Monday, October 10, 2016

Tập 4: Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Thập Hồi Hướng thứ hai mươi lăm tiếp theo (1)

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định

TẬP 4








KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG
THỨ HAI MƯƠI LĂM
(tiếp theo)

      Phật tử ! Thế nào là hồi hướng giải thoát, không chấp trước, không ràng buộc của đại Bồ Tát ?
       Phật tử ! Đại Bồ Tát đó sinh tâm tôn trọng đối với tất cả căn lành. Đó là : Sinh tâm tôn trọng với sự thoát khỏi sinh tử. Sinh tâm tôn trọng với sự nhiếp lấy tất cả căn lành. Sinh tâm tôn trọng với sự hy vọng mong cầu tất cả căn lành. Sinh tâm tôn trọng với sự sám hối các lỗi lầm nghiệp đã tạo ra. Sinh tâm tôn trọng với sự tuỳ hỉ căn lành. Sinh tâm tôn trọng với sự lễ kính các đức Phật. Sinh tâm tôn trọng với sự chắp tay cung kính. Sinh tâm tôn trọng với sự đảnh lễ chùa tháp. Sinh tâm tôn trọng với sự khuyến thỉnh đức Phật thuyết pháp. Sinh tâm tôn trọng như vậy đối với các thứ căn lành, thảy đều tuỳ thuận nhẫn chịu.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đối với các căn lành đó, đều sinh tâm tuỳ thuận nhẫn chịu, thì rốt ráo vui mừng tin hiểu được kiên cố. Tự được an trụ, khiến cho họ cũng an trụ. Siêng tu không chấp trước. Tự tại tích tập, thành tựu chí nguyện khoái lạc thù thắng. Trụ cảnh giới của Như Lai, thế lực tăng trưởng, đều được tri kiến.
Đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy : Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu thân nghiệp của Bồ Tát Phổ Hiền.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thanh tịnh nghiệp lời nói của Bồ Tát Phổ Hiền.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để viên mãn ý nghiệp của Bồ Tát Phổ Hiền.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để phát khởi tinh tấn rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền.
Bồ Tát dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để đầy đủ âm thanh vô ngại môn Đà la ni của Bồ Tát Phổ Hiền. Âm thanh đó rộng lớn, khắp cùng mười phương.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để đầy đủ môn Đà la ni thấy tất cả chư Phật của Bồ Tát Phổ Hiền. Luôn luôn thấy tất cả chư Phật trong mười phương.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu hiểu rõ tất cả âm thanh môn Đà la ni. Đồng tất cả âm, nói vô lượng pháp.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu tất cả kiếp trụ môn Đà la ni của Bồ Tát Phổ Hiền, khắp trong mười phương tu hạnh Bồ Tát.
Bồ Tát dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong thân của một chúng sinh, thị hiện tu tất cả hạnh Bồ Tát. Hết kiếp vị lai thường không gián đoạn. Như một thân chúng sinh, tất cả thân chúng sinh cũng đều như thế.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, vào khắp tất cả chúng đạo tràng, hiện khắp ở trước tất cả chư Phật, tu hạnh Bồ Tát.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong một môn thị hiện, trải quả bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, chẳng cùng tận, khiến cho tất cả chúng sinh đều được ngộ nhập.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong các thứ môn, thị hiện trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết môn, chẳng cùng tận, khiến cho tất cả chúng sinh, đều được ngộ nhập. Thân đó hiện khắp ở trước tất cả chư Phật.
Bồ Tát dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong niệm niệm, khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh, trụ nơi trí thập lực, tâm không nhàm mỏi.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong tất cả thân chúng sinh, hiện tất cả thần thông tự tại của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong lời nói của mỗi một chúng sinh, làm lời nói tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, thảy đều trụ nơi bậc nhất thiết trí.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong thân của mỗi một chúng sinh, khắp dung nạp tất cả thân chúng sinh, khiến cho mỗi chúng sinh, đều tự cho rằng mình thành tựu thân Phật.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, có thể dùng một bông hoa, mà trang nghiêm tất cả mười phương thế giới.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, vang ra âm thanh lớn, khắp cùng pháp giới, khắp tất cả cõi nước chư Phật đều nghe được, nhiếp thọ điều phục tất cả chúng sinh.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, hết thuở vị lai bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, ở trong niệm niệm, đều vào khắp tất cả thế giới. Dùng thần lực của Phật, theo niệm trang nghiêm.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, để thành tựu sức tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, hết thuở vị lai những kiếp trụ, thường vào khắp tất cả thế giới, thị hiện ra đời để thành Phật.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, một quang minh chiếu khắp hết cõi hư không tất cả thế giới.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, được vô lượng trí huệ, đủ tất cả thần thông, nói đủ thứ pháp.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, vào nơi Như Lai hết tất cả kiếp, không thể dò lường được thần thông trí huệ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, trụ hết pháp giới chỗ các đức Như Lai, dùng thần lực của Phật, tu tập tất cả các hạnh Bồ Tát, nghiệp thân miệng ý, chưa từng mệt mỏi.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, chẳng trái với nghĩa, chẳng phá hoại pháp, lời lẽ thanh tịnh, nhạo thuyết vô tận, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ sẽ được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, khi vào một pháp môn, phóng ra vô lượng quang minh, chiếu bất khả tư nghì tất cả pháp môn. Như một pháp môn, tất cả pháp môn, cũng đều như vậy. Thông đạt vô ngại, rốt ráo sẽ đắc được bậc nhất thiết trí.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu hạnh Phổ Hiền, nơi pháp tự tại, đến bờ bên kia trang nghiêm của Bồ Tát Phổ Hiền. Nơi mỗi mỗi cảnh giới, đều dùng nhất thiết trí, quán sát ngộ nhập, mà nhất thiết trí cũng không hết được.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, từ khi bắt đầu cho đến đời nầy, hết thuở vị lai, trụ hạnh Phổ Hiền, thường không ngừng nghỉ. Được nhất thiết trí, ngộ bất khả thuyết bất khả thuyết pháp chân thật, nơi pháp rốt ráo chẳng có mê hoặc.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu nghiệp Phổ Hiền, phương tiện tự tại, được pháp quang minh. Nơi hạnh của các Bồ Tát tu hành, thấu rõ vô ngại.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, được nhất thiết trí huệ phương tiện, biết tất cả phương tiện, đó là : Phương tiện vô lượng, phương tiện không nghĩ bàn, phương tiện Bồ Tát, phương tiện nhất thiết trí, phương tiện tất cả Bồ Tát điều phục, phương tiện chuyển vô lượng pháp luân, phương tiện thời bất khả thuyết, phương tiện nói đủ thứ pháp, phương tiện không bờ mé, không sợ hãi, phương tiện nói tất cả pháp không dư thừa.