhau, thảy đều đến khắp, đều khiến
cho được giải thoát.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ tư của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Ví như Đại Phạm Thiên Vương, ở tại Phạm cung, vang ra tiếng Phạm. Tất cả Phạm
chúng thảy đều nghe được, mà tiếng đó chẳng vang ra ngoài chúng. Các chúng Phạm
Thiên đều nghĩ rằng : Đại Phạm Thiên Vương chỉ nói với tôi.
Diệu âm của Như
Lai cũng lại như thế, trong chúng hội đạo tràng thảy đều nghe được, mà âm thanh
đó chẳng vang ra ngoài chúng. Tại sao ? Vì người căn lành chưa thành thục không
đáng được nghe. Người nghe được âm thanh, đều nghĩ rằng : Như Lai Thế Tôn, chỉ
vì tôi nói.
Phật tử ! Âm
thanh Như Lai không ra, không trụ, mà hay thành tựu tất cả sự nghiệp. Đó là tướng
âm thanh thứ năm của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Ví như nước đều đồng một vị. Tuỳ theo đồ chứa đựng khác nhau, mà nước có sự
khác nhau. Nước chẳng suy nghĩ, cũng chẳng có sự phân biệt.
Âm thanh Như Lai
cũng lại như thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Tuỳ theo tâm khí chúng
sinh khác nhau, nên có vô lượng sự khác nhau, mà không suy nghĩ, không có sự
phân biệt.
Phật tử ! Đó là
tướng âm thanh thứ sáu của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như Long Vương A Na Bà Đạt Đa, nổi mây lớn dày đặc khắp cõi Diêm Phù Đề, khắp
mưa xuống cam lồ, trăm thứ ngũ cốc lúa mạ đều được sinh trưởng. Sông ngòi suối
ao tất cả đều tràn đầy. Nước mưa lớn đó, chẳng từ trong thân tâm Long Vương ra,
mà hay lợi ích chúng sinh đủ thứ.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế, nổi mây đại bi, khắp mười phương thế giới,
khắp mưa xuống pháp vũ cam lồ vô thượng, khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh
hoan hỉ, tăng trưởng pháp lành, đầy đủ các thừa.
Phật tử! Âm
thanh Như Lai chẳng từ ngoài đến, chẳng từ trong ra, mà hay lợi ích tất cả
chúng sinh. Đó là tướng âm thanh thứ bảy của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết
như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như Long Vương Ma Na Tư, lúc sắp muốn mưa xuống, nhưng chưa tiện mưa liền.
Trước hết, nổi mây lớn, che khắp hư không, ngưng đình bảy ngày, đợi các chúng
sinh làm xong công việc. Tại sao? Vì đại Long Vương đó, có tâm từ bi, không muốn
làm não loạn các chúng sinh. Qua bảy ngày rồi, mưa nhỏ xuống, thấm nhuần khắp đại
địa.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế, lúc sắp mưa pháp, chưa tiện mưa liền. Trước
hết, nổi mây pháp, thành thục chúng sinh. Vì muốn khiến cho tâm chúng sinh
không sợ hãi, đợi họ thành thục rồi, sau đó khắp mưa xuống pháp vũ cam lồ. Diễn
nói pháp lành vi diệu thâm sâu, lần lược khiến cho họ đầy đủ pháp vị trí Nhất
thiết trí vô thượng của Như Lai.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ tám của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như trong biển có đại Long Vương, tên là Đại Trang Nghiêm. Khi mưa xuống ở
trong biển, hoặc mưa xuống mười thứ mưa trang nghiêm, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc
trăm ngàn thứ mưa trang nghiêm.
Phật tử! Nước chẳng
có sự phân biệt, nhưng do sức lực Long Vương không thể nghĩ bàn, khiến cho
trang nghiêm, cho đến có trăm ngàn vô lượng sự khác nhau.
Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế. Khi vì các chúng sinh thuyết pháp, thì hoặc
dùng mười thứ tiếng khác nhau nói, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc dùng trăm ngàn,
hoặc dùng tám vạn bốn ngàn âm thanh, nói tám vạn bốn ngàn hạnh. Cho đến hoặc
dùng vô lượng trăm ngàn ức Na do tha âm thanh khác nhau để thuyết pháp. Khiến
cho người nghe đều sinh tâm hoan hỉ. Âm thanh Như Lai không có sự phân biệt, chỉ
nhờ chư Phật nơi pháp giới thâm sâu viên mãn thanh tịnh, hay tuỳ theo căn cơ
chúng sinh thích nghi, mà phát ra đủ thứ tiếng nói, đều khiến cho họ hoan hỉ.
Phật tử! Đó là
tướng âm thanh thứ chín của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Ví như Ta Kiệt La Long Vương, muốn hiện sức đại tự tại của Long Vương, lợi ích
chúng sinh, đều khiến cho hoan hỉ. Từ bốn thiên hạ cho đến cõi trời Tha Hoá Tự
Tại, nổi lưới mây lớn, che trùm khắp. Sắc tướng mây đó, có vô lượng sự khác biệt:
Hoặc màu sắc quang minh vàng diêm phù đàn. Hoặc màu sắc quang minh tỳ lưu ly.
Hoặc màu sắc quang minh bạc trắng. Hoặc màu sắc quang minh pha lê. Hoặc màu sắc
quang minh mâu tát la. Hoặc màu sắc quang minh mã não. Hoặc màu sắc quang minh
thắng tạng. Hoặc màu sắc quang minh xích chân châu. Hoặc màu sắc quang minh vô
lượng hương. Hoặc màu sắc quang minh y vô cấu. Hoặc màu sắc quang minh nước
thanh tịnh. Hoặc màu sắc quang minh đủ thứ đồ trang nghiêm. Lưới mây như vậy,
che trùm khắp.
Mây che trùm khắp
như vậy rồi, phát ra đủ thứ màu sắc ánh chớp. Đó là: Mây màu vàng Diêm Phù Đàn,
phát ra ánh chớp màu lưu ly. Mây màu lưu ly, phát ra ánh chớp màu vàng. Mây màu
bạc, phát ra ánh chớp màu pha lê. Mây màu pha lê, phát ra ánh chớp màu bạc. Mây
màu mâu tát la, phát ra ánh chớp màu mã não. Mây màu mã não, phát ra ánh chớp
màu mâu tát la. Mây màu thắng tạng bảo, phát ra ánh chớp màu xích chân châu.
Mây màu xích chân châu, phát ra ánh chớp màu thắng tạng bảo. Mây màu vô lượng
hương, phát ra ánh chớp màu vô cấu y. Mây màu vô cấu y, phát ra ánh chớp màu vô
lượng hương. Mây màu nước thanh tịnh, phát ra ánh chớp màu đủ thứ đồ trang
nghiêm. Mây màu đủ thứ đồ trang nghiêm, phát ra ánh chớp màu nước thanh tịnh.
Cho đến mây đủ thứ màu sắc, phát ra ánh chớp một màu sắc. Mây một màu sắc, phát
ra ánh chớp đủ thứ màu sắc.
Lại nữa, ở trong
mây đó, phát ra đủ thứ tiếng sấm. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ.
Đó là: Hoặc như tiếng Thiên nữ ca xướng.
Hoặc như tiếng chư Thiên tấu nhạc. Hoặc như tiếng rồng nữ ca xướng. Hoặc như tiếng
Càn Thác Bà nữ ca xướng. Hoặc như tiếng Khẩn
Na La nữ ca xướng. Hoặc như tiếng đại địa chấn động. Hoặc như tiếng hải
triều. Hoặc như tiếng chúa loài thú gầm thét. Hoặc như tiếng chim hót, và có vô
lượng đủ thứ âm thanh khác, phát ra tiếng sấm như vậy rồi, lại nổi gió mát, khiến
cho các chúng sinh sinh tâm vui mừng.
Sau đó bèn mưa
xuống các thứ mưa, lợi ích an lạc vô lượng chúng sinh. Từ mặt đất đến cõi trời
Tha Hoá, tất cả mọi nơi, mưa xuống đều khác nhau. Đó là: Ở trong biển thì mưa
nước mát, tên là Vô đoạn tuyệt. Ở cõi trời Tha Hoá Tự Tại, thì mưa tiêu sáo đủ
thứ âm nhạc, tên là Mỹ diệu. Ở cõi trời Hoá Lạc, thì mưa báu đại ma ni, tên là
Phóng đại quang minh. Ở cõi trời Đâu Suất, thì mưa đồ đại trang nghiêm, tên là
Thuỳ kế. Ở cõi trời Dạ Ma, thì mưa hoa lớn đẹp, tên là Đủ thứ đồ trang nghiêm. Ở
cõi trời Tam Thập Tam, thì mưa các hương thơm, tên là Duyệt ý. Ở cõi trời Tứ
Thiên Vương, thì mưa y báu trời, tên là Lọng che.
Ở Long cung, thì
mưa xuống xích chân châu, tên là Quang minh vọt lên. Ở cung A Tu La, thì mưa xuống
các binh gậy, tên là Hàng phục oán địch. Ở Bắc Uất Đơn Việt, thì mưa xuống đủ
thứ hoa, tên là Khai phu. Còn ba thiên hạ kia, cũng đều như thế. Tuy tuỳ các
nơi mưa xuống khác nhau, nhưng tâm của Long Vương bình đẳng, không có sự phân
biệt đó đây, chỉ vì căn lành của chúng sinh khác nhau, nên mưa xuống có sự khác
biệt.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác Vô Thượng Pháp Vương, cũng lại như thế. Muốn đem chánh pháp
giáo hoá chúng sinh. Trước hết giăng bày thân mây, che trùm pháp giới. Tuỳ theo
sự ưa thích của họ mà hiện thân khác nhau. Đó là: Hoặc vì chúng sinh hiện mây
sinh thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây hoá thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây lực
trì thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây sắc thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây tướng
hảo thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây phước đức thân. Hoặc vì chúng sinh hiện
mây trí huệ thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây các lực bất khả hoại thân. Hoặc
vì chúng sinh hiện mây vô uý thân. Hoặc vì chúng sinh hiện mây pháp giới thân.
Phật tử! Như
Lai dùng vô lượng thân mây như vậy, che khắp mười phương tất cả thế giới, tuỳ
theo sở thích của chúng sinh khác nhau, mà thị hiện đủ thứ ánh chớp quang minh.
Đó là: Hoặc vì
chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Vô sở bất chí. Hoặc vì chúng sinh
hiện ánh chớp quang minh, tên là Vô biên quang minh. Hoặc vì chúng sinh hiện
ánh chớp quang minh, tên là Nhập Phật bí mật pháp. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh
chớp quang minh, tên là Ảnh hiện quang minh. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp
quang minh, tên là Quang minh chiếu sáng. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp
quang minh, tên là Vào vô tận môn Đà La Ni. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp
quang minh, tên là Chánh niệm bất loạn. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang
minh, tên là Cứu kính bất hoại. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh,
tên là Thuận vào các cõi. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là
Mãn tất cả nguyện đều khiến hoan hỉ.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác, hiện vô lượng ánh chớp quang minh như vậy rồi. Lại tuỳ tâm
ưa thích của chúng sinh, mà phát ra vô lượng tiếng sấm tam muội.
