Kệ :
Quang minh biến
chiếu mãn tam thiên
Cử tâm động niệm
hào phát gian
Tức diệt tích tập
phá hắc ám
Hữu tình viễn ly
điên đảo điên.
Tạm dịch :
Quang minh chiếu
khắp đầy các cõi
Cử tâm động niệm
bằng sợi tóc
Tức diệt nghiệp
xưa phá đen tối
Hữu tình xa lìa
điên đảo điên.
Giảng giải: Câu
này tức là "Lô Xá Na Phật". Lại gọi "Tịnh mãn" tức là thanh
tịnh lại viên mãn. Cho nên nói : ‘’Quang minh chiếu khắp đầy các cõi.’’ Chiếu
khắp tức là không có chỗ nào mà chẳng chiếu đến, kể cả chiếu triệt tâm niệm của
chúng sinh. Cho nên nói: ‘’Cử tâm động niệm bằng sợi tóc.’’ Chúng sinh khởi tâm
động niệm chỗ vi tế nhất, chỗ chẳng ai biết, thì quang minh này đều có thể chiếu
đến. Cho đến chỗ đó vi tế nhỏ bằng sợi tóc cũng đều không thể bỏ xót được.
‘’Tức diệt nghiệp
xưa phá đen tối.’’ Tức diệt tập khí của chúng sinh tích lũy đời đời kiếp kiếp.
Chúng ta từ vô lượng kiếp đến bây giờ, tích lũy những tập khí này không biết là
bao nhiêu, có thể cao như núi Tu Di, sâu như biển Hương Thủy. Thứ tập khí này,
nếu tội nghiệp có hình tướng thì tập khí của một người có thể đầy khắp hư
không, không có chỗ chứa đựng. Vì nó chẳng có hình tướng, cho nên không cần tìm
kho chứa đựng, nhưng bạn không thể nói nó chẳng có. Thế mà một tia quang minh
chiếu khắp, thì phá trừ những tích tập đen tối này.
‘’Hữu tình xa lìa
điên đảo điên.’’ Hữu tình là tên khác của chúng sinh. Quang minh này có tác dụng
gì ? Tức là khiến cho chúng ta lìa khỏi điên đảo tập khí, đừng có điên đảo tập
khí tồn tại nhiều như thế.
177. Bạt xà ra đốn
trĩ giá.
Kệ :
Kình sơn trì chử
chúng Kim Cang
Thiên ma ngoại đạo
các viễn dương
Hàng phục ma quỷ
quy Tam Bảo
Oai đức cảm hoá
nhật dạ mang.
Tạm dịch :
Chúng Kim Cang
bưng núi cầm chùy
Thiên ma ngoại đạo
đều trốn thoát
Hàng phục quỷ thần
quy Tam Bảo
Oai đức cảm hóa bận
ngày đêm.
Giảng giải : Bạt
Xà Ra là "Kim Cang". Ðốn Trĩ Giá là "Kim Cang bưng núi".
Trong đó cũng kể cả "Kim Cang cầm chùy". Kim Cang bưng núi hiện đại
oai tướng, cho nên: ‘’Thiên ma ngoại đạo đều trốn thoát.’’ Thiên ma ngoại đạo
khi thấy Kim Cang bưng núi cầm chùy thì đều sợ hãi bỏ chạy trốn.
‘’Hàng phục quỷ
thần quy Tam Bảo.’’ Các Ngài có uy đáng sợ, có đức đáng kính. Tất cả quỷ thần đều
ngưỡng vọng quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng.
‘’Oai đức cảm hóa
bận ngày đêm.’’ Những vị Kim Cang hiện tướng đại oai đức để cảm hóa chúng sinh,
là dùng pháp môn triết phục. Các Ngài rất bận rộn, không kể ngày đêm, tùy thời
tùy lúc, thấy chúng sinh nào cơ duyên thành thục, thì liền đi giáo hóa chúng
sinh đó, khiến cho họ cải tà quy chánh, bỏ mê về giác, sớm thành quả giác bồ đề.
178. Thuế đa giá.
Kệ :
Bạch sắc bạch
quang bạch liên hoa
Chiếu thiên chiếu
địa chiếu ảnh tà
Sơn diêu hải khiếu
thanh oai viễn
Tâm duyệt thành
phục quy chánh pháp.
Tạm dịch :
Màu trắng quang
trắng hoa sen trắng
Chiếu trời chiếu
đất chiếu đen tối
Núi động biển gào
tiếng vang xa
Tâm duyệt thành
thục quy chánh pháp.
Giảng giải: Chú
Lăng Nghiêm là linh văn trong Phật giáo. Sao gọi là linh văn ? Tức là câu Chú
linh diệu không thể nghĩ bàn. Chú Lăng Nghiêm là Chú dài nhất trong Phật giáo.
Diệu dụng của nó chỉ có Phật mới rõ được, cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát cũng không
thể thấu hiểu hết hoàn toàn. Vậy tôi là một Tỳ Kheo bình thường, làm sao giải
thích Chú Lăng Nghiêm ? Vốn không thể giải thích, nhưng tôi có một chứng bệnh,
không làm được vẫn cứ muốn làm, giải thích không được vẫn muốn giải thích, bất
chấp mọi khó khăn, những gì tôi biết như giọt nước trong biển. Tôi nói cho mọi
người nghe, hy vọng các bạn thâm nhập hơn, nhiều hơn sự hiểu biết của tôi, đây
là tông chỉ giải thích Chú Lăng Nghiêm của tôi. Tuy nhiên, không thể giải
thích, nhưng vẫn muốn giải thích, hy vọng các vị có sự hứng thú đối với Chú
Lăng Nghiêm, có tín tâm, hiểu rõ Chú Lăng Nghiêm, ít nhất cũng hiểu nhiều hơn
so với tôi.
Câu Thuế Ða Giá
này dịch là "Trắng". Tức là không đen tối, quang minh chiếu khắp,
pháp bạch tịnh trắng khiết không nhiễm. Cho nên nói: ‘’Màu trắng quang trắng
hoa sen trắng.’’ Trong Kinh Di Ðà chẳng nói màu xanh quang minh xanh, màu trắng
quang minh trắng, màu vàng quang minh vàng, màu đỏ quang minh đỏ đó sao ? Hoa
sen màu trắng, thì có quang minh màu trắng. Quang minh này chiếu trời chiếu đất,
trên đến trời Hữu Đỉnh, dưới đến địa ngục Vô Gián, đều chiếu khắp hết, tất cả
bóng tối đều diệt mất.
‘’Núi động biển
gào tiếng vang xa.’’ Thần Kim Cang hộ trì Thần Chú ở phương tây, chỉ một cái cất
tay giở chân, thì đều khiến cho núi lay đất động, tiếng tăm oai phong của các
Ngài, khiến cho thiên ma ngoại đạo đều kinh hãi sợ sệt.
‘’Tâm duyệt thành
thục quy chánh pháp.’’ Cũng khiến cho chúng phát tâm bồ đề, trong tâm sinh hoan
hỷ, xả bỏ tà tri tà kiến, quy y chánh pháp. Bạn thấy thiện thần hộ pháp trong
Phật giáo, các Ngài giống như là hung ác không hiền, cho nên nói nộ mục (trợn mắt)
Kim Cang, nhưng đều làm cho yêu ma quỷ quái kinh sợ, khiến cho chúng hàng phục,
khiến cho chúng cải tà quy chánh, nhưng thần hộ pháp không nhất định đánh người,
giết người, chỉ là hiện ra tướng mạo hung ác, khiến cho người phát bồ đề tâm, cải
ác hướng thiện. Ý của bạn ác chăng ? Tôi so với bạn còn ác hơn ! Bạn lợi hại
chăng ? Tôi so với bạn còn lợi hại hơn ! Ðây đều là phương tiện pháp môn để
hàng phục chúng sinh.
179. Ca ma ra.
Kệ :
Liên hoa toà thượng
đại Pháp Vương
Đông tây nam bắc thủ trung ương
Nhất thiết hộ giới thần nỗ lực
Ngũ phương ngũ bộ ngũ Phật quang.
Tạm dịch :
Ðại Pháp Vương ngồi trên tòa sen
Ðông tây nam bắc giữa trung ương
Tất cả hộ giới thần nỗ lực
Năm phương năm bộ năm Phật quang.
Giảng giải : Ca Ma Ra dịch là "Tòa hoa sen", trên
tòa hoa sen tất phải có Phật, nếu chỉ có tòa hoa sen đâu có ý nghĩa gì ! Trên
tòa hoa sen lớn báu, có đấng đại Pháp Vương ngồi thẳng ngay ngắn. Ðại Pháp
Vương tức là Phật.