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, trụ hạnh Phổ Hiền, thành tựu nghiệp thân, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được đều hoan hỉ, không sinh phỉ báng, phát tâm bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển, rốt ráo thanh tịnh.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, được trí huệ thanh tịnh, thấu rõ lời nói của tất cả chúng sinh. Tất cả lời lẽ đầy đủ trang nghiêm, khắp ứng chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, trụ hạnh Phổ Hiền, lập chí nguyện thù thắng, đủ tâm thanh tịnh, được thần thông rộng lớn, trí huệ rộng lớn, đến khắp tất cả thế gian rộng lớn, cõi nước rộng lớn, chỗ chúng sinh rộng lớn, nói pháp rộng lớn của tất cả Như Lai nói, tạng trang nghiêm viên mãn rộng lớn.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu viên mãn hạnh nguyện hồi hướng của Bồ Tát Phổ Hiền. Được tất cả thân thanh tịnh của Phật. Tâm thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, nhiếp công đức của Phật, trụ nơi cảnh giới của Phật, trí ấn chiếu khắp. Thị hiện nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát, khéo vào tất cả câu nghĩa khác biệt. Thị hiện sự tự tại rộng lớn của chư Phật Bồ Tát, vì tất cả chúng sinh hiện thành Chánh Giác.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, siêng tu hạnh nguyện các căn của Bồ Tát Phổ Hiền. Được căn thông lợi. Căn điều thuận. Căn tất cả pháp tự tại. Căn vô tận. Căn siêng tu tất cả căn lành. Căn tất cả cảnh giới của Phật bình đẳng. Căn đại tinh tấn thọ ký tất cả Bồ Tát không thối chuyển. Căn kim cang giới biết rõ tất cả Phật pháp. Căn kim cang diệm trí huệ quang minh chiếu của tất cả Như Lai. Căn tự tại phân biệt tất cả các căn. Căn an lập vô lượng chúng sinh nơi nhất thiết trí. Căn vô biên rộng lớn. Căn tất cả viên mãn. Căn thanh tịnh vô ngại.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, đắc được tất cả thần lực của Bồ Tát. Đó là : Thần lực đại lực vô lượng rộng lớn. Thần lực trí huệ vô lượng tự tại. Thần lực không động thân hình, mà hiện khắp tất cả cõi Phật. Thần lực tự tại vô ngại không gián đoạn. Thần lực nhiếp khắp tất cả cõi Phật để ở một chỗ. Thần lực một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Thần lực giải thoát du hí vô ngại. Thần lực một niệm tự tại vô sở tác. Thần lực trụ không tánh, không nương tựa. Thần lực an lập bất khả thuyết thế giới, theo thứ tự trong một lỗ chân lông, đến các đạo tràng của chư Phật khắp pháp giới, chỉ bày các chúng sinh đều khiến được vào môn đại trí huệ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, vào môn Phổ Hiền, sinh hạnh Bồ Tát. Dùng trí tự tại, trong khoảng một niệm, vào khắp vô lượng cõi nước chư Phật. Một thân dung thọ vô lượng cõi Phật. Được trí huệ trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Luôn dùng trí huệ, quán thấy vô biên các cõi nước chư Phật, vĩnh viễn không sinh khởi tâm nhị thừa.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh phương tiện Phổ Hiền, vào cảnh giới trí huệ, sinh vào nhà Như Lai, trụ đạo Bồ Tát, đầy đủ bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng tâm thù thắng không nghĩ bàn. Hành vô lượng nguyện, chưa từng ngừng nghỉ. Biết rõ tất cả thế giới ba đời.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc, thành tựu pháp môn thanh tịnh Phổ Hiền. Nơi một đầu sợi lông, bao dung tận hư không khắp pháp giới, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả cõi nước, đều khiến thấy rõ. Như một đầu sợi lông, khắp pháp giới cõi hư không, mỗi mỗi đầu sợi lông, cũng đều như vậy.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu thâm tâm phương tiện Phổ Hiền. Ở trong một tâm niệm, hiện ra tâm niệm bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp của một chúng sinh, như vậy cho đến trong một niệm, hiện ra ngần ấy kiếp tâm niệm của tất cả chúng sinh.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, vào bậc phương tiện hạnh hồi hướng Phổ Hiền. Ở trong một thân, đều bao dung tận pháp giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thân, mà cõi chúng sinh không tăng giảm. Như một thân, cho đến tất cả thân, khắp cùng pháp giới, cũng đều như vậy.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, thành tựu đại nguyện phương tiện Phổ Hiền, xả lìa tất cả tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo, vào khắp tất cả cảnh giới của chư Phật, thường thấy pháp thân thanh tịnh của chư Phật đồng với cõi hư không, tướng tốt trang nghiêm, thần lực tự tại. Thường dùng tiếng vi diệu, khai thị diễn nói, vô ngại không dứt, khiến cho người nghe được, đều như pháp thọ trì. Nơi thân Như Lai, biết rõ không chỗ được.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, trụ bậc Bồ Tát. Ở trong một niệm, vào tất cả thế giới. Đó là : Vào thế giới ngửa. Thế giới úp. Thế giới rộng lớn bất khả thuyết bất khả thuyết lưới võng giăng bày mười phương tất cả mọi nơi. Dùng lưới nhân đà la phân biệt phương tiện, khắp phân biệt tất cả pháp giới. Đem đủ thứ thế giới, vào một thế giới. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng thế giới, vào một thế giới. Đem tất cả pháp giới an lập vô lượng thế giới, vào một thế giới. Đem tất cả cõi hư không an lập vô lượng thế giới, vào một thế giới, mà cũng không hoại tướng an lập, đều khiến cho thấy rõ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, được Phật quán đảnh. Ở trong một niệm, vào bậc phương tiện, thành tựu viên mãn an trụ các hạnh trí báu, đều biết rõ tất cả các tưởng. Đó là : Tưởng về chúng sinh. Tưởng về pháp. Tưởng về cõi. Tưởng về phương hướng. Tưởng về Phật. Tưởng về thế gian. Tưởng về nghiệp. Tưởng về hạnh. Tưởng về giới. Tưởng về hiểu biết. Tưởng về căn. Tưởng về thời. Tưởng về trì. Tưởng phiền não. Tưởng thanh tịnh. Tưởng thành thục. Tưởng thấy Phật. Tưởng chuyển pháp luân. Tưởng nghe pháp hiểu rõ. Tưởng điều phục. Tưởng vô lượng. Tưởng xuất ly. Tưởng đủ thứ bậc. Tưởng vô lượng bậc.
Tưởng Bồ Tát biết rõ. Tưởng Bồ Tát tu tập. Tưởng Bồ Tát tam muội. Tưởng khởi Bồ Tát tam muội. Tưởng Bồ Tát thành. Tưởng Bồ Tát hoại. Tưởng Bồ Tát diệt. Tưởng Bồ Tát sinh. Tưởng Bồ Tát giải thoát. Tưởng Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ trì. Tưởng Bồ Tát cảnh giới. Tưởng kiếp thành hoại. Tưởng sáng, tưởng tối, tưởng ngày, tưởng đêm. Tưởng nửa tháng, một tháng, một giờ, một năm, thay đổi. Tưởng đi, tưởng đến, tưởng đứng, tưởng ngồi, tưởng ngủ, tưởng thức, các tưởng như vậy. Ở trong một niệm, thảy đều biết rõ, mà lìa tất cả tưởng, chẳng có sự phân biệt.