Đó là: Tiếng sấm
tam muội Thiện giác trí. Tiếng sấm tam muội Sí nhiên ly cấu hải. Tiếng sấm tam
muội Tất cả pháp tự tại. Tiếng sấm tam muội Kim cang luân. Tiếng sấm tam muội
Tu Di sơn tràng. Tiếng sấm tam muội Hải ấn. Tiếng sấm tam muội Nhựt đăng. Tiếng
sấm tam muội Khắp khiến chúng sinh hoan hỉ. Tiếng sấm tam muội Vô tận tạng. Tiếng
sấm tam muội Bất hoại giải thoát lực.
Phật tử! Trong
thân mây của Như Lai, phát ra vô lượng tiếng sấm tam muội khác biệt như vậy rồi,
khi sắp mưa pháp vũ, thì trước hết hiện tướng điềm lành, để khai ngộ chúng
sinh.
Đó là: Từ tâm đại
từ bi không chướng ngại, hiện ra Như Lai đại trí phong luân, tên là Hay khiến tất
cả chúng sinh hoan hỉ vui mừng không thể nghĩ bàn.
Tướng đó hiện ra
rồi, thì tất cả Bồ Tát và các chúng sinh, thân và tâm đều được mát mẻ. Sau đó,
từ mây đại pháp thân, mây đại từ bi, mây lớn không thể nghĩ bàn của Như Lai,
mưa xuống pháp vũ rộng lớn không thể nghĩ bàn, khiến cho tất cả chúng sinh thân
tâm đều thanh tịnh.
Đó là: Vì Bồ Tát
ngồi Bồ đề tràng, mưa đại pháp vũ, tên là Pháp giới không khác biệt. Vì Bồ Tát
tối hậu thân, mưa đại pháp vũ, tên là Bồ Tát du hí Như Lai bí mật giáo. Vì Bồ
Tát nhất sinh sở hệ, mưa đại pháp vũ, tên là Thanh tịnh phổ quang minh. Vì Bồ
Tát quán đảnh, mưa đại pháp vũ, tên là Trang nghiêm đồ trang nghiêm của Như
Lai. Vì Bồ Tát đắc nhẫn, mưa đại pháp vũ, tên là Công đức bảo trí huệ hoa khai
phu, chẳng dứt hạnh đại bi của Bồ Tát.
Vì Bồ Tát trụ
hướng hạnh, mưa đại pháp vũ, tên là Vào môn hiện tiền biến hoá thâm sâu, mà
hành Bồ Tát hạnh không ngừng nghỉ, không nhàm mỏi.
Vì Bồ Tát sơ
phát tâm, mưa đại pháp vũ, tên là Sinh ra hạnh đại từ bi của Như Lai, cứu hộ
chúng sinh.
Vì chúng sinh cầu
Duyên Giác thừa, mưa đại pháp vũ, tên là Biết sâu pháp duyên khởi, xa lìa hai
bên, đắc được quả giải thoát bất hoại.
Vì chúng sinh cầu
Thanh Văn thừa, mưa đại pháp vũ, tên là Dùng kiếm đại trí huệ, chặt đứt tất cả
oán phiền não.
Vì chúng sinh
tích tập căn lành quyết định, chẳng quyết định, mưa đại pháp vũ, tên là Hay khiến
thành tựu đủ thứ pháp môn, sinh đại hoan hỉ.
Phật tử! Chư Phật
Như Lai tuỳ tâm chúng sinh, mưa pháp vũ rộng lớn như vậy, đầy khắp tất cả vô
biên thế giới.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác tâm bình đẳng, đối với pháp không xẻn tiếc. Chỉ vì căn tánh
chúng sinh khác nhau, nên mưa pháp vũ, thị hiện có sự khác biệt.
Đó là tướng âm
thanh thứ mười của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử!
Nên biết âm thanh Như Lai có mười thứ vô lượng. Những gì là mười?
Đó là: Như cõi
hư không vô lượng, vì đến tất cả mọi nơi. Như pháp giới vô lượng, vì không đâu
mà chẳng khắp. Như cõi chúng sinh vô lượng, vì khiến cho tất cả tâm hoan hỉ.
Như các nghiệp vô lượng, vì nói quả báo của nghiệp. Như phiền não vô lượng, vì đều
khiến trừ diệt. Như tiếng nói chúng sinh vô lượng, vì tuỳ sự hiểu mà khiến cho
được nghe. Như chúng sinh thích hiểu vô lượng, vì khắp quán sát cứu độ. Như ba
đời vô lượng, vì không có bờ mé. Như trí huệ vô lượng, vì phân biệt được tất cả.
Như cảnh giới Phật vô lượng, vì vào pháp giới của Phật.
Phật tử! Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác thành tựu A tăng kỳ vô lượng như vậy. Các đại Bồ Tát nên biết
như vậy.
Bấy giờ, đại Bồ
Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói kệ rằng:
Ba ngàn thế giới
lúc sắp hoại
Chúng sinh phước
lực nghe tiếng bảo:
Tứ thiền tịch
tĩnh chẳng có khổ
Khiến họ nghe rồi
đều lìa dục.
Thập Lực Thế Tôn
cũng như thế
Vang diệu âm
thanh khắp pháp giới
Vì nói các hạnh
khổ vô thường
Khiến họ thoát
khỏi biển sinh tử.
Ví như trong
hang động núi sâu
Tuỳ theo âm
thanh đều vang tiếng
Tuy hay theo đuổi
tiếng nói kia
Mà vang rốt ráo
không phân biệt.
Tiếng nói Thập Lực
cũng như vậy
Tuỳ căn thành thục
mà thị hiện
Khiến họ điều phục
sinh hoan hỉ
Chẳng nghĩ ta
nay hay diễn nói.
Như trời có trống
tên Năng giác
Thường trong hư
không chấn pháp âm
Dạy các Thiên tử
đừng phóng dật
Khiến họ nghe rồi
lìa chấp trước.
Trống pháp Thập Lực
cũng như vậy
Vang ra đủ thứ
diệu âm thanh
Giác ngộ tất cả
các quần sinh
Khiến họ đều chứng
quả bồ đề.
Tự Tại Thiên
Vương có nữ báu
Trong miệng khéo
tấu các âm nhạc
Một tiếng phát
ra trăm ngàn tiếng
Trong mỗi mỗi
tiếng lại trăm ngàn.
Âm thanh Thiện
Thệ cũng như vậy
Một tiếng vang
ra tất cả tiếng
Tuỳ theo căn
tánh có khác nhau
Đều khiến nghe
rồi dứt phiền não.
Ví như Phạm
Vương nói một tiếng
Hay khiến Phạm
chúng đều hoan hỉ
Chỉ Phạm chúng
nghe chẳng ra ngoài
Mỗi mỗi đều nói
chỉ mình nghe.
Thập Lực Phạm
Vương cũng như thế
Diễn nói một
tiếng khắp pháp giới
Chỉ trong chúng
hội chẳng ra xa
Vì kẻ không tin
chẳng thọ được.
Ví như các nước
cùng một tánh
Vị tám công đức
chẳng khác biệt
Do đất đồ đựng đều
khác nhau
Thế nên khiến nước
đủ thứ khác.
Tiếng Nhất Thiết
Trí cũng như vậy
Pháp tánh một vị
chẳng phân biệt
Tuỳ các chúng
sinh hạnh khác nhau
Nên khiến nghe
được đủ thứ khác.
Ví như Vô Nhiệt
Đại Long Vương
Mưa xuống thấm
khắp đất Diêm Phù
Hay khiến cây cỏ
đều sinh trưởng
Mà chẳng từ thân
và tâm ra.
Chư Phật diệu âm
cũng như vậy
Mưa khắp pháp giới
đều thấm nhuần
Hay khiến sinh
thiện diệt các ác
Chẳng từ trong
ngoài mà có được.
Ví như Ma Na Tư
Long Vương
Nổi mây bảy ngày
trước khi mưa
Đợi các chúng
sinh làm việc xong
Sau đó mưa xuống
làm lợi ích.
Thập Lực thuyết
pháp cũng như vậy
Trước hoá chúng
sinh khiến thành thục
Sau vì họ nói
pháp thâm sâu
Khiến họ nghe được
chẳng sợ hãi.
Đại Trang
Nghiêm Long Vương trong biển
Mưa xuống mười
thứ mưa trang nghiêm
Hoặc trăm hoặc
ngàn trăm ngàn thứ
Nước tuy một vị
trang nghiêm khác.
Rốt ráo biện tài
cũng như thế
Nói mười hai
mươi các pháp môn
Hoặc trăm hoặc
ngàn đến vô lượng
Chẳng sinh tâm
niệm có khác nhau.
Tối Thắng Long Vương Ta Kiệt La
Nổi mây che khắp bốn thiên hạ
Tất cả mọi nơi mưa đều khác
Mà tâm rồng đó chẳng hai niệm.
Chư Phật Pháp Vương cũng như thế
Thân mây đại bi khắp mười phương
Vì người tu hành mưa đều khác
Mà nơi tất cả chẳng phân biệt.
Phật tử ! Các đại Bồ Tát làm thế nào biết
được tâm của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ?
Phật tử ! Tâm ý thức của Như Lai đều bất
khả đắc, nhưng nhờ trí huệ vô lượng, nên biết được tâm Như Lai.
Ví như hư không, là chỗ nương tựa của tất
cả sự vật, mà hư không chẳng chỗ nương. Trí huệ Như Lai cũng lại như thế, là chỗ
nương tựa trí huệ của tất cả thế gian và trí huệ xuất thế gian, mà trí huệ Như
Lai chẳng chỗ nương.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ nhất của
Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như pháp giới, thường
sinh ra tất cả Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát giải thoát, mà pháp giới không tăng
giảm. Trí huệ Như Lai cũng lại như thế, luôn sinh ra đủ thứ trí huệ của tất cả
thế gian và xuất thế gian, mà trí huệ Như Lai không có tăng giảm.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ hai của Như
Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như biển cả, nước
biển chảy ngầm dưới lòng đất trong bốn thiên hạ, và tám mươi ức các châu nhỏ.
Ai đào đất cũng đều được nước, mà biển cả chẳng có sự phân biệt rằng: Nước của
tôi chảy ra.