‘’Ðại Pháp Vương ngồi trên tòa sen.’’ Phương đông có tòa
sen, phương tây, phương bắc, phương nam, chính giữa, cũng đều có tòa sen, mười
phương chư Phật ngồi ở trên. Giới bên trong của mỗi vị Phật đều có Kim Cang thiện
thần hộ giới. Cho nên nói: ‘’Tất cả hộ giới thần nỗ lực.’’ Tất cả Kim Cang thiện
thần hộ giới rất chú ý giữ gìn bảo vệ đạo tràng.
‘’Năm phương năm bộ năm Phật quang.’’ Ðông tây nam bắc và
chính giữa. Phương đông là Kim Cang bộ, quang minh phóng ra là màu xanh quang
xanh. Phương nam là Bảo Sinh Bộ, quang minh phóng ra là màu đỏ quang đỏ. Chính
giữa là Phật bộ, quang minh phóng ra là màu vàng quang vàng. Phương Tây là Liên
Hoa bộ, quang minh phóng ra là màu trắng quang trắng. Phương bắc là Yết Ma bộ,
quang minh phóng ra là màu đen quang minh đen. Năm bộ, năm phương, năm vị Phật
này, cai quản năm đại ma quân trên thế giới. Cho nên pháp môn Chú Lăng Nghiêm,
nói đi nói lại là án chiếu theo năm hướng năm bộ năm vị Phật mà nói. Hôm nay là
nói về phương tây Liên Hoa bộ. Mỗi phương có thần hộ giới của mỗi phương. Giới
tức là giới hạn, trong giới hạn này thì vị thần đó phải chịu trách nhiệm. Giống
như các quốc gia trên thế giới đều có phân chia ranh giới, trong Phật giáo cũng
thế. Mỗi địa phương có một vị Phật đến quản lý. Phương đông Kim Cang Bộ là Phật
A Súc, đây là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Phương nam là Bảo Sinh bộ Phật Bảo
Sinh. Chính giữa là Phật bộ Tỳ Lô Giá Na Phật. Phương tây là Liên Hoa bộ Phật A
Di Ðà. Phương bắc là Yết Ma bộ Phật Thành Tựu. Bộ đó thì vị Phật đó đến quản
lý, chúng ta phải biết.
Tu tập pháp môn Lăng Nghiêm phải đem chân tâm, thành tâm, ra
tu tập. Gì gọi là chân tâm ? Tức là tu trì Chú Lăng Nghiêm, cho đến thời gian
cũng quên, không gian cũng chẳng có, là ngày, là đêm, đều chẳng biết, ăn cơm,
không ăn cơm, cũng chẳng biết, ngủ, không ngủ cũng chẳng biết, gì cũng đều quên
hết, gì cũng chẳng có. Một niệm dài giống như vô lượng kiếp, vô lượng kiếp làm
một niệm. Phải có tinh thần như thế. Ăn cơm ngủ nghỉ gì cũng đều quên hết. Chỉ
nhất tâm tu hành Chú Lăng Nghiêm, nhất định thành tựu Lăng Nghiêm tam muội.
Không được như thế thì đừng nói đến chân chánh tu pháp môn Lăng Nghiêm. Không
chỉ tu pháp Lăng Nghiêm như thế, mà tu pháp gì cũng đều như thế. Ði chẳng biết
đi, ngồi chẳng biết ngồi, khát chẳng biết khát, đói chẳng biết đói. Vậy chẳng
phải là người biến thành ngu si nhất chăng ? Tức là phải như thế ! Ðó mới gọi
là :
‘’Dưỡng thành khờ khạo mới là khéo
Học đến như ngu mới thấy lạ.’’
Nếu bạn học đến ngu si được như thế, thì bất cứ bạn tu pháp
môn nào, cũng đều đắc được tam muội, đều sẽ thành tựu. Tức vì bạn không thể ngu
si, không thể chân chánh thâm nhập cảnh giới tam muội, cho nên tu đi tu lại
cũng chẳng tương ưng. Bạn tu được tự mình sống chết đều chẳng biết. Có người nhận
rằng pháp môn này đáng sợ quá. Nếu bạn sợ thì hãy mau thối lùi, đừng học. Trên
thế gian chẳng có việc gì không mệt nhọc mà hoạch được. Cho nên :
‘’Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi.’’
Bạn ngửi được hương thơm của hoa mai như thế, là do sự hun
đúc lạnh mà ra, nó chịu lạnh sau đó mới tỏa ra hương thơm. Người tu đạo cũng phải
như thế.
Bên ngoài nói người Vạn Phật Thành khổ tu, tôi tuyệt đối phủ
nhận tin đồn này. Chúng ta chẳng phải
là khổ tu, là lạc tu. Ai tu hành chịu khổ đều là cam tâm tình nguyện, chẳng phải
miễn cưỡng. Chúng ta đều muốn buông bỏ cái giả, lượm nhặt cái thật. Có câu rằng
:
‘’Bỏ không được
cái giả,
Không thành được
cái thật.
Bỏ không được cái
chết,
Ðổi không được
cái sống.’’
Tu hành chẳng phải
như pháp thế gian, dùng thủ đoạn thì không đắc được tam muội. Tu hành thì thủ
đoạn gì cũng không thể dùng. Tức là phải thành thật hết lòng dụng công tu hành,
đó mới kể. Nếu bạn có chút giả dối, cũng không thể mong được thành tựu. Luôn
luôn phải thành thật dụng công. Nhẫn những gì người không thể nhẫn, nhường những
gì người không thể nhường. Phải ngày đêm sáu thời thường tinh tấn như thế mới đắc
được cảm ứng. Mười phương chư Phật đánh điện tín cho bạn nói : ‘’Thiện tai !
Thiện tai! Bạn là một Phật tử trong Phật giáo.’’ Ðiện tín mà mười phương chư Phật
đánh cho bạn không giống như điện tín nhân gian phải dùng chữ, mà là dùng tâm ấn
tâm, quang quang tương chiếu, tâm tâm tương ấn, khiến cho bạn khai đại trí huệ,
đắc đại biện tài, đắc được đại an lạc. Ðiều mà đại trượng phu làm được thì làm
xong, việc mà đại trượng phu nên làm đều hoàn thành.
180. Sát xa thi.
Kệ :
Oai đức thị hiện
chư Đại Sĩ
Tràng phan bảo
cái các kình trì
Hoá đạo chúng
sinh tu giác đạo
Đồng thừa viên
mãn pháp thuyền trì.
Tạm dịch :
Các Ðại Sĩ oai đức
thị hiện
Ðều cầm giữ tràng
phan lọng báu
Giáo hóa chúng
sinh tu giác đạo
Ðồng ngồi pháp
thuyền lên bờ giác.
Giảng giải : Sát
Xa Thi dịch là "Phan", lại dịch là "Can". Can là một thứ
dùng để chống đỡ lọng báu, những thứ này đều là Hộ Pháp thiện thần Kim Cang lực
sĩ, cũng là đại quyền thị hiện. Ðại quyền nghĩa là quá khứ đã thành Phật, hoặc
là đã chứng đắc quả vị Ðẳng Giác Bồ Tát. Bây giờ ẩn lớn hiện nhỏ, để làm Hộ
Pháp Kim Cang. Các Ngài đều có đại oai đức. Cho nên nói : ‘’Các đại lực sĩ oai
đức thị hiện.’’ Kim Cang lực sĩ đều là đại Bồ Tát.
‘’Ðều cầm giữ
tràng phan lọng báu.’’ Các Ngài mỗi người đều cầm tràng, phan, lọng báu. Mỗi vị
Kim Cang lực sĩ đều cầm những thứ cúng dường cụ này để trang nghiêm đạo tràng.
‘’Giáo hóa chúng
sinh tu giác đạo.’’ Các Ngài giáo hóa tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm, tu vô
thượng bồ đề đạo.
‘’Ðồng ngồi pháp
thuyền lên bờ giác.’’ Các Ngài đều ngồi đại pháp thuyền để cứu độ chúng sinh
trong biển khổ, khiến họ đạt đến bờ bên kia giác ngộ.
181. Ba ra bà.
Kệ :
Hằng sa lực sĩ hiện
đại thân
Quang minh viễn
chiếu diệu vô luân
Thủ hộ giám sát
nam phương giới
Ác giả tất đoạ
thiện giả thăng.
Tạm dịch :
Hằng sa lực sĩ hiện
thân lớn
Quang minh chiếu
xa diệu vô ngần
Giám sát thủ hộ
cõi phương nam
Kẻ ác bị đọa thiện
thăng lên.
Giảng giải : ‘’Hằng
sa lực sĩ hiện thân lớn.’’ Có các Kim Cang lực sĩ nhiều như số các sông Hằng hiện
thân vàng.