Dứt trừ tất cả chướng, không chỗ chấp trước. Tất cả trí huệ của Phật, sung mãn trong tâm. Tất cả Phật pháp nuôi lớn căn lành, cùng đồng một thân với các Như Lai, được tất cả chư Phật nhiếp thọ, lìa cấu bẩn được thanh tịnh. Theo tu học tất cả Phật pháp, đến được bờ bên kia.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, vì tất cả chúng sinh tu hạnh Phổ Hiền, sinh đại trí huệ báu. Ở trong mỗi một niệm, biết vô lượng tâm. Tuỳ theo sự y chỉ. Tuỳ theo tâm phân biệt. Tuỳ theo giống tánh. Tuỳ theo chỗ làm. Tuỳ theo nghiệp dụng. Tuỳ theo tướng trạng. Tuỳ theo tư giác. Đủ thứ sự khác nhau, thảy đều thấy rõ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc, thành tựu đại nguyện trí báu Phổ Hiền. Ở trong một xứ, biết vô lượng bất khả thuyết xứ. Như tại một xứ, tất cả xứ cũng đều như vậy.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu tập bậc hạnh nghiệp trí Phổ Hiền. Ở trong một nghiệp, biết được vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết nghiệp. Mỗi nghiệp đó, do đủ thứ duyên tạo ra, thấy biết rõ ràng. Như nơi một nghiệp, tất cả nghiệp cũng đều như vậy.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc, tu tập trí huệ biết các pháp của Bồ Tát Phổ Hiền. Ở trong một pháp, biết bất khả thuyết bất khả thuyết pháp. Ở trong tất cả pháp mà biết một pháp. Các pháp như vậy, thảy đều khác biệt, chẳng có chướng ngại, không trái, không chấp trước.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, trụ hạnh Bồ Tát, được đầy đủ căn tai vô ngại của Bồ Tát Phổ Hiền. Ở trong một tiếng nói, biết được bất khả thuyết bất khả thuyết tiếng nói, vô lượng vô biên đủ thứ sự khác biệt, mà chẳng chấp trước. Như nơi một tiếng nói, nơi tất cả tiếng nói, cũng đều như vậy.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu trí huệ Phổ Hiền, khởi hạnh Phổ Hiền, trụ bậc Phổ Hiền. Ở trong mỗi một pháp, diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết pháp, pháp đó rộng lớn, đủ thứ sự khác biệt, giáo hoá nhiếp thọ, không thể nghĩ bàn. Phương tiện tương ưng, nơi vô lượng thời, nơi tất cả thời, tuỳ theo sự ưa thích, hiểu biết của các chúng sinh, tuỳ theo căn tánh, tuỳ theo thời, dùng âm thanh của Phật mà vì họ nói pháp. Dùng một diệu âm, khiến cho bất khả thuyết đạo tràng chúng hội vô lượng chúng sinh, thảy đều hoan hỉ. Chỗ của một Như Lai, vô lượng Bồ Tát, tràn đầy pháp giới, lập chí thù thắng, sinh sự thấy rộng lớn, rốt ráo biết rõ tất cả các hạnh. Trụ bậc Phổ Hiền, tuỳ chỗ thuyết pháp, ở trong niệm niệm, đều được chứng nhập. Trong khoảng một sát na, tăng trưởng vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết đại trí huệ. Hết kiếp vị lai, diễn nói như vậy, nơi tất cả cõi, tu tập hạnh rộng lớn đồng hư không, thành tựu viên mãn.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu tập hạnh môn các căn của Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu vua đại hạnh. Ở trong mỗi một căn, đều biết rõ vô lượng các căn, vô lượng tâm ưa thích, cảnh giới không thể nghĩ bàn sinh ra diệu hạnh.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, trụ hạnh tâm đại hồi hướng Phổ Hiền, đắc được : Trí sắc rất vi tế. Trí thân rất vi tế. Trí cõi rất vi tế. Trí kiếp rất vi tế. Trí thế giới rất vi tế. Trí phương hướng rất vi tế. Trí thời gian rất vi tế. Trí số mục rất vi tế. Trí nghiệp báo rất vi tế. Trí thanh tịnh rất vi tế. Các trí vi tế như vậy, ở trong một niệm, đều biết rõ được, mà tâm không sợ hãi, tâm không mê hoặc, không tán loạn, không ô trược, không hạ liệt, tâm đó chuyên nhất, tâm khéo vào định vắng lặng, tâm khéo phân biệt, tâm khéo an trụ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, trụ nơi trí huệ của Bồ Tát, tu hạnh Phổ Hiền, chẳng có mệt mỏi. Biết được : Tất cả chúng sinh thú hướng rất vi tế. Chúng sinh chết rất vi tế. Chúng sinh sinh ra rất vi tế. Chúng sinh trụ rất vi tế. Chúng sinh xứ sở rất vi tế. Chúng sinh phẩm loại rất vi tế. Chúng sinh cảnh giới rất vi tế. Chúng sinh hạnh rất vi tế. Chúng sinh thủ lấy rất vi tế. Chúng sinh phan duyên rất vi tế. Tất cả những sự rất vi tế như vậy, ở trong một niệm thảy đều biết rõ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, lập chí nguyện thâm sâu, tu hạnh Phổ Hiền. Biết được: Tất cả Bồ Tát từ lúc ban đầu phát tâm, vì tất cả chúng sinh tu hạnh Bồ Tát rất vi tế. Bồ Tát trụ xứ rất vi tế. Bồ Tát thần thông rất vi tế. Bồ Tát du hành vô lượng cõi Phật rất vi tế. Bồ Tát pháp quang minh rất vi tế. Bồ Tát mắt thanh tịnh rất vi tế. Bồ Tát thành tựu tâm thù thắng rất vi tế. Bồ Tát đi đến đạo tràng chúng hội của tất cả Như Lai rất vi tế. Bồ Tát trí huệ Đà la ni môn rất vi tế. Bồ Tát có vô lượng sự không sợ hãi, có tất cả biện tài diễn nói rất vi tế. Bồ Tát có vô lượng tướng tam muội rất vi tế. Bồ Tát thấy tất cả trí huệ tam muội của Phật rất vi tế.
Bồ Tát trí huệ tam muội thâm sâu rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội đại trang nghiêm rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội pháp giới rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội thần thông đại tự tại rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội hết thuở vị lai trụ trì hạnh rộng lớn rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội sinh ra vô lượng sự khác biệt rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội sinh ra ở trước tất cả chư Phật, siêng tu cúng dường luôn không xả lìa rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội tu hành tất cả thâm sâu rộng lớn không chướng, không ngại rất vi tế. Bồ Tát trí huệ tam muội lìa che chướng, được bậc nhất thiết trí rốt ráo, trụ trì bậc hạnh trí, bậc đại thần thông, bậc quyết định nghĩa lý, rất vi tế. Tất cả những sự rất vi tế như vậy, thảy đều biết rõ.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu tập hạnh Phổ Hiền. Đều biết : Bồ Tát trí huệ an lập rất vi tế. Bậc Bồ Tát rất vi tế. Bồ Tát vô lượng hạnh rất vi tế. Bồ Tát sinh ra hồi hướng rất vi tế. Bồ Tát được tất cả Phật tạng rất vi tế. Bồ Tát quán sát trí rất vi tế. Bồ Tát thần thông nguyện lực rất vi tế. Bồ Tát diễn nói tam muội rất vi tế. Bồ Tát tự tại phương tiện rất vi tế. Bồ Tát ấn rất vi tế. Bồ Tát một đời bổ xứ rất vi tế.