Nước biển trí của Phật, cũng lại như thế,
chảy vào trong tất cả tâm chúng sinh. Nếu các chúng sinh quán sát cảnh giới, tu
tập pháp môn, sẽ đắc được trí huệ thanh tịnh sáng suốt, mà trí Như Lai bình đẳng
không hai, chẳng có phân biệt. Chỉ vì tâm hạnh của chúng sinh khác nhau, nên đắc
được trí huệ thảy đều khác nhau.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ ba của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như biển cả có bốn bảo
châu, đủ vô lượng đức, hay sinh ra tất cả châu báu trong biển. Nếu trong biển
không có bảo châu nầy, thì cho đến một châu báu cũng không có. Những gì là bốn
? Một tên là Tích tập bảo. Hai tên là Vô tận tạng. Ba tên là Viễn ly sí nhiên.
Bốn tên là Cụ túc trang nghiêm.
Phật tử ! Bốn bảo châu nầy, tất cả phàm
phu, các rồng thần, đều không thấy được. Tại sao ? Vì Ta Kiệt La Long Vương đem
bảo châu nầy, để trong chỗ đoan nghiêm vuông vứt, cất giấu chỗ bí mật ở trong
cung.
Phật tử ! Biển trí huệ của Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Có bốn báu đại trí, đầy đủ vô lượng phước
trí công đức. Do đó, hay sinh ra báu tất cả chúng sinh, Thanh Văn, Độc Giác, bậc
học, vô học, và các Bồ Tát trí huệ. Những gì là bốn ? Đó là : Báu đại trí huệ
thiện xảo phương tiện không nhiễm trước. Báu đại trí huệ khéo phân biệt pháp hữu
vi vô vi. Báu đại trí huệ phân biệt nói vô lượng pháp mà không hoại pháp tánh.
Báu đại trí huệ biết thời phi thời chưa từng lầm lỗi.
Nếu trong biển đại trí của các Như Lai
không có bốn thứ báu nầy, thì sẽ không một chúng sinh nào được vào đại thừa. Bốn
thứ báu trí nầy, chúng sinh phước mỏng không thể thấy được. Tại sao ? Vì bốn thứ
báu trí nầy, để nơi tạng thâm mật của Như Lai, bình đẳng chánh trực, đoan khiết
tốt đẹp, hay lợi ích khắp các chúng Bồ Tát, khiến cho các Bồ Tát đều đắc được
trí huệ quang minh.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ tư của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như trong biển, có bốn
báu lớn ánh sáng hừng hực, để ở dưới đáy biển, tánh cực nóng mãnh liệt. Thường
hút uống vô lượng nước trăm sông đổ vào biển, cho nên biển không có tăng giảm.
Những gì là bốn ? Một tên là Nhựt tạng. Hai tên là Ly nhuận. Ba tên là Hoả diệm
quang. Bốn tên là Tận vô dư.
Phật tử! Nếu trong biển không có bốn báu
nầy, thì từ bốn thiên hạ, cho đến cõi trời Hữu Đỉnh, hết thảy trong đó đều bị
ngập chìm.
Phật tử! Ánh sáng của báu lớn Nhựt Tạng
đó, chiếu đến nước biển, thì đều biến thành sữa. Ánh sáng báu lớn Ly Nhuận, chiếu
đến sữa đó, thì đều biến thành lạc. Ánh sáng báu lớn Hoả Diệm Quang, chiếu đến
lạc đó, thì đều biến thành tô. Ánh sáng báu lớn Vô Tận Tạng chiếu đến tô đó,
thì đều biến thành đề hồ. Như lửa thiêu đốt, đều cháy sạch không thừa sót.
Phật tử ! Biển đại trí huệ của Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Có bốn thứ đại trí huệ báu, đầy đủ vô lượng
oai đức quang minh. Quang minh trí huệ báu đó, chiếu đến các Bồ Tát, cho đến
khiến cho đắc được đại trí huệ của Như Lai.
Những gì là bốn ? Đó là : Đại trí huệ báu
diệt tất cả sóng tán thiện. Đại trí huệ báu trừ tất cả pháp ái. Đại trí huệ báu
huệ quang chiếu khắp. Đại trí huệ báu bình đẳng vô biên vô công dụng với Như
Lai.
Phật
tử ! Khi các Bồ Tát tu tập tất cả pháp trợ đạo, thì sinh khởi sóng vô lượng tán
thiện. Tất cả thế gian trời, người, A tu la, không thế phá hoại được.
Như Lai dùng đại trí huệ quang minh báu
diệt tất cả sóng tán thiện, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ tất cả sóng tán
thiện, giữ tâm một cảnh, trụ nơi tam muội.
Lại dùng đại trí huệ quang minh báu trừ tất
cả pháp ái, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự chấp trước vị tam muội, khởi
thần thông rộng lớn.
Lại dùng đại trí huệ quang minh báu huệ
quang chiếu khắp, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự khởi thần thông rộng lớn,
trụ đại minh công dụng hạnh.
Lại dùng đại trí huệ quang minh báu bình
đẳng vô biên vô công dụng với Như Lai, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự khởi
đại minh công dụng hạnh, cho đến đắc được bậc Như Lai bình đẳng, ngừng tất cả
công dụng, khiến cho không thừa sót.
Phật tử ! Nếu không có bốn đại trí quang
minh báu của Như Lai chiếu đến, thì sẽ không có một vị Bồ Tát nào đắc được bậc
Như Lai.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ năm của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Như từ mặt nước, lên đến
cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, trong đó hết thảy cõi nước đại thiên, nơi
chúng sinh cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, thảy đều nương hư không mà sinh khởi,
nương hư không mà trụ. Tại sao ? Vì hư không khắp cùng. Tuy hư không dung nạp
khắp ba cõi, mà không có phân biệt.
Phật tử ! Trí huệ Như Lai cũng lại như thế.
Hoặc trí Thanh Văn, hoặc trí Độc Giác, hoặc trí Bồ Tát, hoặc trí hữu vi hành, tất
cả đều nương trí Như Lai mà sinh khởi, nương trí Như Lai mà trụ. Tại sao ? Vì
Trí huệ Như Lai cùng khắp tất cả. Tuy lại dung nạp khắp vô lượng trí huệ, mà
không có phân biệt.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ sáu của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Như trên đỉnh núi Tuyết,
có cây dược vương, tên là Vô tận căn, rễ của cây thuốc đó, sinh ra từ mặt đất
kim cang, sâu xuống tận thuỷ luân tế mười sáu vạn tám ngàn do tuần. Khi rễ cây
dược vương đó sinh ra, thì khiến cho tất cả rễ cây Diêm Phù Đề sinh ra. Hoặc
khi sinh thân, thì khiến cho tất cả thân cây cõi Diêm Phù Đề sinh ra. Cành lá
hoa quả, thảy đều như vậy. Cây dược vương đó, rễ hay sinh thân, thân hay sinh rễ.
Rễ không cùng tận, nên tên gọi là Vô tận căn.
Phật tử ! Cây dược vương đó, ở tất cả mọi
nơi, đều khiến cho sinh trưởng. Chỉ có hai nơi không thể sinh trưởng lợi ích,
đó là hố sâu địa ngục, và trong thuỷ luân. Nhưng cũng vẫn không nhàm bỏ hai nơi
đó.
Phật tử ! Cây đại dược vương trí huệ Như
Lai cũng lại như thế. Nhờ thành tựu thiện pháp nhất thiết trí đã phát ra trong
quá khứ, che khắp tất cả các cõi chúng sinh, trừ diệt tất cả các khổ đường ác,
bi nguyện rộng lớn mà làm rễ. Sinh ra trong giống tánh trí huệ chân thật của tất
cả Như Lai, thiện xảo phương tiện kiên cố bất động dùng làm thân.
Trí khắp pháp giới các Ba la mật dùng làm
cành. Thiền định giải thoát các đại tam muội dùng làm lá. Tổng trì biện tài
pháp bồ đề phần dùng làm hoa. Giải thoát rốt ráo không biến đổi của chư Phật
dùng làm quả.
Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ của
Như Lai, sao lại được tên là Vô tận căn ? Vì rốt ráo không ngừng nghỉ, vì không
dứt Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh tức tánh Như Lai, tánh Như Lai tức Bồ Tát hạnh, bởi
vậy được tên là Vô tận căn.
Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ của
Như Lai, khi sinh rễ thì khiến cho tất cả Bồ Tát sinh rễ đại từ bi, không xả bỏ
chúng sinh.
Khi sinh thân, thì khiến cho tất cả Bồ
Tát tăng trưởng thân thâm tâm tinh tấn kiên cố.
Khi sinh cành, thì khiến cho tất cả Bồ
Tát tăng trưởng cành tất cả các Ba la mật.
Khi sinh lá, thì khiến cho tất cả Bồ Tát
sinh trưởng lá tịnh giới khổ hạnh công đức ít dục biết đủ.
Khi sinh hoa, thì khiến cho tất cả tất cả
Bồ Tát đủ các hoa căn lành tướng tốt trang nghiêm.
Khi sinh quả, thì khiến cho tất cả Bồ Tát
đắc được vô sinh nhẫn, cho đến quả tất cả chư Phật quán đỉnh nhẫn.
Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ Như
Lai, chỉ ở hai nơi không thể sinh trưởng làm lợi ích. Đó là nhị thừa đoạ vào hố
sâu vô vi rộng lớn, và chúng sinh hoại căn lành chẳng phải pháp khí, chìm trong
nước tham ái đại tà kiến. Nhưng cũng không nhàm bỏ hai nơi đó.
Phật tử ! Trí huệ Như Lai không có tăng
giảm, vì dùng căn lành an trụ chúng sinh, không có ngừng nghỉ.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ bảy của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như khi ba ngàn đại
thiên thế giới khởi kiếp lửa, thì thiêu cháy tất cả cỏ cây lùm rừng, cho đến
núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, thảy đều thiêu sạch, không có nơi nào còn sót lại.
Phật tử ! Giả sử có người, tay cầm cỏ khô
ném vào trong lửa đó. Ý các vị thế nào ? Có cháy chăng ?
Đáp rằng : Không thể nào không cháy.
Phật tử ! Cỏ khô đó ném vào trong lửa, có
thể không cháy. Trí huệ Như Lai, phân biệt biết được ba đời tất cả chúng sinh,
tất cả cõi nước, tất cả kiếp số, tất cả các pháp, chẳng có gì mà không biết. Nếu
nói rằng không biết, thì không có lý nào. Tại sao ? Vì trí huệ Như Lai bình đẳng,
đều thấu đạt.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ tám của Như
Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Ví như khi nạn gió huỷ
hoại thế giới, có gió lớn khởi lên, tên là Tán hoại, có thể huỷ hoại ba ngàn đại
thiên thế giới, núi Thiết Vi v.v… đều nát thành bụi.
Lại có gió lớn, tên là Năng chướng, bao bọc
chung quanh ba ngàn đại thiên thế giới, ngăn che gió Tán hoại, không để cho đến
được thế giới phương khác.
Phật tử ! Nếu không có gió lớn Năng chướng
đó, thì mười phương thế giới sẽ huỷ hoại hết. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng
lại như thế. Có gió đại trí, tên là Năng diệt, hay diệt phiền não tập khí của tất
cả các đại Bồ Tát. Có gió đại trí, tên là Khéo giữ, khéo giữ Bồ Tát căn tánh
chưa thành thục, không để cho gió đại trí Năng diệt, dứt tất cả phiền não tập
khí.