‘’Quang minh chiếu
xa diệu vô ngần.’’ Trên thân của các Ngài đều phóng quang chiếu xa, rất vi diệu.
Chẳng có thiên ma ngoại đạo nào có thể so sánh phỏng theo các Ngài.
‘’Giám sát thủ hộ
cõi phương nam.’’ Câu này là chỉ giám sát hộ pháp ở phương nam.
‘’Kẻ ác bị đọa
thiện thăng lên.’’ Người làm ác nhất định bị đọa lạc, người làm lành thì nhất định
được thăng đi lên, hoặc thăng lên trời, hoặc làm sự việc họ cần làm.
182. Ê đế di dế.
Kệ :
Giải thoát tinh cần
hộ thập phương
Tam tai bát nạn
miễn hại thương
Thế giới hải bình dân an lạc
Đồng tu cộng chứng bồ đề đường.
Tạm dịch :
Giải thoát tinh tấn hộ mười phương
Ba tai tám nạn không làm hại
Thế giới thanh bình dân an lạc
Ðồng tu cùng chứng quả bồ đề.
Giảng giải : Ê Ðế dịch là "Giải thoát", Di Ðế dịch
là "Tinh tấn". Ðây là Hộ Pháp Bồ Tát, đến hộ trì đạo tràng. Cho nên
nói : ‘’Giải thoát tinh tấn hộ mười phương.’’ Hộ trì đạo tràng trong mười
phương.
‘’Ba tai tám nạn không làm hại.’’ Ba tai là nước, lửa, gió. Tám nạn là :
1. Nạn sinh ra
trước Phật hoặc là sau Phật.
2. Nạn sinh vào Bắc
Câu Lưu Châu (Bắc Câu Lưu Châu không nghe đến Phật pháp).
3. Nạn thế trí biện
thông.
4. Nạn điếc đui
câm ngọng.
5. Nạn địa ngục.
6. Nạn ngạ quỷ.
7. Nạn súc sinh.
8. Nạn sinh vào
trời trường thọ.
‘’Thế giới thanh bình dân an lạc.’’ Nếu thế giới thanh bình
thì nhân dân đắc được an lạc.
‘’Ðồng tu cùng chứng quả bồ đề.’’ Mọi người đồng tu cùng chứng
đạo quả bồ đề.
183. Mẫu đà ra.
Kệ :
Trí ấn tam muội định trung vương
Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng
Chúng sinh tâm trung các câu túc
Kiền thành cầu chi tự phóng quang.
Tạm dịch :
Trí ấn tam muội vua trong định
Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng
Trong tâm chúng sinh đều có đủ
Kiền thành cầu chi tự phóng quang.
Giảng giải: Mẫu Ðà Ra dịch là "Ấn", tức là trí ấn.
‘’Trí ấn tam muội vua trong định.’’ Trí ấn tam muội có thể nói là vua trong định.
‘’Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng.’’ Lại dịch là "Diệu
phổ", thành tựu kiến lập đại đạo tràng.
‘’Trong tâm chúng sinh đều có đủ.’’ Mỗi chúng sinh đều đầy đủ
trí ấn tam muội.
‘’Kiền thành cầu chi tự phóng quang.’’ Phàm là người tu
hành, nếu có tâm thành thì nhất định sẽ có cảm ứng, nhất định phóng đại quang
minh.
184. Yết noa.
Kệ :
Tác pháp biện sự trí huệ phong
Duy hộ bắc phương giới thần minh
Kim Cang Tỳ Lô tâm sở hiện
Y giáo tu hành bất giảm tăng.
Tạm dịch :
Tác pháp biện sự trí huệ phong
Thần minh duy hộ cõi phương bắc
Kim Cang Tỳ Lô tâm sở hiện
Y giáo tu hành không tăng giảm.
Giảng giải : Yết Noa dịch là "Tác pháp biện sự", lại
gọi là "Sám ma", nghĩa là ăn năn hối cải. Nghiệp mà chúng ta tạo ra,
phải biết hối cải. Nếu không biết hối cải, thì tội lỗi ngày càng nhiều, ngày
càng sâu dày. Cho nên cổ nhân có nói :
‘’Lỗi mà biết sửa thì sẽ tiêu sạch
Nếu che dấu thì tăng tội khiên.’’
Có lỗi nếu ăn năn hối cải, thì sẽ chẳng còn nữa. Nếu che dấu
tội lỗi của mình cho rằng người không biết, thì tội lỗi ngày càng gia tăng. Tại
sao ? Vì tội nghiệp vốn sửa đổi được, sám hối trước đại chúng là hành vi của đại
trượng phu. Cho nên nói : ‘’Lỗi của quân tử như nhật nguyệt thực, ai ai cũng thấy,
nếu ăn năn hối cải, thì ai ai cũng tán thán.’’ Cho nên lại nói :
‘’Có lỗi thì chớ nãn lòng sửa đổi.’’
Có lỗi đừng sợ sửa đổi. Nếu bạn sợ sửa đổi, sợ người biết,
chứa chấp che đậy, thì tội lỗi ngày càng tăng thêm. Bổn lai chỉ một tội, lại
thêm tồn tâm che đậy, thì biến thành hai tội. Nếu bạn tiếp tục che đậy, thì biến
thành vô lượng số. Cho nên bất cứ chúng ta phạm tội lớn gì, nên lập tức sửa đổi,
không thể kéo dài ! Như đức Khổng Tử, Ngài đạo đức học vấn như thế, Ngài cũng
không sao tránh khỏi lỗi lầm, mặc dù lỗi lầm ít. Chúng ta là những chúng sinh
ngu si, làm sao không thể không có lỗi ? Sám ma tức là hối quá, tức là sám hối. Cho nên thiện trí thức tác pháp biện
sự, làm pháp Yết ma, pháp sám hối, làm tốt việc hối quá. Người có đại trí huệ,
mới biện lý được việc sám hối. Cho nên nói : ‘’Tác pháp biện sự trí huệ
phong.’’
‘’Thần minh duy hộ
cõi phương bắc.’’ Ðây là thần chúng Yết Ma, phương bắc Yết Ma bộ, chuyên môn quản
vấn đề người sám hối. Kim Cang Bồ Tát duy hộ thần chúng phương bắc Yết Ma.
‘’Kim Cang Tỳ Lô
tâm sở hiện.’’ Hộ pháp Kim Cang này, tức là Kim Cang thượng sư, tức là tu pháp
Niết Bàn, trong tâm Tỳ Lô hiện ra tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát. Những
vị Bồ Tát này biến hiện ra.
‘’Y giáo tu hành
không tăng giảm.’’ Bạn phải y chiếu pháp môn này tu hành, thì bồ đề chỉ có
tăng, chứ không có giảm. Ðó là nhân duyên Yết Ma.
Nói đến sám hối
làm mới, tạo tội đừng che dấu, đừng cho rằng người chẳng biết. Người đương
nhiên không biết, nhưng Phật Bồ Tát và tất cả hộ pháp thiện thần đều biết. Bạn
dối được người, nhưng dối không được Phật, dối không được Bồ Tát, dối không được
hộ pháp thiện thần. Hộ pháp thiện thần biết bạn giả dối gạt người, Ngài tuyệt đối
không bảo hộ bạn. Tại sao hộ pháp xa bạn ? Vì bạn tạo tội nghiệp quá lợi hại, hộ
pháp thiện thần không dám gần gũi bạn, cho nên làm bất cứ việc gì, cũng không
có cảm ứng, cũng không thành tựu. Chúng ta người tu hành:
‘’Cử chỉ hành vi
đều quán xét chính mình,
Đi đứng nằm ngồi
đừng rời nhà.’’
Trong chúng xuất
gia, Tỳ Kheo không được mắng Tỳ Kheo, vậy có thể mắng Tỳ Kheo Ni chăng ? Cũng
không thể được. Tỳ Kheo ác miệng mắng người tương lai sẽ đọa địa ngục. Tỳ Kheo
không có tư cách lại mắng Tỳ Kheo, cũng không có tư cách mắng Tỳ Kheo Ni. Phàm
là sân tâm mắng người, đều tạo tội nghiệp. Không những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni
không thể mắng người, mà người tại gia cũng không thể mắng người, tuỳ tiện mắng
người là phạm giới ác thuộc về miệng, phạm giới ác thuộc về miệng, thì ba nghiệp
không thanh tịnh.
185. Ta bệ ra
sám.
Kệ :
Cầu chứng sám hối
thân khẩu ý
Tam nghiệp thanh
tịnh vô hà tỳ
Trì giới tinh
nghiêm như mãn nguyệt
Sát na cảm ứng
siêu Thập địa.