      Bồ Tát sinh về trời Đâu Suất rất vi tế. Bồ Tát trụ ở cung trời rất vi tế. Bồ Tát nghiêm tịnh cõi Phật rất vi tế. Bồ Tát quán sát trong cõi người rất vi tế. Bồ Tát phóng đại quang minh rất vi tế. Bồ Tát chủng tộc thù thắng rất vi tế. Bồ Tát đạo tràng chúng hội rất vi tế. Bồ Tát khắp tất cả thế giới thọ sinh rất vi tế. Bồ Tát nơi một thân thị hiện tất cả thân mạng chung rất vi tế. Bồ Tát vào thai mẹ rất vi tế. Bồ Tát trụ thai mẹ rất vi tế. Bồ Tát ở trong thai mẹ tự tại thị hiện tất cả đạo tràng chúng hội trong pháp giới rất vi tế. Bồ Tát ở trong thai mẹ tất cả thần lực của Phật rất vi tế.
Bồ Tát thị hiện việc sống lâu rất vi tế. Bồ Tát trí huệ thị hiện sư tử đi bảy bước rất vi tế. Bồ Tát trí huệ phương tiện khéo léo thị hiện nơi cung vua rất vi tế. Bồ Tát xuất gia tu hành điều phục rất vi tế. Bồ Tát ngồi ở dưới cội bồ đề đạo tràng rất vi tế. Bồ Tát phá tan chúng ma quân, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rất vi tế. Như Lai ngồi toà bồ đề, phóng đại quang minh, chiếu mười phương thế giới rất vi tế. Như Lai thị hiện vô lượng thần biến rất vi tế. Như Lai sư tử hống đại Niết Bàn rất vi tế. Như Lai điều phục tất cả chúng sinh mà không chỗ ngại rất vi tế.
Sức tự tại không nghĩ bàn của Như Lai, tâm bồ đề như kim cang rất vi tế. Như Lai hộ niệm khắp tất cả cảnh giới thế gian rất vi tế. Như Lai ở trong khắp tất cả thế giới làm Phật sự, hết kiếp thuở vị lai mà không ngừng nghỉ rất vi tế. Thần lực của Như Lai khắp cùng pháp giới rất vi tế. Như Lai ở trong tận cõi hư không tất cả thế giới, khắp hiện thành Phật, điều phục chúng sinh rất vi tế. Như Lai nơi một thân Phật, hiện vô lượng thân Phật rất vi tế. Như Lai ở trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đều ngự đạo tràng trí huệ tự tại rất vi tế.
Tất cả sự vi tế như vậy, thảy đều biết rõ, thành tựu thanh tịnh, thị hiện khắp tất cả thế gian. Ở trong niệm niệm, tăng trưởng trí huệ, viên mãn không thối chuyển. Phương tiện khéo léo, tu hạnh Bồ Tát, chẳng có ngừng nghỉ, thành tựu bậc hồi hướng của Phổ Hiền. Ðầy đủ tất cả công đức của Như Lai, vĩnh viễn không nhàm bỏ hạnh Bồ Tát. Sinh ra cảnh giới Bồ Tát hiện tiền. Vô lượng phương tiện thảy đều thanh tịnh, muốn an ổn khắp tất cả chúng sinh. Tu hạnh Bồ Tát, thành tựu bậc đại oai đức của Bồ Tát, đắc được tâm vui thích của các Bồ Tát, được môn hồi hướng của Bồ Tát Kim Cang Tràng, sinh ra các công đức tạng pháp giới.
Thường được chư Phật hộ niệm, nhập vào các pháp môn thâm diệu của Bồ Tát. Diễn nói tất cả nghĩa chân thật. Nơi pháp khéo léo không sai trái. Khởi thệ nguyện lớn không bỏ chúng sinh. Ở trong một niệm, biết hết tất cả cảnh giới tạng tâm địa, hay chẳng phải tâm địa. Nơi chỗ chẳng phải tâm, thị hiện sinh nơi tâm, xa lìa lời nói, an trụ trí huệ, đồng hạnh với các Bồ Tát thực hành. Dùng sức tự tại, thị hiện thành Phật đạo. Hết thuở vị lai, thường không ngừng nghỉ. Tất cả chúng sinh, thế gian, kiếp số, vọng tưởng, lời nói, kiến lập, thần thông, nguyện lực, thảy đều thị hiện.
Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền. Đắc được trí rất vi tế, biết rõ tất cả cõi chúng sinh, đó là : Trí rất vi tế, phân biệt được cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, hiểu được lời nói của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết sự chấp trước của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được loại khác nhau của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được đồng loại của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được vô lượng thú hướng của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được chỗ làm đủ thứ sự phân biệt không nghĩ bàn của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được vô lượng tạp nhiễm của cõi chúng sinh. Trí rất vi tế, biết được vô lượng thanh tịnh của cõi chúng sinh.
Tất cả cảnh giới rất vi tế của chúng sinh giới như vậy, ở trong một niệm, có thể dùng trí huệ, đều biết như thật. Rộng nhiếp chúng sinh, mà vì họ thuyết pháp. Khai thị đủ thứ pháp môn thanh tịnh, khiến cho họ tu trí huệ rộng lớn của Bồ Tát, hoá thân vô lượng, kẻ thấy được đều hoan hỉ. Dùng ánh sáng trí huệ mặt trời, chiếu tâm Bồ Tát, khiến cho họ khai ngộ, được trí huệ tự tại.
Dùng tâm giải thoát, không chấp trước, không ràng buộc, vì tất cả chúng sinh, trong tất cả thế giới, tu hạnh Phổ Hiền, đắc được trí rất vi tế, biết tận cõi hư không pháp giới tất cả thế giới. Đó là : Trí rất vi tế, biết thế giới nhỏ. Trí rất vi tế, biết thế giới lớn. Trí rất vi tế, biết thế giới tạp nhiễm. Trí rất vi tế, biết thế giới thanh tịnh. Trí rất vi tế, biết thế giới không thể sánh. Trí rất vi tế, biết thế giới đủ thứ. Trí rất vi tế, biết thế giới rộng. Trí rất vi tế, biết thế giới hẹp. Trí rất vi tế, biết thế giới vô ngại trang nghiêm. Trí rất vi tế, xuất hiện khắp tất cả thế giới của Phật. Trí rất vi tế, nói chánh pháp khắp tất cả thế giới.
Trí rất vi tế, hiện thân khắp tất cả thế giới. Trí rất vi tế, phóng đại quang minh khắp tất cả thế giới. Trí rất vi tế, thần thông tự tại của chư Phật, thị hiện hết tất cả thế giới. Trí rất vi tế, dùng một âm thanh, thị hiện tất cả âm thanh hết tất cả thế giới. Trí rất vi tế, vào tất cả đạo tràng chúng hội cõi Phật trong tất cả thế giới. Trí rất vi tế, dùng tất cả pháp giới cõi Phật, làm một cõi Phật. Trí rất vi tế, dùng một cõi Phật, làm tất cả pháp giới cõi Phật. Trí rất vi tế, biết tất cả thế giới như mộng. Trí rất vi tế, biết tất cả thế giới như hình bóng. Trí rất vi tế, biết tất cả thế giới như huyễn.
      Như vậy biết sinh ra tất cả Bồ Tát đạo, nhập vào hạnh Phổ Hiền, được trí huệ thần thông. Đầy đủ quán sát của Phổ Hiền, tu hạnh Bồ Tát, thường không ngừng nghỉ. Đắc được tất cả thần thông tự tại của Phật. Đầy đủ thân vô ngại, trụ nơi trí huệ không chỗ nương. Nơi các pháp lành, không thủ lấy chấp trước. Chỗ tâm thực hành, thảy đều không chỗ đắc được. Nơi tất cả chỗ, khởi ý tưởng xa lìa. Nơi hạnh Bồ Tát, khởi ý tưởng tịnh tu. Nơi nhất thiết trí, nghĩ tưởng không thủ lấy chấp trước. Dùng các tam muội, tự tại trang nghiêm. Trí huệ tuỳ thuận tất cả pháp giới.