Phật tử ! Nếu không có gió đại trí Khéo
Giữ của Như Lai, thì vô lượng Bồ Tát đều rơi vào bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Nhờ trí đó, nên khiến cho các Bồ Tát vượt qua bậc nhị thừa, an trụ bậc rốt ráo
của Như Lai.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ chín của
Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử ! Trí huệ Như Lai chẳng
có nơi nào mà không đến. Tại sao ? Vì không có một chúng sinh nào mà chẳng đầy
đủ trí huệ của Như Lai. Nhưng vì vọng tưởng điên đảo chấp trước, nên không chứng
đắc. Nếu lìa vọng tưởng, thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí, sẽ hiện
tiền.
Phật tử ! Ví như có quyển kinh lớn, lượng
bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Biên chép hết tất cả những sự việc trong ba
ngàn đại thiên thế giới.
Đó là : Biên chép những sự việc trong núi
Đại Thiết Vi, lượng bằng núi Đại Thiết Vi. Biên chép những sự việc trong đại địa,
lượng bằng đại địa. Biên chép những sự việc trong trung thiên thế giới, lượng bằng
trung thiên thế giới. Biên chép sự việc trong tiểu thiên thế giới, lượng bằng
tiểu thiên thế giới.
Như vậy, hoặc bốn thiên hạ, hoặc biển cả,
hoặc núi Tu Di, hoặc cung điện dưới đất, trên trời, hoặc cung điện trời ở trên
không của dục giới, hoặc cung điện sắc giới, hoặc cung điện vô sắc giới, thảy đều
biên chép hết, lượng đều bằng như vậy. Quyển kinh lớn đó, tuy lượng bằng đại
thiên thế giới, mà hoàn toàn ở trong một hạt bụi. Như một hạt bụi, tất cả hạt bụi,
cũng đều như vậy.
Bấy giờ có một người, trí huệ thấu đạt, đầy
đủ thành tựu thiên nhãn thanh tịnh. Thấy quyển kinh đó ở trong hạt bụi, đối với
các chúng sinh lợi ích không ít. Bèn nghĩ rằng : Ta sẽ dùng sức tinh tấn, phá hạt
bụi đó, lấy quyển kinh ra, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nghĩ như vậy rồi,
bèn khởi phương tiện, phá hạt bụi đó, lấy quyển kinh ra, khiến cho các chúng
sinh khắp được lợi ích. Như một hạt bụi, tất cả hạt bụi, nên biết cũng đều như
vậy.
Phật tử ! Trí huệ Như Lai cũng lại như thế,
vô lượng, vô ngại, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Đầy đủ ở trong thân
chúng sinh. Nhưng các phàm phu ngu si vọng tưởng chấp trước, chẳng biết, chẳng
hay, chẳng được lợi ích.
Bấy giờ, Như Lai dùng mắt trí huệ thanh tịnh
không chướng ngại, quán khắp pháp giới tất cả chúng sinh mà nói rằng : Lành
thay ! Lành thay ! Các chúng sinh nầy, sao đầy đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê
hoặc, chẳng biết, chẳng thấy ? Ta sẽ dạy họ tu Thánh đạo, khiến cho họ vĩnh viễn
lìa khỏi vọng tưởng chấp trước. Tự ở trong thân mình thấy được trí huệ rộng lớn
của Như Lai, bằng với Phật không khác. Liền dạy chúng sinh đó tu tập Thánh đạo,
khiến cho lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng rồi, sẽ chứng được vô lượng trí huệ của
Như Lai, lợi ích an lạc tất cả chúng sinh.
Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ mười của
Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên dùng tướng rộng
lớn vô lượng, vô ngại, không thể nghĩ bàn như vậy, để biết tâm của Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật
rõ lại nghĩa ở trên, mà nói kệ rằng:
Muốn biết tâm chư Phật
Hãy quán trí huệ Phật
Trí Phật không chỗ nương
Như không chẳng chỗ nương.
Chúng sinh đủ thứ vui
Và các phương tiện trí
Đều nương trí huệ Phật
Trí Phật chẳng chỗ nương.
Thanh Văn và Độc Giác
Và chư Phật giải thoát
Đều nương vào pháp giới
Pháp giới chẳng tăng giảm.
Trí Phật cũng như vậy
Sinh ra nhất thiết trí
Không tăng cũng không giảm
Không sinh cũng không diệt.
Như nước ngầm dưới đất
Ai đào đều được nước
Không nghĩ cũng vô tận
Công lực khắp mười phương.
Trí Phật cũng như vậy
Khắp trong tâm chúng sinh
Nếu ai siêng tu hành
Sớm được trí quang minh.
Như rồng có bốn châu
Sinh ra vô lượng báu
Để ở chỗ thâm mật
Người phàm không thấy được.
Bốn trí Phật cũng vậy
Sinh ra nhất thiết trí
Người khác không thấy được
Chỉ trừ đại Bồ Tát.
Như biển có bốn báu
Hay uống tất cả nước
Khiến biển chẳng bị tràn
Lại cũng không tăng giảm.
Trí Như Lai cũng vậy
Ngừng sóng trừ pháp ái
Rộng lớn không bờ mé
Hay sinh Phật Bồ Tát.
Phương dưới đến Hữu Đỉnh
Sắc giới vô sắc giới
Tất cả nương hư không
Hư không chẳng phân biệt.
Thanh Văn và Độc Giác
Chúng Bồ Tát trí huệ
Đều nương nơi trí Phật
Trí Phật chẳng phân biệt.
Núi Tuyết có dược vương
Tên là Vô tận căn
Hay sinh tất cả cây
Rễ thân lá hoa quả.
Trí Phật cũng như vậy
Sinh trong giống Như Lai
Đắc được bồ đề rồi
Lại sinh Bồ Tát hạnh.
Như người cầm cỏ khô
Ném vào trong kiếp lửa
Kim cang còn bị cháy
Cỏ khô tất phải cháy.
Ba đời kiếp và cõi
Cùng chúng sinh trong đó
Cỏ khô cho không cháy
Trí Phật biết tất cả.
Có gió tên Tán hoại
Hay hoại cõi đại thiên
Nếu không gió khác ngăn
Huỷ hoại vô lượng cõi.
Gió đại trí cũng vậy
Diệt hoặc các Bồ Tát
Riêng có gió Thiện xảo
Khiến trụ bậc Như Lai.
Như có quyển kinh lớn
Lượng bằng ba ngàn cõi
Ở trong một hạt bụi
Tất cả bụi cũng vậy.
Có một người sáng suốt
Mắt tịnh đều thấy rõ
Phá bụi đem kinh ra
Lợi ích khắp chúng sinh.
Trí Phật cũng như vậy
Khắp trong tâm chúng sinh
Bị vọng tưởng ràng buộc
Chẳng giác cũng chẳng hay.
Chư Phật đại từ bi
Khiến họ trừ vọng tưởng
Như vậy bèn xuất hiện
Lợi ích các Bồ Tát.
Phật tử[2]! Đại Bồ Tát làm thế nào biết
cảnh giới của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?
Phật tử! Đại Bồ Tát dùng trí huệ không
chướng ngại, biết cảnh giới Như Lai. Biết cảnh giới tất cả ba đời, cảnh giới tất
cả cõi, cảnh giới tất cả pháp, cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới chân như
không khác biệt, cảnh giới pháp giới không chướng ngại, cảnh giới thật tế không
bờ mé, cảnh giới hư không chẳng phân lượng, cảnh giới không có cảnh giới, đó là
cảnh giới Như Lai.
Phật tử! Như cảnh giới của tất cả thế
gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới của tất cả ba đời
vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Cho đến cảnh giới như không có cảnh
giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Cảnh giới như không có cảnh giới
tất cả mọi nơi đều không có, cảnh giới Như Lai cũng như vậy, tất cả mọi nơi đều
không có.
Phật tử! Đại Bồ Tát nên biết, cảnh giới của
tâm là cảnh giới Như Lai. Như cảnh giới của tâm vô lượng vô biên, không ràng buộc,
không giải thoát, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên, không ràng buộc,
không giải thoát. Tại sao? Vì nhờ suy gẫm phân biệt như vậy như vậy, hiển hiện
vô lượng như vậy như vậy.
Phật tử! Như Đại Long Vương tuỳ tâm mưa
xuống. Mưa đó chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra. Cảnh giới Như Lai cũng lại
như vậy. Tuỳ suy gẫm phân biệt như vậy, liền có hiển hiện vô lượng như vậy. Ở
trong mười phương đều không chỗ đến.
Phật tử! Như nước biển cả, đều từ sức tâm
Long Vương sinh khởi. Biển nhất thiết trí của chư Phật Như Lai cũng lại như thế,
đều từ nguyện lớn thuở xưa của Như Lai sinh khởi.
Phật tử! Biển nhất thiết trí, vô lượng vô
biên, không thể nghĩ bàn, không thể nói được. Hôm nay tôi sẽ lược nói ví dụ,
các vị nên lắng nghe.
Phật tử! Cõi Diêm Phù Đề có hai ngàn năm
trăm con sông chảy vào biển. Tây Câu Gia Ni có năm ngàn con sông chảy vào biển.
Đông Phất Bà Đề có bảy ngàn năm trăm con sông chảy vào biển. Bắc Uất Đơn Việt
có một vạn con sông chảy vào biển.
Phật tử! Bốn thiên hạ nầy có hai vạn năm
ngàn con sông như vậy, chảy vào biển liên tục không ngừng. Ý các vị thế nào? Nước
đó có nhiều chăng?
Đáp rằng: Rất nhiều.
Phật tử! Lại có mười Long Vương Quang
Minh, mưa xuống trong biển, nước đó nhiều gấp bội hơn trước. Trăm Long Vương
Quang Minh, mưa xuống trong biển, nước lại nhiều gấp bội hơn trước. Long Vương
Đại Trang Nghiêm, Long Vương Ma Na Tư, Long Vương Lôi Chấn, Long Vương Nan Đà Bạt
Nan Đà, Long Vương Vô Lượng Quang Minh, Long Vương Liên Chú Bất Đoạn, Long
Vương Đại Thắng, Long Vương Đại Phấn Tấn, có tám mươi ức các đại Long Vương như
vậy, mỗi vị đều mưa xuống trong biển, thảy đều lần lượt nhiều gấp bội hơn trước.
Thái Tử của Long Vương Ta Kiệt La, tên là Diêm Phù Đàn, mưa xuống trong biển,
nước lại nhiều gấp bội hơn trước.
Phật tử! Nước trong cung điện của mười
Long Vương Quang Minh, chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Nước trong
cung điện của trăm Long Vương Quang Minh chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn
trước. Long Vương Đại Trang Nghiêm, Long Vương Ma Na Tư, Long Vương Lôi Chấn,
Long Vương Nan Đà Bạt Nan Đà, Long Vương Vô Lượng Quang Minh, Long Vương Liên
Chú Bất Đoạn, Long Vương Đại Thắng, Long Vương Đại Phấn Tấn.