Tạm dịch :
Cầu chứng sám hối
thân miệng ý
Ba nghiệp thanh tịnh
không lầm lỗi
Trì giới tinh
nghiêm như trăng tròn
Khoảnh khắc cảm ứng
lên Thập địa.
Giảng giải: Ta Bệ
Ra Sám tức là "Tổng kết lại Chú đã nói ở trên", đến đây tổng kết lại,
tổng kết cầu chứng minh. Cho nên nói : ‘’Cầu chứng sám hối thân miệng ý.’’ Bất
cứ tu diệu pháp gì, nếu thân miệng ý ba nghiệp, không thanh tịnh thì sẽ không
thành tựu. Nghĩa là Chú Ðại Bi dù có linh cảm nhất, bạn tu cũng không linh. Tại
sao ? Vì thân miệng ý không thanh tịnh. Cho nên phải sám hối, khiến cho thân
không có sát sinh, trộm cắp, tà dâm, cho đến trong ý niệm của bạn cũng không có
niệm sát sinh, niệm trộm cắp, niệm dâm dục. Miệng cũng không nói lời sát sinh,
lời dạy người ăn cắp, lời dạy người gian dâm. Phải đem thân miệng ý sám hối hối
cho thanh tịnh.
‘’Ba nghiệp thanh
tịnh không lỗi lầm.’’ Thanh tịnh là gì ? Tức là một niệm cũng chẳng có. Thân
không phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng không có ác miệng, nói dối, hai lưỡi,
thêu dệt. Ác miệng tức là mắng người, nói dối tức là nói lời giả, hai lưỡi tức
là làm cho ly gián, thêu dệt là những lời không thanh tịnh, nhiễm ô, không hợp
lý, lời vô nghĩa. Trong tâm tham sân si cũng chẳng có. Ðó gọi là ba nghiệp
thanh tịnh không lỗi lầm. Giống như ngọc không có vết, một chút mao bệnh cũng
chẳng có.
’’Trì giới tinh
nghiêm như trăng tròn.’’ Tinh nghiêm là gì ? Tinh là vi tế nhất, lỗi lầm nhỏ nhất
cũng không phạm. Nghiêm là đặc biệt chú ý, tơ hào cũng không phạm. Bạn không tu
hành mà kêu người khác tu, thì họ cũng chẳng tu. Mình không dụng công, không giữ
giới, sẽ ảnh hưởng đến người khác cũng phạm giới. Ðó là chỗ trì giới không tinh
nghiêm. Trì giới phải tinh nghiêm như vầng trăng tròn, tròn đầy không khuyết.
Bây giờ mình không tu hành, đọa lạc, cũng lôi kéo người khác đọa lạc. Như vậy
thì không những không có trăng mà hình ảnh mặt trăng cũng chẳng có ! Nếu trì giới
thanh tịnh như trăng tròn, thì lúc này: ‘’Khoảnh khắc cảm ứng lên Thập địa.’’ Rất
nhanh, thời gian rất ngắn bèn có đại cảm ứng, mau lên Thập địa chẳng việc gì
khó.
Chúng ta phải thể
hội sâu xa, xuất gia đã lâu, ba năm, năm năm, mười năm, trong thời gian này phản
tỉnh rằng tạo nghiệp nhiều ? Hay là tu hành nhiều ? Các vị phải biết ! Phàm là
trong đạo tràng đều có ma. Ma này chẳng phải từ trên trời xuống, hoặc là từ dưới
đất lên, mà là đến từ trong tâm của các vị. Trong tâm của một người không chánh
đáng, không có trí huệ chân chánh, chuyên làm việc ngu si, gây phiền não cho
người khác, nhiễu loạn người khác tu hành, đó đều gọi là ma. Ma này ở trong mỗi
người mà không nhận thức, khắp các nơi đều có. Ví như trong đạo tràng, như đi
nghe pháp, ngồi tại đó đều ngồi không yên, đứng không ổn, tay cũng phải động đậy,
chân cũng phải động đậy, đầu cũng lúc lắc. Ngồi nghe pháp đều cảm thấy không
thoải mái, hơn nữa trong tâm đều nổi giận. Ðó là nghiệp chướng, đức hạnh của
mình không đủ, cho nên nghe pháp vô minh cũng đến, thần ngủ cũng đến. Tóm lại
tâm cầu pháp một chút cũng chẳng có, miễn cưỡng đến nghe pháp, tức là tồn một
thứ tư tưởng cống cao ngã mạn. Cho rằng tôi giảng hay hơn bạn, tại sao phải
nghe bạn nói pháp. Có thứ tư tưởng này còn tu được pháp gì nữa ? Bị nghiệp chướng
của mình che lấp hoàn toàn ! Thứ người này nghiệp chướng nặng nề, cho nên đối với
Kinh điển đại thừa không thể vào được, bất cứ nói thế nào họ cũng không hiểu.
186. Quật phạm
đô.
Kệ :
Chư Phật Thế Tôn
đại từ bi
Phương tiện quyền
xảo độ luân hồi
Xả tà quy chánh hằng
tinh tấn
Thuỷ tri lai giả
chi khả truy.
Tạm dịch :
Chư Phật Thế Tôn
đại từ bi
Phương tiện quyền
xảo độ luân hồi
Bỏ tà về chánh
luôn tinh tấn
Ăn năn lỗi xưa
làm người mới.
Giảng giải : Quật
Phạm Ðô dịch là "Phật", "Như Lai", hoặc "Thế
Tôn". Cho nên nói : ‘’Chư Phật Thế Tôn đại từ bi.’’ Phật là từ bi nhất,
không nhớ lỗi lầm của chúng sinh. Bạn có tội lỗi gì, Ngài đều tha thứ cho bạn,
chỉ cần bạn sửa lỗi thì được.
‘’Phương tiện quyền
xảo độ luân hồi.’’ Phật dùng đủ thứ phương tiện, đủ thứ quyền xảo pháp môn độ
chúng sinh. Bạn thích ăn ngọt, thì cho bạn ăn một chút đường, bạn thích ăn cay,
thì cho bạn ăn một chút ớt. Chua ngọt đắng cay mặn, bạn thích gì thì cho bạn thứ
đó, khiến cho trong tâm của bạn vui vẻ, sau đó mới nói Phật pháp cho bạn nghe,
khiến cho bạn hiểu rõ thế gian là vô thường.
‘’Bỏ tà quy chánh
hằng tinh tấn.’’ Chúng sinh vốn chẳng muốn giữ quy cụ, tà tri tà kiến. Bây giờ
minh bạch rồi thì bỏ tà về chánh. Luôn tinh tấn tức là thường tu hành, thường
tinh tấn.
‘’Ăn năn lỗi xưa
làm người mới.’’ Mới biết dĩ vãng là đi sai, bây giờ phải luôn tinh tấn, tương
lai còn có thể thành tựu, còn có thể tu thành Phật.
187. Ấn thố na mạ
mạ toả.
Kệ :
Ấn khả chứng minh
ngã sở vi
Quang âm không
quá nan tái truy
Tùng thử cẩn thận
tu Thánh đạo
Khác tuân giới luật
thủ thanh quy.
Tạm dịch :
Ấn khả chứng minh
điều tôi làm
Thời gian trôi
qua khó tìm lại
Từ đây cẩn thận
tu Thánh đạo
Kính trọng giới
luật giữ thanh quy.
Giảng giải : Ấn
Thố Na dịch là "Ấn khả", "Minh chứng", hoặc là "Chứng
minh". Mạ Mạ là "Tôi", hoặc là "Điều tôi làm". Những
gì tôi làm, chư Phật Bồ Tát đều chứng minh cho tôi. Tôi làm việc tốt, thì chư
Phật Bồ Tát ấn chứng cho tôi. Tôi làm việc không tốt, thì chư Phật Bồ Tát an ủi.
Chúng ta nhất cử nhất động, đều phải giữ quy cụ, đừng để thời gian không qua.
‘’Thời gian trôi
qua khó tìm lại.’’ Quá khứ thì không thể tìm lại. Cho nên: ‘’Từ đây cẩn thận tu
Thánh đạo.’’ Bắt đầu từ hôm nay chúng ta phải cẩn thận chú ý tu đạo mà Thánh
nhân đã tu. Tu đạo mà Thánh nhân tu phải như thế nào ?
‘’Kính trọng giới
luật giữ thanh quy.’’ Phải cung kính giữ gìn giới luật, giữ quy cụ thanh tịnh của
Phật.
Hết đệ nhất
188. Ô hồng.
Kệ :
Tỳ Lô đảnh thượng
bạch hào quang
Phát thanh chấn
quỷ kinh si manh
Nhất thiết hàm thức
giai giác ngộ
Thú hướng vô đẳng
bồ đề tràng.