       Dùng tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc, nhập vào hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền. Đắc được trí rất vi tế, biết vô lượng pháp giới. Trí rất vi tế, diễn nói tất cả pháp giới. Trí rất vi tế, vào thế giới rộng lớn. Trí rất vi tế, phân biệt pháp giới không nghĩ bàn. Trí rất vi tế, phân biệt tất cả pháp giới. Trí rất vi tế, một niệm khắp tất cả pháp giới. Trí rất vi tế, vào khắp tất cả pháp giới. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp giới không chỗ được. Trí rất vi tế, quán tất cả pháp giới không chỗ ngại. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp giới không sinh. Trí rất vi tế, nơi tất cả pháp giới hiện thần biến.
       Tất cả pháp giới rất vi tế như vậy, dùng trí rộng lớn, đều biết như thật. Nơi pháp tự tại, thị hiện hạnh Phổ Hiền, khiến cho các chúng sinh thảy đều đầy đủ. Chẳng xả bỏ nghĩa, chẳng chấp pháp, sinh ra trí bình đẳng vô ngại, biết căn bản vô ngại, chẳng trụ tất cả các pháp, chẳng hoại các pháp tánh. Như thật không nhiễm, giống như hư không, tuỳ thuận thế gian, khởi lên lời nói, khai mở nghĩa chân thật, mở bày tánh tịch diệt. Nơi tất cả cảnh, không nương không trụ, chẳng có phân biệt, thấy rõ pháp giới, rộng lớn an lập, biết rõ các thế gian, và tất cả các pháp, bình đẳng không hai, lìa tất cả chấp trước.
       Dùng tâm giải thoát, không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, sinh trí rất vi tế biết các kiếp. Đó là : Trí rất vi tế, dùng bất khả thuyết kiếp làm một niệm. Trí rất vi tế, dùng một niệm làm bất khả thuyết kiếp. Trí rất vi tế, dùng A tăng kỳ kiếp vào một kiếp. Trí rất vi tế, dùng một kiếp vào A tăng kỳ kiếp. Trí rất vi tế, dùng kiếp dài vào kiếp ngắn. Trí rất vi tế, dùng kiếp ngắn vào kiếp dài. Trí rất vi tế, vào kiếp có Phật, kiếp không có Phật. Trí rất vi tế, biết tất cả kiếp số. Trí rất vi tế, biết tất cả kiếp phi kiếp. Trí rất vi tế, trong một niệm thấy ba đời tất cả kiếp.
       Tất cả các kiếp rất vi tế như vậy, dùng trí Như Lai, ở trong một niệm đều biết như thật. Đắc được tâm hạnh vương viên mãn của các Bồ Tát. Vào tâm hạnh của Phổ Hiền. Lìa tất cả tâm phân biệt dị đạo hí luận. Phát tâm đại nguyện không giải đãi ngừng nghỉ. Thấy khắp vô lượng thế giới võng. Tâm sung mãn vô lượng chư Phật. Nơi căn lành của chư Phật, hạnh của các Bồ Tát, tâm nghe được đều thọ trì. Nơi hạnh rộng lớn an ổn tất cả chúng sinh, tâm nghe rồi không quên. Trong tất cả kiếp tâm thị hiện Phật ra đời. Nơi mỗi mỗi thế giới, hết thuở vị lai, tâm tu hành hạnh bất động không ngừng nghỉ. Trong tất cả thế giới, dùng thân nghiệp Như Lai sung mãn thân tâm bồ đề.
       Dùng tâm giải thoát, không chấp trước không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, thành tựu bất thối chuyển, đắc được trí rất vi tế, biết tất cả các pháp. Đó là : Trí rất vi tế, biết pháp thâm sâu. Trí rất vi tế, biết pháp rộng lớn. Trí rất vi tế, biết đủ thứ pháp. Trí rất vi tế, biết pháp trang nghiêm. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp không có số lượng. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp vào một pháp. Trí rất vi tế, biết một pháp vào tất cả pháp. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp vào phi pháp. Trí rất vi tế, ở trong không pháp an lập tất cả pháp mà không trái với nhau. Trí rất vi tế, vào tất cả Phật pháp phương tiện không dư thừa.
       Tất cả thế giới, tất cả lời nói an lập các pháp như vậy, đều đồng với nhau, trí huệ đó vô ngại, đều biết như thật. Đắc được tâm vào vô biên pháp giới, trong mỗi mỗi pháp giới, thâm tâm kiên cố an trụ, thành tựu hạnh vô ngại. Dùng nhất thiết trí, sung mãn các căn. Vào trí huệ chư Phật, chánh niệm phương tiện. Thành tựu công đức rộng lớn của chư Phật, đầy khắp pháp giới. Vào khắp tất cả các thân Như Lai, thị hiện hết thảy thân nghiệp của các Bồ Tát. Tuỳ thuận tất cả lời lẽ thế giới, diễn nói các pháp. Đắc được thần lực gia trì trí huệ ý nghiệp của tất cả chư Phật, sinh ra vô lượng phương tiện khéo léo, trí Bát Nhã phân biệt được các pháp.
       Dùng tâm giải thoát, không chấp trước, không ràng buộc, tu hạnh Phổ Hiền, sinh ra nhất thiết trí rất vi tế. Đó là : Trí rất vi tế, biết tất cả cõi.Trí rất vi tế, biết tất cả chúng sinh. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp quả báo. Trí rất vi tế, biết tất cả tâm chúng sinh. Trí rất vi tế, biết tất cả thời thuyết pháp. Trí rất vi tế, biết tất cả pháp giới. Trí rất vi tế, biết tất cả tận cõi hư không. Trí rất vi tế, biết tất cả lời nói. Trí rất vi tế, biết tất cả hạnh thế gian. Trí rất vi tế, biết tất cả hạnh xuất thế.
Cho đến trí rất vi tế, biết tất cả Như Lai đạo, tất cả Bồ Tát đạo, tất cả chúng sinh đạo. Tu hạnh Bồ Tát, trụ đạo Phổ Hiền, hoặc văn, hoặc nghĩa, đều biết như thật. Sinh trí như bóng. Sinh trí như mộng. Sinh trí như huyễn. Sinh trí như vang. Sinh trí như hoá. Sinh trí như không. Sinh trí như tịch diệt. Sinh trí tất cả pháp giới. Sinh trí không chỗ nương. Sinh trí tất cả Phật pháp.
Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng tâm giải thoát, không chấp trước, không ràng buộc để hồi hướng, không phân biệt là thế gian, hoặc pháp thế gian. Không phân biệt là bồ đề, hoặc bồ đề tát đoả. Không phân biệt hạnh Bồ Tát, hoặc đạo xuất ly. Không phân biệt là Phật, hoặc tất cả Phật pháp. Không phân biệt điều phục chúng sinh, hoặc không điều phục chúng sinh. Không phân biệt căn lành, hoặc hồi hướng. Không phân biệt mình, hoặc họ. Không phân biệt vật thí, hoặc người nhận. Không phân biệt hạnh Bồ Tát, hoặc Đẳng Chánh Giác. Không phân biệt pháp, hoặc trí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy : Tâm giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Thân giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Miệng giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Nghiệp giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Báo giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Thế gian giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Cõi Phật giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Chúng sinh giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Pháp giải thoát không chấp trước, không ràng buộc. Trí giải thoát không chấp trước, không ràng buộc.
Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, giống như chư Phật ba đời tu hồi hướng lúc còn làm Bồ Tát, mà hồi hướng : Học hồi hướng của chư Phật quá khứ. Thành tựu hồi hướng của chư Phật vị lai. Trụ hồi hướng của chư Phật hiện tại.
An trụ đạo hồi hướng của chư Phật quá khứ. Không xả bỏ đạo hồi hướng của chư Phật vị lai. Tuỳ thuận đạo hồi hướng của chư Phật hiện tại.
Siêng tu giáo lý của chư Phật quá khứ. Thành tựu giáo lý của chư Phật vị lai. Biết rõ giáo lý của chư Phật hiện tại.
Đầy đủ bình đẳng của chư Phật quá khứ. Thành tựu bình đẳng của chư Phật vị lai. An trụ bình đẳng của chư Phật hiện tại.
Hành cảnh giới của chư Phật quá khứ. Trụ cảnh giới của chư Phật vị lai. Đồng cảnh giới của chư Phật hiện tại.
Đắc được căn lành của tất cả chư Phật ba đời. Đủ giống tánh của tất cả chư Phật ba đời. Trụ hạnh nguyện của tất cả chư Phật ba đời. Tuỳ thuận cảnh giới của tất cả chư Phật ba đời.
Phật tử ! Đó là hồi hướng thứ chín tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc của đại Bồ Tát.
Khi đại Bồ Tát trụ hồi hướng nầy, thì tất cả núi Kim Cang Luân Vi không thể hoại được. Được sắc tướng bậc nhất, trong tất cả chúng sinh, không ai bằng được. Đều có thể phá tan các ma tà nghiệp, hiện khắp tất cả thế giới mười phương. Tu hạnh Bồ Tát, vì muốn khai ngộ tất cả chúng sinh. Dùng phương tiện khéo léo, nói các Phật pháp. Đắc được đại trí huệ, nơi các Phật pháp, tâm không mê hoặc. Thọ sinh nơi chốn nào, hoặc tu hành, hoặc chỗ ở, thường gặp được quyến thuộc không phá hoại. Chánh pháp của chư Phật ba đời nói ra, dùng niệm thanh tịnh, thảy đều thọ trì. Hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát, thường không ngừng nghỉ, không nương tựa chấp trước. Hạnh nguyện Phổ Hiền tăng trưởng đầy đủ. Được nhất thiết trí, làm đại Phật sự, thành tựu thần thông tự tại của Bồ Tát.
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Đấng Vô Đẳng khắp trong mười phương
Chưa từng khởi lên tâm khinh mạn
Tuỳ theo công đức nghiệp Phật tu
Lại còn cung kính sinh tôn trọng.
Tu tập tất cả các công đức
Chẳng vì chính mình và người khác
Luôn dùng tâm tin hiểu tối thượng
Lợi ích chúng sinh mà hồi hướng.
Chưa từng tạm khởi tâm cao mạn
Cũng chẳng sinh ra ý hạ liệt
Hết thảy thân nghiệp của Như Lai
Bồ Tát thỉnh vấn siêng tu tập.
Tu tập đủ thứ các căn lành
Đều vì lợi ích các hàm thức
An trụ thâm tâm hiểu rộng lớn
Hồi hướng bậc công đức Nhân Tôn
Vô lượng khác biệt tại thế gian
      Đủ thứ thiện xảo việc kỳ đặc
      Thô tế rộng lớn và thâm sâu
      Đều do tu hành mà thấu đạt.
       Thế gian hết thảy đủ thứ thân
      Dùng thân bình đẳng vào trong đó
      Nơi đó tu hành được tỏ ngộ
       Huệ môn thành tựu không thối chuyển.
       Thế gian cõi nước vô lượng thứ
      Thô tế rộng lớn sai khác nhau
      Bồ Tát hay dùng môn trí huệ
      Trong một lỗ lông thảy đều thấy.
       Tâm hạnh chúng sinh vô số lượng
      Hay khiến bình đẳng vào một tâm
      Dùng môn trí huệ đều khai ngộ
      Với sự tu hành không thối chuyển.
       Các căn dục lạc của chúng sinh
      Thượng trung hạ phẩm đều khác nhau
      Tất cả thâm sâu khó biết được
      Theo bản tánh họ đều biết rõ.
       Chúng sinh hết thảy đủ thứ nghiệp
      Thượng trung hạ phẩm đều khác biệt
      Bồ Tát vào sâu lực Như Lai
      Dùng môn trí huệ khắp thấy rõ.
        Vô lượng kiếp không thể nghĩ bàn
        Hay khiến bình đẳng vào một niệm
        Như vậy thấy rồi khắp mười phương
      Tu hành tất cả nghiệp thanh tịnh.
       Quá khứ vị lai và hiện tại
      Biết rõ tướng đó đều khác nhau
      Mà cũng chẳng trái lý bình đẳng
      Đó là hạnh tâm lớn thấu đạt
       Hạnh chúng sinh thế gian khác nhau
      Hoặc hiển hoặc ẩn vô lượng thứ
      Bồ Tát đều biết tướng khác biệt
      Cũng biết tướng đó đều vô tướng.
       Mười phương thế giới tất cả Phật
      Thị hiện sức thần thông tự tại
      Rộng lớn khó có thể nghĩ bàn
      Bồ Tát đều phân biệt biết được.
       Trong trời Đâu Suất khắp thế giới
      Tự nhiên giác ngộ Nhân Sư Tử
      Công đức rộng lớn tịnh tối thượng
      Như thể tướng đó đều thấy rõ.
       Hoặc hiện hàng sinh nơi thai mẹ
      Vô lượng tự tại đại thần biến
       Thành Phật thuyết pháp hiện nhập diệt
      Khắp cùng thế gian không tạm ngừng.
       Khi đấng Thiên Nhân Sư sơ sinh
      Tất cả thắng trí đều thừa phụng  
        Chư Thiên Đế Thích cùng Phạm Vương     
       Thảy đều cung kính hầu chiêm ngưỡng.
       Mười phương tất cả không thừa sót
      Trong vô lượng vô biên pháp giới
      Không đầu không cuối không gần xa
      Thị hiện Như Lai sức tự tại.
       Thế Tôn Đạo Sư hiện sinh rồi
       Du hành các phương đều bảy bước
        Muốn đem diệu pháp ngộ quần sinh
      Vì thế Như Lai quán sát khắp.
       Thấy các chúng sinh chìm biển dục
      Bị ngu si mù tối che đậy
      Đạo Sư tự tại hiện mỉm cười
      Nghĩ sẽ cứu họ thoát ba cõi.
      Đại sư tử hống vang diệu âm
      Ta là đấng đệ nhất thế gian
      Phải đốt đèn trí huệ sáng tịnh
      Diệt sinh tử tối ngu si đó.
       Khi đấng Đạo Sư sinh ra đời
      Khắp phóng vô lượng đại quang minh
      Khiến các đường ác đều ngừng nghỉ
      Diệt hết các khổ nạn thế gian.
       Có khi thị hiện ở cung vua
      Hoặc hiện bỏ nhà tu học đạo
      Vì muốn lợi ích các chúng sinh
      Thị hiện sức tự tại như vậy.