Tám mươi ức các đại Long Vương như vậy,
cung điện mỗi vị đều khác nhau, trong cung điện đều có nước, đều chảy vào biển,
đều lần lượt nhiều gấp bội hơn trước. Nước trong cung điện của Diêm Phù Đàn,
thái tử của Long Vương Ta Kiệt La chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước.
Phật tử! Long Vương Ta Kiệt La mưa đổ xuống
biển, nước lại nhiều gấp bội hơn trước. Nước trong cung điện của Long Vương Ta
Kiệt La chảy đổ ra biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Nước đó chảy ra, màu sắc
lưu ly xanh biếc, chảy ra có thời, cho nên hải triều không thất thời.
Phật tử ! Biển cả như vậy, nước biển vô
lượng, các báu vô lượng, chúng sinh vô lượng. Chỗ nương của đại địa cũng lại vô
lượng.
Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Biển cả đó
vô lượng chăng ?
Đáp rằng : Thật là vô lượng, không thể ví
dụ được.
Phật tử ! Biển cả đó vô lượng, đối với biển
trí của Như Lai, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến chẳng bằng một
phần Ưu ba ni sa đà. Chỉ tuỳ tâm chúng sinh mà ví dụ, nhưng cảnh giới của Phật
chẳng phải ví dụ đến được.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết biển trí
Như Lai vô lượng, vì từ lúc ban đầu phát tâm, tu tất cả Bồ Tát hạnh không ngừng.
Nên biết báu tụ vô lượng, vì tất cả pháp bồ đề phần giống Tam Bảo không ngừng.
Nên biết chỗ trụ của chúng sinh vô lượng, vì chỗ thọ dụng của tất cả bậc học,
vô học, Thanh Văn, Độc Giác. Nên biết trụ địa vô lượng, vì là chỗ ở từ bậc Hoan
Hỉ, cho đến bậc cứu kính không chướng ngại.
Phật tử ! Đại Bồ Tát vào vô lượng trí huệ,
vì lợi ích tất cả chúng sinh. Nơi cảnh giới Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nên biết
như vậy.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại
nghĩa trên, mà nói kệ rằng:
Như cảnh giới tâm vô biên lượng
Cảnh giới chư Phật cũng như vậy
Như cảnh giới tâm từ ý sinh
Cảnh Phật như vậy nên quán sát.
Như rồng chẳng lìa nơi bổn xứ
Dùng oai lực tâm đổ mưa lớn
Nước mưa tuy không chỗ đến đi
Tuỳ tâm rồng nên thấm nhuần khắp.
Thập Lực Mâu Ni cũng như vậy
Không từ đâu đến không chỗ đi
Nếu ai tâm tịnh liền hiện thân
Lượng đồng pháp giới vào lỗ lông.
Như biển châu báu nhiều vô lượng
Chúng sinh đại địa cũng như vậy
Tánh nước một vị đồng không khác
Kẻ sinh trong đó đều được lợi.
Biển trí Như Lai cũng như vậy
Tất cả hết thảy đều vô lượng
Hữu học vô học bậc trụ địa
Đều ở trong đó được lợi ích.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên làm thế nào biết
được hạnh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ?
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết hạnh vô ngại
là hạnh của Như Lai. Nên biết hạnh chân như là hạnh của Như Lai.
Phật tử ! Như chân như thuở trước chẳng
sinh, thuở sau chẳng động, hiện tại chẳng khởi. Hạnh Như Lai cũng như vậy, chẳng
sinh, chẳng động, chẳng khởi.
Phật tử ! Như pháp giới chẳng lượng, chẳng
vô lượng, vì vô hình. Hạnh Như Lai cũng như vậy, chẳng lượng, chẳng vô lượng,
vì vô hình.
Phật
tử ! Ví như chim bay trong hư không, trải quả trăm năm, nơi đã bay qua, nơi
chưa bay qua, đều không thể lường. Tại sao? Vì cõi hư không chẳng có bờ mé. Hạnh
Như Lai cũng như vậy. Giả sử có người, trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp,
phân biệt diễn nói, đã nói, chưa nói, đều không thể lường. Tại sao? Vì hạnh Như
Lai không có bờ mé.
Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trụ
hạnh vô ngại, chẳng có chỗ trụ, mà hay khắp vì tất cả chúng sinh, thị hiện sự
tu hành. Khiến cho họ thấy rồi, vượt qua tất cả các đạo chướng ngại.
Phật tử! Ví như chim chúa cánh vàng, bay
trong hư không, đảo liệng chẳng đi. Dùng mắt thanh tịnh để quán sát các Long
cung ở trong biển. Phấn tấn sức dũng mãnh, dùng hai cánh, quạt nước biển rẽ làm
hai, biết rồng nam, rồng nữ sắp chết, bắt lấy ăn.
Chim chúa cánh vàng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, cũng lại như vậy. Trụ hạnh vô ngại, dùng mắt Phật thanh tịnh, quán sát
pháp giới tất cả chúng sinh trong các cung điện. Nếu người đã từng trồng căn
lành đã thành thục, thì Như Lai dùng thập lực phấn tấn dũng mãnh, dùng hai cánh
chỉ quán, quạt nước biển tham ái ra làm hai, bắt lấy họ để ở trong Phật pháp,
khiến cho họ đoạn trừ tất cả vọng tưởng hí luận, an trụ nơi hạnh vô ngại không
phân biệt của Như Lai.
Phật tử ! Ví như mặt trời, mặt trăng, một
mình không bạn bè, đi khắp hư không, lợi ích chúng sinh, chẳng nghĩ như vầy:
Tôi từ đâu đến, và đi về đâu!
Chư Phật Như Lai cũng lại như thế, tánh vốn
tịch diệt, không có phân biệt. Thị hiện du hành tất cả pháp giới. Vì muốn lợi
ích các chúng sinh, mà làm các Phật sự, không có ngừng nghỉ. Chẳng sinh hí luận
phân biệt như vầy : Ta từ đó đến, và đi về kia.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên dùng vô lượng
phương tiện, vô lượng tánh tướng như vậy, để thấy biết hạnh của Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác tu hành.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại
nghĩa trên, mà nói kệ rằng :
Ví như chân như chẳng sinh diệt
Không có phương sở chẳng thấy được
Bậc Đại Lợi Ích tu như vậy
Vượt qua ba đời không thể lường.
Pháp giới chẳng giới chẳng chẳng giới
Chẳng phải có lượng chẳng vô lượng
Bậc Đại Công Đức tu cũng thế
Chẳng lượng vô lượng vì không thân.
Ví như chim bay ức ngàn năm
Trước sau hư không đồng không khác
Các kiếp diễn nói hạnh Như Lai
Đã nói chưa nói không thể lường.
Đại bàng trên không quán sát biển
Quạt nước làm hai bắt lấy rồng
Thập Lực hay cứu người căn lành
Khiến thoát biển cõi trừ các hoặc.
Ví như trời trăng du hư không
Chiếu
đến tất cả chẳng phân biệt
Thế Tôn đi khắp nơi pháp giới
Giáo hoá chúng sinh không động niệm.
Phật tử ! Các đại Bồ Tát nên làm thế nào,
biết được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Chánh Giác ?
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết Như Lai
thành Đẳng Chánh Giác, nơi tất cả nghĩa, không chỗ quán sát. Nơi pháp bình đẳng,
không chỗ nghi hoặc, không hai, không tướng, không hành vi, không ngừng, không
lượng, không bờ, xa lìa hai bên. Trụ nơi trung đạo, vượt qua tất cả văn tự lời
nói.
Biết
tâm niệm hành vi của tất cả chúng sinh, căn tánh ưa thích, phiền não nhiễm tập.
Ở trong một niệm, đều biết tất cả các pháp ba đời.
Phật tử ! Ví như biển cả, hay ấn hiện sắc
thân hình tượng của tất cả chúng sinh khắp trong bốn thiên hạ, cho nên đều nói
rằng là biển cả. Chư Phật bồ đề cũng lại như thế, hiện khắp tâm niệm, căn tánh,
ưa thích, của tất cả chúng sinh, mà không chỗ hiện, cho nên gọi là chư Phật bồ
đề.
Phật tử ! Chư Phật bồ đề : Tất cả văn tự
không thể tuyên nói, tất cả âm thanh không thể đến được, tất cả lời lẽ không thể
nói được, chỉ tuỳ sở ứng, phương tiện khai thị.
Phật tử ! Khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
thành Chánh Giác, thì đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sinh. Đắc được thân
lượng đồng tất cả pháp. Đắc được thân lượng đồng tất cả cõi. Đắc được thân lượng
đồng tất cả ba đời. Đắc được thân lượng đồng tất cả Phật. Đắc được thân lượng đồng
tất cả lời lẽ. Đắc được thân lượng đồng chân như. Đắc được thân lượng đồng pháp
giới. Đắc được thân lượng đồng cõi hư không. Đắc được thân lượng đồng cõi vô ngại.
Đắc được thân lượng đồng tất cả nguyện. Đắc được thân lượng đồng tất cả hạnh. Đắc
được thân lượng đồng cõi tịch diệt Niết Bàn.
Phật tử ! Như thân đắc được, lời lẽ và
tâm, cũng lại như thế. Đắc được vô lượng vô số tam luân thanh tịnh như vậy.
Phật tử ! Khi Như Lai thành Chánh Giác,
trong thân Ngài thấy khắp tất cả chúng sinh thành Chánh Giác, cho đến khắp hiện
tất cả chúng sinh vào Niết Bàn.
Đều đồng một tánh, đó là vô tánh. Không tất
cả tánh, đó là tánh vô tướng, tánh vô tận, tánh không sanh, tánh không diệt,
tánh không ta, tánh chẳng phải ta, tánh không chúng sinh, tánh chẳng phải không
chúng sinh, tánh không bồ đề, tánh không pháp giới, tánh chẳng hư không, tánh
cũng lại không có thành Chánh Giác.
Vì biết tất cả pháp đều không tánh. Đắc
được nhất thiết trí, đại bi tương tục, cứu độ chúng sinh.
Phật tử ! Ví như hư không, tất cả thế giới,
hoặc thành, hoặc hoại, thường không tăng giảm. Tại sao ? Vì hư không chẳng
sinh. Chư Phật bồ đề cũng lại như thế, hoặc thành Chánh Giác, chẳng thành Chánh
Giác, cũng không tăng giảm. Tại sao ? Vì bồ đề không tướng, chẳng không tướng,
chẳng một, chẳng các thứ.
Phật tử ! Giả sử có người, có thể hoá ra
tâm nhiều như số cát sông Hằng. Mỗi mỗi tâm lại hoá làm Phật nhiều như số cát
sông Hằng. Đều không sắc, không hình, không tướng. Như vậy hết số kiếp nhiều
như số cát sông Hằng, không có ngừng nghỉ.
Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Người đó hoá
tâm, hoá làm Như Lai, có tất cả là bao nhiêu ?
Bồ Tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức nói :
Như chỗ tôi hiểu nghĩa của Ngài nói, hoá và không hoá, đồng nhau chẳng khác,
sao lại hỏi là có bao nhiêu ?
Bồ Tát Phổ Hiền nói : Lành thay ! Lành
thay ! Phật tử ! Như lời Ngài nói, giả sử tất cả chúng sinh ở trong một niệm, đều
thành Chánh Giác, và chẳng thành Chánh Giác, đồng nhau không khác. Tại sao ? Vì
bồ đề vô tướng. Nếu không có tướng, thì sẽ không tăng, không giảm.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết như vậy,
thành Đẳng Chánh Giác, đồng với bồ đề, một tướng vô tướng.
Khi Như Lai thành Chánh Giác, dùng một tướng
phương tiện, vào tam muội Thiện giác trí. Vào rồi, nơi một thân rộng lớn thành
Chánh Giác, hiện thân đồng số tất cả chúng sinh, trụ ở trong thân. Như một thân
rộng lớn thành Chánh Giác, tất cả thân rộng lớn thành Chánh Giác, cũng đều như
vậy.
Phật tử ! Như Lai có vô lượng môn thành
Chánh Giác như vậy. Bởi vậy, nên biết Như Lai hiện thân chẳng có số lượng. Bởi
vì vô lượng, nên nói thân Như Lai là cõi vô lượng, đồng với cõi chúng sinh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết, trong một
lỗ chân lông thân Như Lai, có tất cả số chúng sinh đồng với thân chư Phật. Tại
sao ? Vì thân Như Lai thành Chánh Giác, rốt ráo không sinh diệt.
Như một lỗ chân lông khắp pháp giới, tất
cả lỗ chân lông cũng đều như vậy. Nên biết không có chút hư không nào mà chẳng
có thân Phật. Tại sao ? Vì Như Lai thành Chánh Giác, chẳng nơi nào mà không đến.
Tuỳ sở năng của Ngài, tuỳ thế lực của Ngài, ngồi trên toà sư tử dưới cội bồ đề
đạo tràng, dùng đủ thứ thân, thành Đẳng Chánh Giác.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết, tâm mình
niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Tại sao ? Vì chư Phật Như Lai chẳng
lìa tâm nầy mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sinh, cũng
lại như thế, đều có Như Lai thành Đẳng Chánh Giác.
Khắp cùng rộng lớn, chẳng có chỗ nào mà
không có, chẳng lìa, chẳng dứt, không có ngừng nghỉ. Vào pháp môn phương tiện
không thể nghĩ bàn.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết Như Lai
thành Chánh Giác như vậy.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại
nghĩa nầy, mà nói kệ rằng:
Chánh Giác biết rõ tất cả pháp
Không hai lìa hai đều bình đẳng
Tự tánh thanh tịnh như hư không
Ta với chẳng ta không phân biệt.
Như biển ấn hiện thân chúng sinh
Nhờ đó nói nó là biển cả
Bồ đề khắp ấn các tâm hạnh
Bởi vậy nên nói là Chánh Giác.
Ví như thế giới có thành hoại
Mà trong hư không chẳng tăng giảm
Tất cả chư Phật
hiện thế gian
Bồ đề một tướng luôn vô tướng.
Như người hoá
tâm hoá làm Phật
Hoá và chẳng hoá
tánh không khác
Tất cả chúng
sinh thành bồ đề
Thành và chẳng
thành không tăng giảm.
Phật có tam muội
tên Thiện giác
Dưới cội bồ đề
vào định nầy
Phóng vô lượng
quang đồng chúng sinh
Khai ngộ quần
sinh như sen nở.
Như kiếp ba đời
cõi chúng sinh
Hết thảy tâm niệm
và ưa thích
Phật hiện thân đồng
số như vậy
Cho nên chánh
giác tên vô lượng.
Phật tử! Đại Bồ
Tát nên làm thế nào để biết được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe
pháp?
Phật tử! Đại Bồ
Tát nên biết như vầy: Như Lai dùng sức tâm tự tại, không khởi, không chuyển, mà
chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp luôn không khởi. Dùng ba thứ chuyển, dứt
điều nên dứt mà chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp lìa biên kiến. Lìa dục
tế, chẳng phải dục tế, mà chuyển bánh xe pháp, vì vào tất cả pháp hư không tế.
Không có lời nói mà chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp không thể nói. Rốt
ráo tịch diệt mà chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp tánh Niết Bàn.
Dùng tất cả văn
tự, tất cả lời lẽ mà chuyển bánh xe pháp, vì âm thanh Như Lai không chỗ nào mà
chẳng đến. Biết tiếng như vang, mà chuyển bánh xe pháp, vì thấu rõ thật tánh của
các pháp. Ở trong một tiếng, vang ra tất cả tiếng, mà chuyển bánh xe pháp, vì rốt
ráo không có chủ. Không sót, không hết, mà chuyển bánh xe pháp, vì không chấp
trước trong ngoài.
Phật tử ! Ví như
tất cả văn tự lời lẽ, hết kiếp thuở vị lai, nói không hết được. Phật chuyển
bánh xe pháp, cũng lại như thế. Tất cả văn tự an lập khai thị, không có ngừng
nghỉ, không có cùng tận.
Phật tử ! Như
Lai chuyển bánh xe pháp, đều vào tất cả lời lẽ văn tự, mà không chỗ trụ. Ví như
viết chữ, vào khắp tất cả sự việc, tất cả lời lẽ, tất cả toán số, tất cả nơi thế
gian, xuất thế gian, mà không chỗ trụ.
Âm thanh Như Lai
cũng lại như thế, vào khắp trong tất cả mọi nơi, tất cả chúng sinh, tất cả
pháp, tất cả nghiệp, tất cả báo, mà không chỗ trụ. Đủ thứ lời lẽ của tất cả
chúng sinh, đều không lìa khỏi bánh xe pháp Như Lai. Tại sao ? Vì lời lẽ thật
tướng tức là bánh xe pháp.
Phật tử ! Đại Bồ
Tát đối với Như Lai chuyển bánh xe pháp, nên biết như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Đại Bồ Tát muốn biết Như Lai chuyển bánh xe pháp, thì nên biết nơi sinh ra
bánh xe pháp của Như Lai. Thế nào là nơi sinh ra bánh xe pháp của Như Lai ?
Phật tử ! Như
Lai tuỳ tâm hạnh ưa thích vô lượng sự khác biệt của tất cả chúng sinh, mà phát
ra bao nhiêu âm thanh để chuyển bánh xe pháp.
Phật tử ! Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tam muội tên là Rốt ráo vô ngại vô uý. Vào tam muội
nầy rồi, thì thành Chánh Giác, mỗi thân, mỗi miệng, đều phát ra âm thanh bằng số
tất cả chúng sinh. Trong mỗi âm thanh, đều đầy đủ các âm. Mỗi mỗi âm thanh đều
khác biệt, mà chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm
hoan hỉ. Người biết được chuyển bánh xe pháp như vậy, thì nên biết người đó tuỳ
thuận tất cả Phật pháp. Không biết như vậy, thì chẳng phải tuỳ thuận.
Phật tử ! Các đại
Bồ Tát nên biết Phật chuyển bánh xe pháp như vậy, vì vào khắp vô lượng cõi
chúng sinh.
Bấy giờ, đại Bồ
Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói kệ rằng:
Pháp luân Như
Lai không chỗ chuyển
Ba đời không khởi
cũng không đắc
Ví như văn tự
không hết được
Pháp luân Thập Lực
cũng như vậy.
Như chữ vào khắp
không chỗ đến
Pháp luân chánh
giác cũng như thế
Vào các lời nói
không chỗ vào
Hay khiến chúng
sinh đều hoan hỉ.
Phật có
tam muội tên Rốt ráo
Vào định đó rồi
mới nói pháp
Tất cả chúng
sinh vô biên lượng
Khắp vang âm
thanh khiến ngộ hiểu.
Trong mỗi mỗi âm
lại diễn nói
Vô lượng âm
thanh đều khác biệt
Nơi đời tự tại
chẳng phân biệt
Tuỳ họ ưa thích
khắp khiến nghe.
Văn tự chẳng từ
trong ngoài ra
Cũng chẳng thất
hoại không tích tập
Mà vì chúng
sinh chuyển pháp luân
Tự tại như vậy rất
kỳ đặc.
Phật tử ! Đại Bồ
Tát nên làm thế nào biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vào Bát Niết Bàn ?
Phật tử ! Đại Bồ
Tát muốn biết Như Lai vào đại Niết Bàn, thì phải biết rõ nguồn gốc của tự tánh.
Như chân như Niết
Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng
như vậy. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như hư không Niết
Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như pháp tánh Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn
cũng như vậy. Như lìa dục tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như vô tướng
tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai
Niết Bàn cũng như vậy. Như tất cả pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng
như vậy. Như chân như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.
Tại sao ? Vì Niết
Bàn không sinh, không xuất. Nếu pháp không sinh, không xuất, thì không có diệt.
Phật tử ! Như
Lai chẳng vì Bồ Tát nói rốt ráo Niết Bàn của các Như Lai. Cũng chẳng vì Bồ Tát
thị hiện việc đó. Tại sao ? Vì muốn khiến cho tất cả Như Lai thường trụ ở trước
họ.
Ở trong một niệm,
thấy tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, sắc tướng viên mãn, đều như hiện tại.
Cũng chẳng khởi tưởng hai, chẳng hai. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát đã vĩnh viễn lìa
khỏi tất cả các tưởng chấp trước.
Phật tử ! Chư Phật
Như Lai vì muốn khiến cho chúng sinh an vui, mà xuất hiện ra đời. Vì muốn khiến
cho chúng sinh, sinh luyến mộ, mà thị hiện vào Niết Bàn. Nhưng Như Lai thật
không có ra đời, cũng không vào Niết Bàn. Tại sao ? Vì Như Lai thường trụ pháp
giới thanh tịnh, tuỳ tâm chúng sinh, mà thị hiện Niết Bàn.
Phật tử ! Ví như mặt trời mọc, chiếu khắp
thế gian. Ở trong tất cả đồ có nước thanh tịnh, thì hình bóng đều hiện vào, khắp
cùng nơi chúng sinh, mà không đến đi. Nếu đồ đựng bị bễ, thì sẽ không hiện hình
bóng.
Phật tử ! Ý các
vị thế nào ? Hình bóng đó chẳng hiện, là lỗi mặt trời chăng ?
Đáp rằng : Không
vậy, vì do đồ đựng bị bễ, chứ chẳng phải lỗi của mặt trời.