Tạm dịch :
Hào quang trắng
trên đảnh Tỳ Lô
Như sấm thức tỉnh
kẻ ngu mù
Tất cả chúng sinh
đều giác ngộ
Hướng về đạo bồ đề
vô thượng.
Giảng giải : Bây giờ giảng đến hội thứ hai (đệ thứ hai) của
Chú Lăng Nghiêm. Ô Hồng tức là chữ "Án". Chữ Án này có rất nhiều
nghĩa. Có nghĩa là: "Dẫn sinh", tức là dẫn sinh tất cả công đức. Có
nghĩa là: "Hàng phục", hàng phục thiên ma ngoại đạo. Có nghĩa là:
"Ủng hộ", ủng hộ tất cả chánh pháp. Có nghĩa là : "Ba
thân", đầy đủ pháp thân, báo thân, hóa thân. Cho nên khi niệm chữ Án, thì
quỷ thần đều phải chắp tay cung kính nghe mệnh lệnh, nếu không thì chúng sẽ bị
trừng phạt. Chữ Án như là chiếu chỉ của hoàng đế, văn võ bá quan đều phải quỳ
xuống lắng nghe.
Chữ Án là sự
thành tựu công đức, bạn có tu hành, thì niệm chữ Án sẽ có cảm ứng phi thường. Nếu
không có công đức, niệm gì cũng chẳng công hiệu. Do đó, việc quan trọng nhất của
sự tu hành là phải có công đức, có đạo đức. Bất cứ tu pháp linh như thế nào,
pháp thành tựu nhanh thế nào, nếu không có công đức tu, thì ngược lại sẽ chiêu
lại phi tai hành họa, vì hộ pháp thiện thần không bội phục bạn. Bạn tụng Chú muốn
chi phối chúng, nhưng chúng vốn không chịu bạn chi phối. Do đó, tu đạo quan trọng
nhất là phẩm đức, đạo đức, tư tưởng thuần chánh, phải có tâm từ bi hỷ xả.
‘’Bạch hào quang
trên đảnh Tỳ Lô.’’ Trong bạch hào quang lại thuyết pháp giáo hóa vô lượng chúng
sinh, trong đó âm thanh có tiếng mây sấm, tiếng mây sấm lớn, tiếng sư tử, tiếng
đại sư tử, đủ thứ diệu âm để diễn thuyết pháp. Khiến bạn vốn không muốn nghe,
cũng muốn nghe, không muốn tiếp thọ, cũng muốn tiếp thọ.
‘’Như sấm thức tỉnh
kẻ ngu mù.’’ Làm cho chúng sinh ngu si đều tỉnh giác, giống như sấm sét đánh thức
chúng sinh tỉnh mộng. Cầu danh cũng biết danh chẳng có ý nghĩa, cầu lợi cũng biết
tài lợi chẳng có giá trị gì. Cho nên biển khổ vô biên hồi đầu là bờ.
‘’Tất cả hàm thức
đều giác ngộ.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh đều giác ngộ. Hàm thức tức là tất cả
chúng sinh. Chúng sinh nghe Phật pháp thảy đều giác ngộ.
‘’Hướng về đạo bồ
đề vô thượng.’’ Hướng về đạo bồ đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đắc được địa
vị không thối lùi, niệm không thối lùi, hạnh không thối lùi, ba địa vị không thối
lùi.
189. Rị sắt yết
noa.
Kệ :
Trí quang an trụ vô kiến đảnh
Kim Cang bảo bộ chúng Bồ Tát
Kỳ trung thượng thủ Hư Không Tạng
Xuất lãnh chư thần hộ chánh pháp.
Tạm dịch :
Trí quang an trụ vô kiến đảnh
Kim Cang bảo bộ chúng Bồ Tát
Hư Không Tạng thượng thủ trong chúng
Xuất lãnh chư thần hộ chánh pháp.
Giảng giải: Lị Sắt dịch là "Trí quang an trụ", cho
nên nói: ‘’Trí quang an trụ vô kiến đảnh – Kim Cang bảo bộ chúng Bồ Tát.’’ Ðây
là chỉ tất cả các Bồ Tát trong Kim Cang bảo bộ.
‘’Hư Không Tạng thượng thủ trong chúng.’’ Bồ Tát thượng thủ
trong chúng này là Bồ Tát Hư Không Tạng.
“Xuất lãnh chư thần hộ chánh pháp.’’ Ngài xuất lãnh tất cả hộ
pháp thiện thần để hộ trì chánh pháp của Phật.
Tụng trì Chú Lăng Nghiêm mà hiểu rõ đạo lý của Chú, thì dễ
phát bồ đề tâm. Hiện tại mỗi câu Chú, tôi đều dùng đến bốn câu kệ thiển cạn nói
rõ ý nghĩa của Chú. Hy vọng mọi người hiểu rõ đại ý của mỗi câu mà thọ trì, đắc
được trí huệ tam muội tương ưng.
190. Bát lặt xá tất đa.
Kệ :
Trí độ cứu kính chư Phật mẫu
Liên Hoa pháp bộ vi diệu huyền
Thiện tai thành tựu chúng thắng nghiệp
Trực đáo Bảo Sở thật thí quyền.
Tạm dịch :
Trí độ rốt ráo mẹ chư Phật
Pháp bộ Liên Hoa vi diệu huyền
Lành thay thành tựu nghiệp thù thắng
Thẳng đến Bảo Sở thật thí quyền.
Giảng giải : Bát Lặt
tức cũng là Bát Nhã Ba La Mật, dịch là "Trí huệ đến bờ kia", có trí
huệ mới đến được bờ kia. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘’Trí huệ Ba La Mật là mẹ của tất
cả Bồ Tát, cũng là mẹ của tất cả chư Phật.’’ Bạn có trí huệ thì đến được bờ
kia, đến được bờ kia mới dứt được sinh tử. Ý của câu Chú này là trí huệ độ, có
thể đạt đến cảnh giới cứu kính Niết Bàn, cho nên nói: ‘’Trí độ rốt ráo mẹ chư
Phật.’’ Chư Phật đồng xuất từ một mẫu thể, đồng một thứ pháp.
‘’Pháp bộ Liên Hoa vi diệu huyền.’’ Ðây là tây phương Liên
Hoa bộ, pháp vi diệu không thể nghĩ bàn, huyền mà lại huyền, diệu mà lại diệu,
diệu không thể nói.
‘’Lành thay thành tựu nghiệp thù thắng.’’ Xá Tất Ða còn gọi
là Tô Tất Ðịa, dịch là "Khéo viên thành". Khéo viên thành tất cả nghiệp
lành của chúng sinh, thắng nghiệp và nguyện vọng. Ðạt được mục đích của chúng
sinh, đắc được Niết Bàn cứu kính.
‘’Thẳng đến Bảo Sở thật thí quyền.’’ Thứ pháp môn này, là một
thứ pháp cứu kính, chẳng phải ngừng ở Hóa Thành, mà là đạt đến chốn Bảo sở cứu
kính. Ở đó có đủ thứ bảo bối, bạn muốn lấy bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Do đó,
có câu: ‘’Lấy không hết, dùng không xuể.’’ Phật thuyết pháp là thật thí quyền,
trước hành quyền giáo hóa, sau đó mới khai quyền hiển thật, dạy người đạt đến
chốn Bảo sở cứu kính. Cho nên oai lực và công đức trì Chú Lăng Nghiêm, không thể
nghĩ bàn, chẳng có cách chi có thể nói hết được.
191. Tát đát tha.
Kệ :
Ngã đẳng Thiên tiên lễ Phật đảnh
Cung kính cúng dường chư Thánh hiền
Tu phước tăng huệ sám nghiệp chướng
Cầu sinh Tây phương Cực Lạc bang.
Tạm dịch :
Ðại chúng Thiên tiên lễ Phật đảnh
Cung kính cúng dường các Thánh hiền
Tu phước tăng huệ sám nghiệp chướng
Cầu sinh về cõi Tây phương Cực Lạc.
Giảng giải: Câu này là nói "Tất cả Thiên tiên", đều
phải lễ kính Như Lai Ðại Phật Ðảnh Lăng Nghiêm Thần Chú. Cho nên nói: ‘’Ðại
chúng thiên tiên lễ Phật đảnh - Cung kính cúng dường các Thánh hiền.’’ Chúng ta
lại phải cung kính cúng dường chư Phật Như Lai, và tất cả Thánh hiền Tăng.
‘’Tu phước tăng huệ sám nghiệp chướng.’’ Lại phải tu phước,
lại phải gia tăng trí huệ, sám hối nghiệp chướng, cho nên mới lễ kính Ðại Phật
Ðảnh Lăng Nghiêm Thần Chú.