       Ban đầu Như Lai ngồi đạo tràng
      Tất cả đại địa đều lay động
       Mười phương thế giới nhờ quang minh
      Sáu đường chúng sinh đều lìa khổ.
       Chấn động tất cả cung điện ma
       Khai ngộ tâm chúng sinh mười phương
      Xưa từng được độ và tu hành
      Đều khiến biết rõ nghĩa chân thật.
       Mười phương hết thảy các cõi nước
      Đều vào lỗ lông không thừa sót
      Tất cả lỗ lông vô biên cõi
      Nơi đó khắp hiện sức thần thông.
        Tất cả pháp chư Phật diễn nói
      Vô lượng phương tiện đều tỏ ngộ
      Nếu những điều Như Lai không nói
      Cũng sẽ hiểu rõ siêng tu tập.
      Đầy khắp ba ngàn cõi đại thiên
      Tất cả ma quân khởi đấu tranh
      Làm ra vô lượng các việc ác
      Trí huệ vô ngại trừ diệt được.
        Như Lai ở tại các cõi Phật
      Hoặc lại hiện ở các cung trời
Hoặc nơi Phạm cung mà hiện thân
Bồ Tát đều thấy không chướng ngại.
Phật hiện vô lượng đủ thứ thân
Chuyển bánh xe pháp diệu thanh tịnh
Cho đến ba đời tất cả kiếp
Cầu bờ mé đó không thể được.
Toà báu cao rộng vô thượng nhất
Đầy khắp mười phương vô lượng cõi
Đủ thứ tướng đẹp dùng trang nghiêm
Phật ngự trên đó khó nghĩ bàn.
Các chúng Phật tử cùng vây quanh
Tận nơi pháp giới đều khắp cùng
Khai thị bồ đề vô lượng hạnh
Tất cả tối thắng do tu đạo.
Chư Phật tuỳ nghi mà tác nghiệp
Vô lượng vô biên đồng pháp giới
Bậc trí hay dùng một phương tiện
Biết rõ tất cả không cùng tận.
Chư Phật sức thần thông tự tại
Thị hiện tất cả đủ thứ thân
Hoặc hiện các cõi vô lượng đời
Hoặc hiện thể nữ chúng vây quanh.
Hoặc trong vô lượng các thế giới
Thị hiện xuất gia thành Phật đạo
Cho đến cuối cùng vào Niết Bàn
Phân bố thân đó xây chùa tháp.
Như vậy đủ thứ vô biên hạnh
Đạo Sư diễn nói chỗ Phật ở
Hết thảy công đức của Thế Tôn
Thệ nguyện tu hành đều thành tựu.
Khi đem căn lành đó hồi hướng
Trụ nơi pháp phương tiện như vậy
Như vậy tu tập hạnh bồ đề
Tâm đó rốt ráo không nhàm mỏi.
Hết thảy thần thông của Như Lai
Cùng với vô biên thắng công đức
Cho đến các trí hạnh thế gian
Tất cả đều biết không cùng tận.
Như vậy tất cả Thiên Nhân Sư
Tuỳ theo hết thảy các cảnh giới
Ở trong một niệm đều tỏ ngộ
Mà cũng chẳng bỏ hạnh bồ đề.
Các hạnh vi tế của chư Phật
Với tất cả cõi đủ thứ pháp
Nơi đó đều tuỳ thuận biết được
Rốt ráo hồi hướng đến bờ kia.
Có số vô số tất cả kiếp
Bồ Tát biết rõ tức một niệm
Nơi đó khéo vào hạnh bồ đề
Thường siêng tu tập không thối chuyển.
Mười phương hết thảy vô lượng cõi
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
      Cùng với tất cả các Như Lai
      Bồ Tát đều phân biệt biết được.
      Ở trong niệm niệm đều thấy rõ
      Vô lượng kiếp không thể nghĩ bàn
      Như vậy ba đời không thừa sót
      Tu hành đầy đủ hạnh Bồ Tát.
        Bình đẳng vào trong tất cả tâm
      Vào tất cả pháp cũng bình đẳng
      Tận hư không cõi Phật cũng thế
      Hạnh tối thắng đó đều biết rõ.
        Sinh ra chúng sinh và các pháp
      Hết thảy đủ thứ các trí huệ
      Thần lực Bồ Tát cũng như thế
      Như vậy tất cả không cùng tận.
        Các trí vi tế đều khác biệt
      Bồ Tát nhiếp hết không thừa sót
      Đồng tướng dị tướng đều khéo biết
      Như vậy tu hành hạnh rộng lớn.
        Mười phương vô lượng các cõi Phật
       Trong đó chúng sinh đều vô lượng
      Cõi sinh giống loài đủ thù đặc
      Chỗ ở hạnh lực đều biết được.
      Đời quá khứ vị lai hiện tại
      Hết thảy tất cả các Đạo Sư
      Nếu ai biết đó mà hồi hướng
      Tức với Phật đó hành bình đẳng.
        Nếu người hay tu hồi hướng nầy
      Tức là học hành đạo của Phật
      Sẽ được các công đức của Phật
      Cùng với nhất thiết trí của Phật.
        Tất cả thế gian không thể hoại
      Tất cả sở học đều thành tựu
      Thường hay nghĩ nhớ tất cả Phật
      Thường thấy tất cả đèn thế gian.
        Thắng hạnh Bồ Tát không thể lường
      Các pháp công đức cũng như vậy
      Đã trụ Như Lai vô thượng hạnh
      Đều biết sức tự tại của Phật.

      Phật tử[2] ! Thế nào là hồi hướng đẳng pháp giới vô lượng của đại Bồ Tát?
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy, dùng lụa vô cấu mà quấn trên đầu mình, trụ ở ngôi vị pháp sư.
Rộng thực hành bố thí pháp, khởi đại từ bi, an lập chúng sinh. Nơi tâm bồ đề, thường hành lợi ích, không có ngừng nghỉ. Dùng tâm bồ đề, nuôi lớn căn lành, vì các chúng sinh làm Điều Ngự Sư. Mở bày cho các chúng sinh đạo nhất thiết trí, vì chúng sinh làm mặt trời pháp tạng, ánh sáng căn lành, chiếu khắp tất cả. Nơi các chúng sinh, tâm đều bình đẳng. Tu các hạnh lành, chẳng có ngừng nghỉ. Tâm thanh tịnh không nhiễm, trí huệ tự tại, không xả bỏ tất cả căn lành đạo nghiệp. Làm thương chủ đại trí của các chúng sinh, khiến khắp tất cả được vào con đường chân chánh an ổn. Vì các chúng sinh mà làm dẫn đầu, khiến cho họ tu tất cả căn lành pháp hành. Vì các chúng sinh mà làm bạn lành kiên cố không thể hoại, khiến cho căn lành của họ tăng trưởng thành tựu.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy, dùng bố thí pháp làm đầu, phát sinh tất cả pháp trắng thanh tịnh, nhiếp thọ hướng về tâm nhất thiết trí. Nguyện lực thù thắng, rốt ráo kiên cố, thành tựu tăng trưởng, đầy đủ oai đức. Nương thiện tri thức, tâm không xiểm nịnh lừa dối. Suy gẫm quán sát cảnh giới môn nhất thiết trí vô biên.
      Đem căn lành đó hồi hướng như vầy : Nguyện được tu tập thành tựu tăng trưởng tất cả cảnh giới rộng lớn vô ngại.