Phật tử ! Mặt trời
trí huệ của Như Lai cũng lại như thế, hiện khắp pháp giới, không trước, không
sau, trong tâm đồ đựng của tất cả chúng sinh thanh tịnh, thì Phật đều hiện ra.
Tâm thường tịnh, thì thường thấy thân Phật. Nếu tâm bẩn, đồ đựng bị bễ, thì
không nhìn thấy được Phật.
Phật tử ! Nếu có
chúng sinh, nên dùng Niết Bàn độ được, thì Như Lai bèn vì họ thị hiện Niết Bàn,
nhưng sự thật Như Lai chẳng sinh, chẳng mất, chẳng có diệt độ.
Phật tử ! Ví như
lửa, trong tất cả thế gian, hay dùng lửa để làm việc, hoặc có lúc một nơi lửa tắt.
Ý các vị thế nào
? Lửa tất cả thế gian đều tắt hết chăng ?
Đáp rằng : Không
vậy.
Phật tử ! Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế. Trong tất cả thế giới đều làm Phật sự,
hoặc nơi một thế giới, việc làm đã xong, thì thị hiện vào Niết Bàn. Đâu phải tất
cả thế giới chư Phật Như Lai, thảy đều diệt độ.
Phật tử ! Đại Bồ
Tát nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Ví như nhà huyễn thuật, khéo biết rõ huyễn thuật. Dùng sức huyễn thuật, ở
trong ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả cõi nước thành ấp tụ lạc, thị hiện
thân huyễn. Dùng sức huyễn để giữ gìn, trải qua suốt kiếp mà trụ. Nhưng ở xứ
khác, việc huyễn đã xong, bèn ẩn thân chẳng hiện.
Phật tử ! Ý các
vị thế nào ? Nhà đại huyễn thuật đó, có phải ở một nơi ẩn thân chẳng hiện, thì
tất cả mọi nơi đều ẩn diệt ?
Đáp rằng : Không
vậy.
Phật tử ! Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Khéo biết vô lượng trí huệ phương tiện
các thứ huyễn thuật. Trong tất cả pháp giới, khắp hiện thân Phật. Giữ gìn khiến
cho thường trụ, hết kiếp thuở vị lai. Hoặc ở một nơi, tuỳ tâm chúng sinh, làm
Phật sự xong, bèn thị hiện Niết Bàn. Đâu phải một nơi thị hiện vào Niết Bàn,
thì tất cả mọi nơi đều diệt độ !
Phật tử ! Đại Bồ
Tát nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.
Lại nữa Phật tử
! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khi thị hiện Niết Bàn, thì vào tam muội Bất động.
Vào tam muội đó rồi, thì nơi mỗi mỗi thân, đều phóng ra vô lượng trăm ngàn ức
Na do tha đại quang minh.
Trong mỗi mỗi
quang minh, đều xuất hiện A tăng kỳ hoa sen. Trong mỗi mỗi hoa sen, đều có bất
khả thuyết nhuỵ hoa báu đẹp. Trong mỗi mỗi nhuỵ hoa, đều có toà sư tử. Trên mỗi
toà sư tử, đều có Như Lai ngồi kiết già. Số thân Phật đó, đồng với số tất cả
chúng sinh, đều đầy đủ công đức thượng diệu trang nghiêm, từ nguyện lực xưa
sinh ra.
Nếu có chúng
sinh căn lành thành thục, thấy được thân Phật rồi, đều được giáo hoá. Nhưng
thân Phật đó, hết thuở vị lai, rốt ráo an trụ, tuỳ nghi hoá độ tất cả chúng
sinh.
Phật tử ! Thân
Như Lai không có phương xứ, chẳng thật, chẳng hư. Nhưng nhờ thệ nguyện lực xưa
của chư Phật, chúng sinh đáng được độ, thì liền xuất hiện.
Đại Bồ Tát nên
biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.
Phật tử ! Như
Lai trụ nơi pháp giới rốt ráo vô lượng vô ngại, cõi hư không, chân như, pháp
tánh, không sinh, không diệt, và thật tế. Vì các chúng sinh, tuỳ thời thị hiện.
Vì giữ nguyện xưa, chẳng có ngừng nghỉ, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, tất cả
cõi, tất cả pháp.
Bấy giờ, đại Bồ
Tát Phổ Hiền, muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói kệ rằng:
Như ánh mặt trời
chiếu pháp giới
Đồ bễ nước chảy
bóng liền diệt
Trí nhựt Tối Thắng
cũng như vậy
Chúng sinh không
tin thấy Niết Bàn.
Như lửa thế gian
dùng làm việc
Nơi một thành ấp
có lúc tắt
Nhân Trung Tối Thắng khắp pháp giới
Nơi giáo hoá
xong hiện nhập diệt.
Huyễn thuật
hiện thân tất cả cõi
Nơi việc làm
xong liền ẩn hình
Như Lai hoá xong
cũng như thế
Nơi cõi nước
khác thường thấy Phật.
Phật có tam muội
tên Bất động
Hoá chúng sinh rồi
vào định đó
Một niệm thân
phóng vô lượng quang
Quang hiện hoa
sen hoa có Phật.
Thân Phật vô số
đồng pháp giới
Chúng sinh có
phước đều thấy được
Như vậy vô số mỗi
mỗi thân
Thọ mạng trang
nghiêm đều đầy đủ.
Như tánh không
sinh Phật ra đời
Như tánh không
diệt Phật Niết Bàn
Lời lẽ ví dụ thảy
đều dứt
Tất cả nghĩa
thành không gì bằng.
Phật tử! Đại Bồ
Tát nên làm thế nào biết được: Thấy, nghe, gần gũi, gieo trồng căn lành nơi Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?
Phật tử! Đại Bồ
Tát nên biết ở chỗ Như Lai, thấy, nghe, gần gũi, gieo trồng căn lành, thảy đều
không luống qua. Vì sinh ra giác ngộ trí huệ vô tận. Vì lìa khỏi tất cả chướng
nạn. Vì quyết định đến nơi rốt ráo. Vì không có hư dối. Vì tất cả nguyện đều đầy
đủ. Vì chẳng hết hạnh hữu vi. Vì tuỳ thuận trí vô vi. Vì sinh ra trí huệ chư Phật.
Vì hết thuở vị lai, thành tựu tất cả giống hạnh thù thắng. Vì đến được bậc trí
huệ vô công dụng.
Phật tử! Ví như
đại trượng phu, ăn chút kim cang, trọn không thể tiêu hoá được. Phải xuyên thủng
thân mà lọt ra ngoài. Tại sao? Vì kim cang không thể ở chung trong nhục thân tạp
loài.
Ở chỗ Như Lai,
gieo chút căn lành, cũng lại như thế. Phải xuyên thủng tất cả thân hữu vi các hạnh
phiền não, đến nơi trí huệ vô vi rốt ráo. Tại sao? Vì chút căn lành đó, không
thể ở chung với các hạnh hữu vi phiền não.
Phật tử! Giả sử
cỏ khô, chất đống bằng núi Tu Di, nếu ném vào trong đó một chút lửa nhỏ, thì sẽ
bị cháy sạch. Tại sao? Vì lửa hay thiêu cháy.
Ở chỗ Như Lai,
gieo xuống chút căn lành, cũng lại như thế, sẽ thiêu sạch tất cả phiền não, rốt
ráo đắc được Vô dư Niết Bàn. Tại sao? Vì chút căn lành đó, tánh rốt ráo vậy.
Phật tử! Ví như
núi Tuyết, có cây Dược vương, tên là Thiện kiến. Nếu ai thấy được, thì mắt sẽ
được thanh tịnh. Nếu ai nghe được, thì tai sẽ được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được,
thì mũi sẽ được thanh tịnh. Nếu ai nếm được, thì lưỡi sẽ được thanh tịnh. Nếu
ai xúc chạm được, thì thân sẽ được thanh tịnh. Nếu có chúng sinh, lấy được đất
đó, thì cũng được lợi ích tiêu trừ được các bệnh.
Phật tử! Dược
vương vô thượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế, hay làm tất cả lợi
ích. Nếu có chúng sinh nào thấy được sắc thân Như Lai, thì mắt được thanh tịnh.
Nếu ai nghe được danh hiệu Như Lai, thì tai được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được
hương giới Như Lai, thì mũi được thanh tịnh. Nếu ai nếm được pháp vị Như Lai,
thì lưỡi được thanh tịnh, đủ tướng lưỡi rộng dài, hiểu lời lẽ của pháp. Nếu ai
xúc chạm được quang minh Như Lai, thì thân được thanh tịnh, rốt ráo đắc được
pháp thân vô thượng. Nếu ai nghĩ nhớ đến Như Lai, thì đắc được niệm Phật tam muội
thanh tịnh.
Nếu có chúng
sinh cúng dường Như Lai, đi qua chỗ đất đai, và tháp miếu, cũng đủ căn lành, diệt
trừ tất cả các hoạn phiền não, được an vui của hiền Thánh.
Phật tử! Nay tôi
bảo các vị, nếu có chúng sinh, thấy nghe về đức Phật, dù nghiệp chướng ràng buộc
che lấp, chẳng sinh tin ưa, cũng trồng căn lành, không luống qua, cho đến rốt
ráo sẽ vào Niết Bàn.
Phật tử! Đại Bồ
Tát nên biết ở chỗ Như Lai như vậy, thấy nghe, gần gũi, gieo trồng căn lành, đều
lìa khỏi tất cả các pháp bất thiện, đầy đủ pháp lành.
Phật tử! Như Lai
dùng tất cả ví dụ nói các thứ việc, không có ví dụ nói được pháp nầy. Tại sao?
Vì tâm trí tuyệt lộ, không thể nghĩ bàn. Chư Phật Bồ Tát chỉ tuỳ tâm chúng
sinh, khiến cho họ hoan hỉ, vì họ nói ví dụ chẳng phải rốt ráo.
Phật tử! Pháp
môn nầy tên là: Nơi bí mật của Như Lai. Tên là Tất cả thế gian không thể biết
được. Tên là Vào ấn Như Lai. Tên là Môn khai đại trí. Tên là Thị hiện giống
tánh Như Lai. Tên là Thành tựu tất cả Bồ Tát. Tên là Tất cả thế gian không thể
hoại được. Tên là Một hướng tuỳ thuận cảnh giới Như Lai. Tên là Tịnh tất cả các
cõi chúng sinh. Tên là Diễn nói pháp căn bổn thật tánh Như Lai rốt ráo không
nghĩ bàn.
Phật tử ! Pháp
môn nầy, Như Lai chẳng vì chúng sinh khác nói, chỉ vì Bồ Tát hướng đại thừa mà
nói, chỉ vì Bồ Tát thừa không nghĩ bàn mà nói. Pháp môn nầy chẳng vào tay của tất
cả chúng sinh khác, chỉ trừ đại Bồ Tát.
Phật tử ! Ví như
Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu. Nhờ có bảy báu đó, mà hiển bày Luân Vương.