‘’Cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc.’’ Muốn cầu sinh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Cực Lạc bang tức cũng là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ
của chư Phật, an vui vô tận.
192. Già đô sắt
ni sam.
Kệ :
Vô kiến đảnh tướng
Thủ Lăng Nghiêm
Trung ương Phật bộ
cứu đảo huyền
Tỳ Lô Giá Na biến
nhất thiết
Thị cố thường tại
nễ ngã gian.
Tạm dịch :
Tướng vô kiến đảnh
Thủ Lăng Nghiêm
Phật bộ chính giữa
cứu treo ngược
Tỳ Lô Giá Na khắp
tất cả
Thường hiện ở
trong tôi và bạn.
Giảng giải : Già
Ðô Sắt Ni Sam dịch là "Tướng vô kiến đảnh". Tức nhiên là vô kiến
(không thấy), tại sao lại có tướng ? Các vị nghĩ xem, cứu kính như thế nào ? Thật
ra chẳng phải là không thấy, mà là không có gì mà chẳng thấy. Bạn nói tôi không
nhìn thấy ! Ở đây không kể đến bạn. Không thấy là nói người không khai mở ngũ
nhãn thì không thể thấy. Nếu khai mở ngũ nhãn rồi, thì chẳng có gì mà không thấy.
Ngũ nhãn là gì ? Tức là : Phật nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, nhục nhãn, thiên nhãn.
Ngũ nhãn này có mấy câu thơ nói rất hay :
‘’Thiên nhãn thông chẳng ngại’’ : Thiên nhãn
là thông, không có chướng ngại. Tất cả sự vật đều không chướng ngại được. Thiên
nhãn có thể từ trong tường nhìn thấy ngoài tường, từ ngoài tường lại nhìn thấy
ba ngàn đại thiên thế giới. Vừa rồi pháp sư Nhân Kiến nói, có vị pháp sư phát
cuồng, nói vị đó mở mắt thấy được ngàn dặm, vậy vẫn có giới hạn. Không những thấy
được ngoài mấy ngàn vạn dặm, mà thấy ba ngàn đại thiên thế giới như thấy quả Am
Ma La trong lòng bàn tay. Quả Am Ma La là gì ? Bạn nghe không hiểu vậy đổi trái
khác, cũng giống như trái đào trong lòng bàn tay. Am Ma La là một thứ trái cây
bên Ấn Ðộ.
‘’Nhục nhãn ngại
chẳng thông’’: Nhục nhãn chẳng phải cặp mắt này của chúng ta, mà là một cặp mắt
khác. Vừa mới nói thiên nhãn thì thấy vật gì cũng không có chướng ngại, vốn chẳng
có tường vách, khắp nơi đều là hư không. Nhục nhãn thì nhìn thấy vật hữu hình,
có sự chướng ngại, nhưng có thể nhìn thấy người, thấy quỷ, thấy thần, thấy Phật.
‘’Pháp nhãn
chuyên quán tục’’ : Pháp nhãn thì quán pháp, quán tất cả các pháp không tướng.
Trong Tâm Kinh có nói: ‘’Xá Lợi Tử ! Các pháp không tướng’’, tức là nghĩa này.
Pháp nhãn quán tục đế, tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa lâu đài. Thành tựu tất cả
các pháp, biểu hiện tất cả các pháp, pháp nhãn đều có thể thấu rõ.
‘’Huệ nhãn rõ
chân không’’: Trí huệ nhãn này, thấy được cứu kính thật tướng của các pháp, triệt
đáy nguồn của các pháp, không gì mà không thấu rõ, cho nên nói huệ nhãn rõ chân
không.
‘’Phật nhãn như
thiên nhựt’’: Phật nhãn sáng như ngàn mặt trời, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế
giới, tất cả sâm la vạn tượng.
‘’Chiếu dị thể
hoàn đồng’’: Tất cả các pháp biểu thị chẳng đồng, mà rõ bổn thể là một. Do đó,
có câu :
‘’Một gốc tán làm
vạn thù,
Vạn thù trở về một
gốc.’’
Một gốc vô lượng,
vô lượng một gốc. Vì có ngũ nhãn, nên không có gì mà chẳng thấy. Nếu nói chẳng
thể thấy được, sao lại nói ra danh từ này ? Các bạn nghiên cứu lại, đương nhiên
là thấy được. Tôi giảng pháp này, tin rằng chẳng có ai dám nói lời hồ đồ này,
chẳng có ai dám nói, không có gì mà không thấy. Tức là một câu này, không thấy
không có gì mà chẳng thấy, nếu lời không nói như thế, thì nói toạc ra tướng Vô
Kiến Đảnh này là dối người. Các bạn nghĩ xem, chúng ta nghiên cứu là tập tu học,
tướng Vô Kiến Ðảnh tức không nhìn thấy, sao lại có một danh từ ? Ðây chẳng phải
dối người chăng ? Tướng Vô Kiến Ðảnh thì phàm phu chẳng thấy được, chỉ có Thánh
nhân mới thấy được. Vì Thánh nhân thấy được cho nên có danh từ : ‘’Tướng Vô Kiến
Ðảnh‘’ này. Hôm nay tôi chỉ giảng một câu này, đã đủ rồi. Không cần giảng nhiều.
Bạn nhớ ý nghĩa này, thì hiểu được Kinh Lăng Nghiêm.
‘’Tướng Vô Kiến Ðảnh
Thủ Lăng Nghiêm.’’ Thủ là đầu tiên, số một, Lăng Nghiêm tức là đảnh, tột đảnh rồi
còn có lời gì để nói nữa ?
‘’Phật bộ chính
giữa cứu treo ngược.’’ Chính giữa là Phật Tỳ Lô Giá Na, tức cũng là pháp thân của
Phật Thích Ca Mâu Ni, báo thân là Lô Xá Na Phật, hóa thân là Thiên Bách Ức
Thích Ca Mâu Ni Phật. Chính giữa Phật bộ phải đến cứu vớt chúng sinh bị treo
ngược (đảo huyền). Cứu đảo huyền còn gọi là Vu Lan Bồn. Vu Lan Bồn là tiếng Phạn,
sao gọi là đảo huyền ? Một người chân giơ lên trời, đầu hướng xuống đất, ăn vật
gì cũng đều nuốt chẳng vào, bạn thấy đây có khổ chăng ? Vốn ăn đồ vật rồi phải
đại tiểu tiện, bây giờ không thể đại tiểu tiện, lại phải chảy ngược ra lại, thật
là khổ sở ! Chẳng được tự tại, đây gọi là đảo hành nghịch thí.
‘’Tỳ Lô Giá Na khắp
tất cả.’’ Phật Tỳ Lô Giá Na khắp tất cả mọi nơi, vô tại vô bất tại, chẳng có một
nơi nào mà chẳng có Ngài, vì Ngài khắp tất cả mọi nơi.
‘’Thường hiện ở
trong tôi và anh.’’ Bạn, tôi, mọi người, đều ở trong sự chiếu khắp của pháp
thân Phật Tỳ Lô Giá Na, thế mà chúng ta chẳng thấy được Phật Tỳ Lô Giá Na. Tại
sao chúng ta chẳng có tướng Vô Kiến Ðảnh ? Chúng ta hiện giờ là phàm phu, chẳng
thấy được pháp thân của Phật, thật là khổ não !
193. Hổ hồng đô
lô ung.
Kệ :
Tổng trì chân
ngôn Án Á Hồng
Tỳ Lô Di Đà A Súc
đông
Pháp báo hoá thân
tam đại nghĩa
Thập phương hiền
Thánh tùng thử sinh.
Tạm dịch :
Tổng trì chân
ngôn Án Á Hồng
Tỳ Lô Di Ðà A Súc
Phật
Pháp báo hóa thân
ba nghĩa lớn
Mười phương Thánh
hiền từ đây sinh.
Giảng giải: Hổ Hồng
tức là "Hồng", hoặc gọi là "Án", bất cứ chữ nào cũng đều có
ý nghĩa của nó. Tóm lại, Chú thì thiên biến vạn hóa, bạn nói nó như thế này, nó
lại thế kia. Bạn nói nó thế kia, nó lại thế này. Bạn nói nó là đỏ, nó lại biến
thành vàng. Bạn nói nó vàng, nó lại biến thành trắng. Làm thế nào ? Ðó gọi là
không thể nghĩ bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời luận nghị.
"Miệng muốn nói mà lời đã mất rồi, tâm muốn phan duyên mà tư lự chẳng còn
nữa", đây gọi là không thể nghĩ bàn.