        Nguyện được ở trong chánh giáo của Phật, cho đến nghe được một câu, một bài kệ, đều thọ trì diễn nói.
        Nguyện nghĩ nhớ được tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, vô lượng vô biên tất cả thế giới, đồng với pháp giới. Nghĩ nhớ rồi, liền tu hạnh Bồ Tát
Lại nguyện đem căn lành niệm Phật nầy, vì tất cả chúng sinh, trong một thế giới, hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát. Như trong một thế giới, tận pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới, cũng đều như vậy. Như vì một chúng sinh, vì tất cả chúng sinh, cũng lại như vậy. Dùng phương tiện khéo léo, thảy đều làm. Hết kiếp thuở vị lai, dùng đại thệ nguyện trang nghiêm, trọn không lìa nghĩ đến Phật thiện tri thức. Thường thấy chư Phật hiện ra ở trước, chẳng có một vị Phật nào ra đời, mà không được gần gũi.
Tất cả chư Phật và các Bồ Tát, khen ngợi diễn nói phạm hạnh thanh tịnh, thệ nguyện tu hành, đều khiến cho viên mãn.
Đó là : Phạm hạnh không phá. Phạm hạnh không thiếu. Phạm hạnh không tạp. Phạm hạnh không vết. Phạm hạnh không mất. Phạm hạnh không che đậy. Phạm hạnh được khen ngợi. Phạm hạnh không chỗ nương. Phạm hạnh không chỗ được. Phạm hạnh thanh tịnh tăng ích cho Bồ Tát. Phạm hạnh chư Phật ba đời thực hành. Phạm hạnh vô ngại. Phạm hạnh không chấp trước. Phạm hạnh không tranh. Phạm hạnh không diệt. Phạm hạnh an trụ. Phạm hạnh không gì sánh bằng. Phạm hạnh không động. Phạm hạnh không loạn. Phạm hạnh không sân hận.
Phật tử ! Nếu đại Bồ Tát vì mình tu hành phạm hạnh thanh tịnh như vậy, tức khắp vì tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được an trụ. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được khai ngộ thấu hiểu. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được không dơ bẩn. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được chiếu sáng. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các bụi trần nhiễm ô. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các sự chướng ngại. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các nhiệt não. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các sự trói buộc. Khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi các điều ác. Khiến cho tất cả chúng sinh không còn các não hại, rốt ráo được thanh tịnh.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát tự mình ở nơi phạm hạnh không được thanh tịnh, thì không thể khiến cho họ được thanh tịnh.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự thối chuyển, thì không thể khiến cho họ được không thối chuyển.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự mất hoại, thì không thể khiến cho họ không có sự mất hoại.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự xa lìa, thì không thể khiến cho họ thường không xa lìa.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự giải đãi, thì không thể khiến cho họ không sinh sự giải đãi.
Mình ở nơi phạm hạnh mà không sinh tin hiểu, thì không thể nào khiến cho họ sinh tin hiểu.
Mình ở nơi phạm hạnh mà không an trụ, thì không thể nào khiến cho họ được an trụ.
Mình ở nơi phạm hạnh mà không chứng nhập, thì không thể nào khiến cho tâm họ chứng nhập được.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự buông bỏ, thì không thể nào khiến cho họ luôn không buông bỏ.
Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự tán động, thì không thể nào khiến cho tâm họ không tán động.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát trụ hạnh không điên đảo, nói pháp không điên đảo, lời nói thành thật. Như nói về tu hành, thanh tịnh thân, miệng, ý, lìa khỏi các tạp nhiễm, trụ hạnh vô ngại, diệt tất cả chướng ngại.
Đại Bồ Tát tự mình được tâm thanh tịnh, cũng vì họ diễn nói pháp tâm thanh tịnh.
Tự mình tu hoà nhẫn, dùng các căn lành điều phục tâm mình, cũng khiến cho họ hoà nhẫn, dùng các căn lành điều phục tâm mình.
Tự mình lìa khỏi nghi hối, cũng khiến cho người khác vĩnh viễn lìa khỏi nghi hối.
Tự mình được niềm tin thanh tịnh, cũng khiến cho họ được niềm tin thanh tịnh bất hoại.
Tự mình trụ chánh pháp, cũng khiến cho chúng sinh an trụ chánh pháp.
Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành do bố thí pháp sinh ra hồi hướng như vầy :
Nguyện cho tôi đắc được pháp môn vô tận của tất cả chư Phật, khắp vì chúng sinh phân biệt giải nói, đều khiến cho họ hoan hỉ, tâm được đầy đủ, tiêu diệt tất cả ngoại đạo dị luận.
Nguyện cho tôi có thể vì tất cả chúng sinh, diễn nói biển pháp của chư Phật ba đời.
        Nơi sinh khởi của mỗi mỗi pháp, nghĩa lý của mỗi mỗi pháp, danh ngôn của mỗi mỗi pháp, an lập của mỗi mỗi pháp, giải nói của mỗi mỗi pháp, hiển bày của mỗi mỗi pháp, môn hộ của mỗi mỗi pháp, ngộ nhập của mỗi mỗi pháp, quán sát của mỗi mỗi pháp, phân vị của mỗi mỗi pháp, đều được vô biên vô tận pháp tạng. Đắc được vô sở uý, đủ bốn biện tài, rộng vì chúng sinh phân biệt giải nói, hết thuở vị lai cũng không hết được.
      Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, lập chí nguyện thù thắng, sinh ra biện tài vô ngại không sai lầm.
      Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh hoan hỉ. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả pháp thanh tịnh quang minh, tuỳ theo loại tiếng, diễn nói không dứt. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, tin sâu hoan hỉ, trụ nhất thiết trí, thấu rõ các pháp, không có mê hoặc.
            Bồ Tát tự nghĩ rằng : Tôi sẽ ở khắp trong tất cả thế giới, vì các chúng sinh tinh tấn siêng năng tu tập. Được vô lượng thân tự tại khắp pháp giới. Được tâm rộng lớn vô lượng khắp pháp giới. Đầy đủ vô lượng âm thanh thanh tịnh đồng pháp giới. Thị hiện vô lượng chúng hội đạo tràng đồng pháp giới. Tu vô lượng nghiệp của Bồ Tát đồng pháp giới. Được vô lượng trụ của Bồ Tát đồng pháp giới. Chứng được vô lượng bình đẳng của Bồ Tát đồng pháp giới. Học vô lượng pháp của Bồ Tát đồng pháp giới. Trụ vô lượng hạnh của Bồ Tát đồng pháp giới. Vào vô lượng hồi hướng của Bồ Tát đồng pháp giới.
      Đó là đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng, vì khiến cho chúng sinh đều được thành tựu nhất thiết trí.

            Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành hồi hướng như vầy. Đó là : Vì muốn thấy vô lượng chư Phật đồng pháp giới. Điều phục vô lượng chúng sinh đồng pháp giới. Trụ trì vô lượng cõi Phật đồng pháp giới. Chứng vô lượng trí của Bồ Tát đồng pháp giới. Đắc được vô lượng vô sở uý đồng pháp giới. Thành tựu vô lượng Đà la ni của các Bồ Tát đồng pháp giới. Đắc được vô lượng trụ không nghĩ bàn của các Bồ Tát đồng pháp giới. Đủ vô lượng công đức đồng pháp giới. Tròn đầy vô lượng căn lành lợi ích chúng sinh đồng pháp giới.

No comments:

Post a Comment