Báu đó chẳng vào tay chúng sinh khác, chỉ trừ thái tử do đệ nhất phu nhân sinh
ra, thành tựu đầy đủ tướng Thánh Vương. Nếu Luân Vương không có thái tử đủ các
đức, khi vua mạng chung, thì các báu đó trong bảy ngày, đều diệt mất.
Phật tử ! Kinh
trân báu nầy, cũng lại như thế. Chẳng vào tay tất cả chúng sinh khác. Chỉ trừ
Pháp Vương chân tử của Như Lai, sinh vào nhà Như Lai, có tướng Như Lai, đủ các
căn lành.
Phật tử ! Nếu
không có những chân tử của Phật, thì pháp môn như vậy, chẳng bao lâu sẽ diệt mất.
Tại sao ? Vì tất cả hàng nhị thừa chẳng nghe kinh nầy, hà huống là thọ trì, đọc
tụng biên chép, phân biệt giải nói. Chỉ có các đại Bồ Tát mới được như vậy.
Bởi vậy đại Bồ
Tát nghe pháp môn nầy, nên sinh tâm đại hoan hỉ. Dùng tâm tôn trọng cung kính đảnh
lễ thọ trì. Tại sao? Vì đại Bồ Tát tin ưa kinh nầy, sớm sẽ đắc được A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Phật tử! Nếu có
Bồ Tát, trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, thực hành lục độ Ba La Mật,
tu tập các thứ pháp bồ đề phần. Nếu chưa từng nghe pháp môn đại oai đức không
nghĩ bàn nầy của Như Lai. Hoặc đã nghe rồi, mà không tin, không hiểu, không thuận,
không vào, thì không phải là Bồ Tát chân thật, vì không thể sinh vào nhà Như
Lai.
Nếu nghe được
pháp môn trí huệ không chướng, không ngại, vô lượng, không thể nghĩ bàn nầy của
Như Lai. Nghe rồi tin hiểu, tuỳ thuận ngộ nhập, thì nên biết người đó sinh vào
nhà Như Lai. Tuỳ thuận tất cả cảnh giới Như Lai, đầy đủ tất cả các pháp Bồ Tát,
an trụ cảnh giới nhất thiết chủng trí. Xa lìa tất cả các pháp thế gian, sinh ra
tất cả hạnh của Như Lai tu, thông đạt pháp tánh của tất cả Bồ Tát. Nơi tự tại của
Phật, tâm không nghi hoặc. Trụ pháp không có thầy, vào sâu cảnh giới vô ngại của
Như Lai.
Phật tử! Đại Bồ
Tát nghe pháp nầy rồi: Bèn hay dùng trí huệ bình đẳng, biết vô lượng pháp. Bèn
hay dùng tâm chánh trực, lìa các phân biệt. Bèn hay dùng ưa thích thù thắng, hiện
thấy chư Phật. Bèn hay dùng sức của ý, vào cõi hư không bình đẳng. Bèn hay dùng
niệm tự tại, du hành vô biên pháp giới. Bèn hay dùng sức trí huệ, đầy đủ tất cả
công đức. Bèn hay dùng trí huệ tự nhiên, lìa tất cả dơ bẩn thế gian. Bèn hay
dùng bồ đề tâm, vào tất cả lưới mười phương. Bèn hay dùng đại quán sát, biết
chư Phật ba đời đồng một thể tánh. Bèn hay dùng căn lành hồi hướng trí huệ, vào
khắp pháp như vậy, chẳng vào mà vào. Chẳng ở nơi một pháp mà có sự phan duyên.
Luôn dùng một pháp mà quán tất cả pháp.
Phật tử! Đại Bồ
Tát thành tựu công đức như vậy, làm ít công đức sức lực, mà đắc được trí vô sư
tự nhiên.
Bấy giờ, Bồ Tát
Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói kệ rằng:
Thấy nghe cúng
dường các Như Lai
Đắc được công
đức không thể lường
Ở trong hữu vi
trọn không hết
Phải diệt phiền
não lìa các khổ.
Ví như nuốt vào
chút kim cang
Trọn không tiêu
hoá phải lọt ra
Cúng dường Thập
Lực các công đức
Diệt hoặc sẽ được
kim cang trí.
Như
cỏ khô chất đồng Tu Di
Ném vào chút lửa sẽ cháy sạch
Cúng dường chư Phật chút công đức
Sẽ dứt phiền não đến Niết Bàn.
Núi Tuyết có thuốc tên Dược vương
Thấy nghe ngửi xúc tiêu các bệnh
Nếu ai thấy nghe đấng Thập Lực
Được thắng công đức đến Phật trí.
Bấy giờ, do thần lực của Phật, do pháp
như vậy. Mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha thế giới
sáu thứ chấn động. Đó là : Đông vọt thì tây lặn, tây vọt thì đông lặn. Nam vọt
thì bắc lặn, bắc vọt thì nam lặn. Mé vọt thì giữa lặn, giữa vọt thì mé lặn.
Mười tám tướng động, đó là : Động, biến động,
đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến
dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích,
biến kích, đẳng biến kích.
Trời mưa xuống tất cả mây hoa đẹp hơn các
cõi trời, tất cả mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương, mây tràng hoa, mây
hương thoa, mây đồ trang nghiêm, mây đại quang minh ma ni báu, mây các Bồ Tát
tán thán, mây bất khả thuyết thân Bồ Tát đều khác biệt. Mưa mây thành chánh
giác, mây nghiêm tịnh thế giới không nghĩ bàn. Mưa xuống mây âm thanh lời nói của
Như Lai, đầy khắp vô biên thế giới.
Như bốn thiên hạ nầy, thần lực Như Lai thị
hiện như vậy, khiến cho các Bồ Tát đều đại hoan hỉ. Khắp cùng mười phương tất cả
thế giới, cũng đều như vậy.
Bấy giờ, mười phương đều qua khỏi các thế
giới, nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi
Phật, đều có các Như Lai, nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết trăm
ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Phổ Hiền, đều hiện ra ở trước,
mà nói rằng : Lành thay Phật tử ! Đó là nhờ oai lực của Phật, tuỳ thuận pháp
tánh, diễn nói pháp Như Lai xuất hiện không nghĩ bàn.
Phật tử ! Chúng tôi mười phương chư Phật
đồng danh hiệu, nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết Na do tha cõi Phật,
đều nói pháp nầy. Như chỗ tôi nói, tất cả chư Phật mười phương thế giới, cũng
nói như vậy.
Phật tử ! Nay trong hội nầy, các đại Bồ
Tát nhiều như số hạt bụi mười vạn cõi Phật, đắc được tam muội Tất cả Bồ Tát thần
thông. Chúng tôi đều thọ ký cho họ, một đời nữa sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu
tam bồ đề. Số chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Phật, phát tâm A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề, chúng tôi cũng thọ ký cho họ, ở đời vị lai, trải qua số kiếp,
nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, đều được thành Phật, đều đồng hiệu
là Phật Thù Thắng Cảnh Giới.
Chúng tôi vì khiến cho các Bồ Tát vị lai
được nghe pháp nầy, đều cùng hộ trì. Như chỗ độ chúng sinh bốn thiên hạ nầy, mười
phương trăm ngàn ức Na do tha vô số vô lượng, cho đến chỗ độ chúng sinh trong tất
cả thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết pháp giới hư không giới, cũng đều
như vậy.
Bấy giờ, do oai thần lực của mười phương
chư Phật, do nguyện lực xưa của Tỳ Lô Giá Na, do pháp như vậy, do sức căn lành,
do Như Lai khởi trí chẳng vượt một niệm, do Như Lai ứng duyên chẳng lỗi thời,
do tuỳ thời giác ngộ các Bồ Tát, do những gì đã làm thuở xưa không thất hoại,
do khiến cho đắc được hạnh Phổ Hiền rộng lớn, do hiển hiện nhất thiết trí tự tại.
Mười phương đều trải qua các thế giới,
nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều
có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha
cõi Phật, đều đến chỗ nầy, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.
Thị hiện Bồ Tát trang nghiêm rộng lớn.
Phóng lưới đại quang minh. Chấn động tất cả mười phương thế giới. Phá tan tất cả
các cung điện ma. Tiêu diệt tất cả khổ các đường ác. Hiển hiện tất cả oai đức của
Như Lai. Ca ngâm khen ngợi pháp vô lượng công đức khác biệt của Như Lai. Khắp
mưa xuống tất cả các thứ mưa. Thị hiện vô lượng thân khác nhau. Lãnh thọ vô lượng
các Phật pháp.
Nhờ
thần lực của Phật, đều nói như vầy: Lành thay Phật tử! Ngài có thể nói pháp
không thể hoại của Như Lai nầy.
Phật tử! Chúng tôi tất cả đều danh hiệu
là Phổ Hiền. Đều từ thế giới Phổ Quang Minh, chỗ Như Lai Phổ Tràng Tự Tại, mà đến
nơi nầy. Tất cả những nơi đó, cũng đều nói pháp nầy. Cũng câu văn như vậy,
nghĩa lý như vậy, tuyên nói như vậy, quyết định như vậy, đều giống như ở đây,
chẳng thêm, chẳng bớt. Chúng tôi đều nhờ thần lực của Phật, nhờ đắc được pháp
Như Lai, mà đến chỗ nầy, để chứng minh cho Ngài. Mười phương hư không khắp pháp
giới, tất cả thế giới các bốn thiên hạ, cũng đều như vậy.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền nương thần lực của
Phật, quán sát tất cả Bồ Tát đại chúng. Muốn thuật rõ lại oai đức rộng lớn của
Như Lai xuất hiện. Chánh pháp không thể trở ngại phá hoại của Như Lai. Vô lượng
căn lành thảy đều chẳng luống qua. Chư Phật ra đời đều đầy đủ tất cả pháp tối
thắng. Khéo quán sát tâm các chúng sinh. Tuỳ thời thuyết pháp, chưa từng lỗi thời.
Sinh ra vô lượng pháp quang của các Bồ Tát. Tất cả chư Phật tự tại trang
nghiêm. Tất cả Như Lai một thân không khác, từ đại hạnh thuở xưa sinh ra, mà
nói kệ rằng:
Tất cả những gì Như Lai làm
Ví dụ thế gian không bằng được
Vì khiến chúng sinh được ngộ hiểu
Chẳng dụ mà dụ để hiển bày.
Pháp vi mật thâm sâu như vậy
Trăm ngàn vạn kiếp khó nghe được
Người tinh tấn trí huệ điều phục
Mới nghe được nghĩa thâm mật nầy.
Nếu nghe pháp nầy sinh vui mừng
Họ từng cúng dường vô lượng Phật
Được Phật gia trì và nhiếp thọ
Trời người khen ngợi thường cúng dường.
Đây là thế gian đệ nhất tài
Đây hay cứu độ các quần sinh
Đây hay sinh ra đạo thanh tịnh
Các Ngài nên trì
đừng phóng dật.
No comments:
Post a Comment