Hổ Hồng tức là
chân ngôn tổng trì, có thể nói là Án, cũng có thể nói là Hồng, cho nên mọi người
nói Án Á Hồng. Án Á Hồng là ba đàn : Thân, miệng, ý, nghiệp thanh tịnh, khi niệm
Án Á Hồng, cũng giống như tạo đàn Lăng Nghiêm. Thanh tịnh chân ngôn khiến cho
ba nghiệp thanh tịnh. Án tức là Tỳ Lô Giá Na Phật, Á tức là A Di Dà Phật, Hồng
tức là A Súc Phật, cho nên niệm Án Á Hồng thì ba mật thành đàn.
‘’Tỳ Lô Di Ðà A
Súc Phật.’’ Tỳ Lô thì chính giữa, Di Ðà thì phương tây, A Súc thì phương đông.
‘’Pháp báo hóa
thân ba nghĩa lớn.’’ Tức là pháp thân, báo thân, hóa thân, chữ Hồng này đủ ba ý
nghĩa này.
‘’Mười phương hiền
Thánh từ đây sinh.’’ Tất cả mười phương chư Phật, Bồ Tát, La Hán, đều đã tu qua
pháp này, đều từ pháp này mà sinh ra.
194. Chiêm bà na.
Kệ :
Kim sắc hoàng hoa
thụ hình cao
Đại bàng điểu cư
Phật Thánh đạo
Pháp thân hương
biến Hằng sa giới
Bất thoái bồ đề lạc
tiêu dao.
Tạm dịch :
Cây vàng hoa vàng cao to lớn
Chim Ðại Bàng ở Phật Thánh đạo
Pháp thân thơm khắp Hằng sa cõi
Không lùi bồ đề vui tiêu dao.
Giảng giải: Chúng ta hằng ngày muốn học diệu pháp, nhưng đợi
đến khi diệu pháp trước mắt, thì không nhận ra được, trước mặt bỏ qua, mất đi
cơ hội. Chú Lăng Nghiêm mỗi câu đều là diệu pháp, mỗi chữ đều là tam muội, vì
chúng ta không hiểu rõ, nên cũng không biết tôn quý. Giống như người không nhận
ra vàng thật, cho rằng đồng vàng là vàng. Nếu ai thành tâm tụng trì Chú Lăng
Nghiêm, thì thường có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát đến hộ trì, nhưng
phải thành tâm, nếu không thành tâm thì sẽ không có cảm ứng.
Chiêm Bà Na
dịch là "Cây vàng hoa vàng". Ðây là một ví dụ, dụ chim đại bàng ở
trên cây rất cao, là nơi tất cả Thánh Hiền ở. Cho nên nói: ‘’Thân vàng hoa vàng
cao to lớn.’’ Cây thì màu vàng ròng, hoa cũng màu vàng. Thứ cây này cao hơn so
với các loài cây khác, vì vậy cho nên: ‘’Chim Ðại Bàng ở Phật Thánh đạo.’’ Chim
đại bàng thì ở trên cây, Phật và tất cả Thánh chúng, cũng đều ở trên diệu pháp
vô thượng Lăng Nghiêm, giống như chim đại bàng ở trên cây cao nhất.
‘’Pháp thân thơm khắp Hằng sa cõi.’’ Pháp thân của Phật vô tại
vô bất tại, đầy khắp tất cả mọi nơi.
‘’Không lùi bồ đề vui tiêu dao.’’ Tu pháp Chú Lăng Nghiêm,
thì vĩnh viễn không thối thất bồ đề tâm, nếu trên thế gian không còn một người
nào niệm Chú Lăng Nghiêm, thì pháp sẽ diệt mất. Tất cả yêu ma quỷ quái, thiên
ma ngoại đạo, đều muốn xuất hiện ra đời hoành hành, nếu còn có một người niệm
Chú Lăng Nghiêm, thì yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo không dám xuất hiện,
vì có Chú Lăng Nghiêm hàng phục được chúng. Nếu chúng ta niệm tụng Chú Lăng
Nghiêm, ngày ngày thọ trì, thì đắc được phước báu bảy đời làm viên ngoại, tức
là người có phước nhất, có đại thế lực trong thời thái bình thịnh vượng. Cho nên muốn cầu phước báu thế gian, phải niệm
tụng Chú Lăng Nghiêm, muốn có quả báu Thánh hiền, càng phải niệm Chú Lăng
Nghiêm.
195. Hổ hồng đô lô
ung.
Kệ :
Chân ngôn Chú lực diệu nan tư
Tam muội gia trì niệm tại từ
Phiền não biến vi thanh lương tán
Vô thượng Phật Bảo thường hộ chi.
Tạm dịch :
Sức lực thần Chú diệu khó lường
Tam muội gia trì niệm từ từ
Nhiệt não biến thành thuốc mát mẻ
Vô thượng Phật Bảo thường hộ niệm.
Giảng giải: ‘’Sức lực thần Chú diệu khó lường.’’ Chú Lăng
Nghiêm không thể dò được, cũng không thể suy nghĩ tưởng tượng được.
‘’Tam muội gia trì niệm từ từ.’’ Chú tức là dùng oai lực Tam
muội gia trì người tu trì Chú. Phải niệm từ từ, không vọng tưởng, nếu thọ trì
như thế thì nhiệt não hóa thành thuốc mát mẻ.
‘’Vô thượng Phật Bảo thường hộ niệm.’’ Vô Thượng Phật Bảo
luôn luôn hộ niệm bạn, gia trì bạn, khiến cho bạn phát đại đạo tâm. Các vị phải
đặc biệt chú ý Chú Lăng Nghiêm. Nếu mỗi người đều học Chú Lăng Nghiêm, thì
chánh pháp thường trụ ở trên đời, thường trì Chú Lăng Nghiêm tức là ủng hộ Phật
pháp, oai lực của Chú khó nghĩ bàn.
- Hỏi: Trì Chú phát âm không chính xác có hiệu nghiệm chăng
?
- Ðáp: Trước kia có một vị tu hành thường tụng Lục Tự Ðại
Minh Chú, nhưng ông ta tự đặt ra, chứ không thỉnh giáo người khác, hoặc là vì
trí nhớ không tốt, người khác dạy rồi ông ta quên mất. Ông ta đắn đo: ‘’Chữ miệng
thêm vào chữ ma thì đọc ma, chữ miệng thêm vào chữ bát thì đọc bát, chữ miệng
thêm vào chữ mê thì đọc mê, chữ miệng thêm vào chữ ngưu thì đại khái đọc
ngưu.’’ Do đó, ông ta đọc: "Úm Ma Ni Bát Mê Ngưu", niệm rất thành
tâm. Mỗi ngày ông ta niệm một trăm vạn biến Úm Ma Ni Bát Mê Ngưu, dùng chuỗi
ghi nhớ rất phí sự, do đó ông ta dùng một trăm vạn hạt đậu ghi nhớ, niệm một
câu thì thảy qua một hạt đậu. Dần dần ông ta không cần dùng tay, đậu tự nhảy
qua, sau đó có người nói với ông ta nên niệm: ‘’Úm Ma Ni Bát Mê Hồng‘’ mới
đúng, do đó ông ta liền đổi niệm Úm Ma Ni Bát Mê Hồng. Nhưng kỳ lạ thay, hạt đậu
không nhảy qua nữa, sau lại niệm trở lại Úm Ma Ni Bát Mê Ngưu, hạt đậu cũng
không nhảy qua, vì tín tâm của ông ta giao động, biết mình niệm sai.
- Hỏi: Tâm Chú của Chú Lăng Nghiêm là gì ?
- Ðáp: Tâm Chú dài là : Ðát điệt tha. Án, A na lệ. Tỳ xá đề.
Bệ ra. Bạt xà ra. Ðà rị. Bàn đà bàn đà nể. Bạt xà ra bàng ni phấn. Hổ hồng đô
lô ung phấn. Ta bà ha.
Tâm Chú ngắn là :
Tát đát đa bát đát la.
196. Tất đam bà
na.
Kệ :
Tất giai đầy đủ
cát tường pháp
Vô tận bảo tạng tổng
hàm nhiếp
Thành tựu chủng
chủng Ba La Mật
Đoan nhiên chánh
toạ tử liên hoa.
Tạm dịch :
Thảy đều đầy đủ
pháp cát tường
Vô tận Pháp bảo
nhiếp hết thảy
Thành tựu đầy đủ
Ba La Mật
Ðoan nghiêm ngồi trên hoa sen báu.
Giảng giải: ‘’Thảy đều đầy đủ pháp cát tường.’’ Câu này là
"Pháp cát tường", nghĩa là tất cả đều cát tường, đắc được mọi sự thắng
lợi.
‘’Vô tận Pháp bảo nhiếp hết thảy.’’ Pháp cát tường là tất cả
đều cát tường như ý, bên trong hàm nhiếp hữu tận bảo tạng. Pháp cát tường này sức
lực rất lớn.
‘’Thành tựu đầy đủ Ba La Mật.’’ Muốn cầu gì thì được đó, cầu
giàu sang được giàu sang, cầu công danh được công danh, cầu trai gái được trai
gái. Tất cả đều không thể nghĩ bàn, thành tựu đủ loại Ba La Mật đến bờ kia.
‘’Ðoan nghiêm ngồi trên hoa sen báu.’’ Vị Bồ Tát này, thường
thường ngồi trên đài sen báu để giáo hóa tất cả chúng sinh.
197. Hổ hồng đô lô ung.
Kệ :
Chân tâm chân ý chân lại chân
Chân hành chân tu chân cánh chân
Chân tác chân vi chân gia chân
Nhất thiết nhất thiết chân chân chân.
Tạm dịch :
Tâm thật ý thật thật lại thật
Hành thật tu thật thật càng thật
Làm thật quán thật thật thêm thật
Tất cả tất cả thật thật thật.
Giảng giải: Hổ Hồng Ðô Lô Ung, phía trước đã có hai câu, đây
là câu thứ ba. Hổ Hồng Ðô Lô Ung là Án Á Hồng. Lúc niệm Chú, vì mỗi nơi tiếng
nói không giống, bạn là người địa phương đó, niệm tiếng địa phương đó, đều gần
giống nhau. Gần giống nhau thì có thể được. Quan trọng là có chân tâm, dùng tâm
giả để niệm, thì niệm gì cũng vô dụng. Bạn cũng không thể dùng tâm tham để niệm,
hy vọng chơi cá ngựa sẽ trúng. Nếu bạn có những thứ tư tưởng này, thì tuyệt đối
không có linh nghiệm, cũng không thể nói, tôi niệm Chú này, thì khí lực mạnh giống
như đại lực sĩ, có thể lay núi động đất, giống như Sở Bá Vương, ai cũng đánh
không lại, tu như vậy cũng không thành. Vì đầu tiên bạn đã có tâm tham, thì chẳng
phải thật. Niệm Chú này mà có tâm hại người càng không được, kêu người đau đầu,
đau chân, như thế thì niệm gì cũng chẳng linh nghiệm, sẽ không thành tựu. Có
người niệm Chú này, muốn tất cả những thứ đá quý có giá trị nhất thế gian, đều
trở về chỗ tôi, cứ muốn ích kỷ lợi mình thì càng làm chẳng được. Cho nên tôi
khuyên các bạn đừng tranh, đừng tham, đừng cầu, đừng ích kỷ, đừng lợi mình. Phải
có đủ năm điều kiện này, còn phải có tâm chân thật mới học được Chú Lăng
Nghiêm. Cho nên nói: ‘’Tâm thật ý thật thật lại thật.’’ Một cái chân thật vẫn
chưa được, phải hai cái chân thật, một chút giả cũng không có, nếu có một chút
giả thì chẳng có công hiệu.
‘’Hành thật tu thật thật càng thật.’’ Tức là dùng sự chân thật
để trì Chú này. Có người chẳng biết thế nào gọi thật lại càng thật. Không biết
thật chăng ? Vậy bạn ăn no không, ăn no thì biết ngay.
‘’Làm thật quán thật thật thêm thật.’’ Bạn thấy ở trước mười
hai chữ thật, ở sau lại thên ba, cộng thành mười lăm chữ thật. Cho nên nói :
‘’Tất cả tất cả thật thật thật.’’ Ngàn vạn không thể giả, nếu có một chút giả
thì chẳng phải thật. Bạn gạt Phật chẳng đặng, cũng chẳng gạt được Bồ Tát, cũng
gạt không được người.
198. Ba ra sắt địa gia.
Kệ :
Tổng nhiếp ma giới tu chánh giáo
Sự lý hành mãn độ vô cực
Sinh tử phiền não giai cứu kính
Thường lạc ngã tịnh chứng bồ đề.
Tạm dịch :
Nhiếp hết loài ma tu chánh pháp
Sự lý viên mãn lên bờ kia
Sinh tử phiền não đều rốt ráo
Thường lạc ngã tịnh chứng bồ đề.
Giảng giải: Câu này dịch là "Vô cực", ‘’Nhiếp hết
loài ma tu chánh giáo.’’ Nếu ma cải tà quy chánh, cải ác hướng thiện, cũng có
thể tu hành giống nhau, có thể thành chánh quả giống nhau. Do đó, mọi người đừng
xem ma nghiêm trọng như thế. Có lúc ma trở lại giúp bạn tu hành, làm tăng thượng
duyên bạn tu đạo, là đến thử bạn, khảo nghiệm bạn, khiến cho công phu của bạn
thuần thục.
‘’Sự lý viên mãn lên
bờ kia.’’ Sự cũng tu viên mãn, lý cũng tu viên mãn, thì độ tất cả chúng sinh,
vượt khỏi bờ sinh tử này, qua dòng phiền não, đạt đến bờ bên kia cứu kính. Cho
nên nói : ‘’Thường lạc ngã tịnh chứng bồ đề.’’ Ðắc được thường lạc ngã tịnh Niết
Bàn bốn đức, chứng được vô thượng bồ đề, cứu kính viên mãn.
199. Tam bát xoa.
Kệ :
Chân chánh mãn túc Bồ Tát hạnh
Ngũ nhãn lục thông câu hiện tiền
Thắng diệu giải thoát viên phước huệ
Vô thượng đẳng giác độ quần hiền.
Tạm dịch :
Chân chánh đầy đủ hạnh Bồ Tát
Năm nhãn sáu thông đều hiện tiền
Giải thoát thù thắng tròn phước huệ
Vô Thượng Ðẳng Giác độ người hiền.
Giảng giải: Câu này dịch là "Chân chánh đầy đủ",
"Thành tựu", "Cảm ứng". Hết thảy đều đắc được viên mãn, cho
nên nói: ‘’Chân chánh đầy đủ hạnh Bồ Tát.’’ Tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, lục
độ vạn hạnh đều đầy đủ.
‘’Năm nhãn sáu thông đều hiện tiền.’’ Bồ Tát đầy đủ năm nhãn
: Nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn và Phật nhãn. Sáu thông : Thiên
nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông và lậu
tận thông.
‘’Giải thoát thắng diệu tròn phước huệ.’’ Tăng phước huệ, đắc
được giải thoát thù thắng vi diệu.
‘’Vô Thượng Ðẳng Giác độ người hiền.’’ Chứng được quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trở lại độ người hiền, khiến cho họ cũng đều chứng
được quả vị Chánh giác.
200. Noa yết ra.
Kệ :
Ngã sở tác pháp bổn tánh không
Chân như tự tại bình đẳng công
Vô thượng phước điền cần canh chủng
Tự giác giác tha nhậm đông tây.
Tạm dịch :
Những pháp tôi tu tánh vốn không
Chân như tự tại rất bình đẳng
Ruộng phước vô thượng siêng gieo trồng
Tự giác giác tha rất tự tại.
Giảng giải: Câu Chú này ý nghĩa là "không", không
tức là phá ngã chấp, pháp chấp, cũng chẳng còn, ngã, pháp, hai chấp đều không.
Do đó, tuy tu tất cả pháp, mà lìa tướng tất cả pháp, tu đến trong chẳng có thân
tâm, ngoài chẳng có thế giới, không vô sở không, ngộ cảnh giới vô sở ngộ, lúc
này thì đắc được tam muội. Cho nên nói: ‘’Những pháp tôi tu tánh vốn không.’’ Tất
cả pháp mà tôi tu, bất cứ là pháp Lăng Nghiêm, pháp Ðại Bi, hoặc pháp Bốn Mươi
Hai Thủ Nhãn, hoặc pháp duyên độ mẫu, hoặc là đủ thứ pháp mật tông, tu tất cả
pháp phải lìa tất cả tướng, hàng tâm lìa tướng, tâm phải hàng phục, tướng phải
xa lìa. Tu pháp thì tu đừng chấp trước. Tất cả pháp đều không có tự tánh, chẳng
có tự thể, vậy bạn lại chấp cái gì ?
‘’Chân như tự tại rất bình đẳng.’’ Chân như cũng gọi là tự tại,
cũng gọi là bình đẳng, nghĩa là đều công bình, chẳng có một chút tâm ích kỷ lợi
mình, mới có thể tu pháp. Cũng chẳng có tâm tham, tâm tranh, tâm có sở cầu, rất
là công bình không lỗi.
‘’Ruộng phước vô thượng siêng gieo trồng.’’ Ruộng phước Tam
Bảo là vô thượng nhất, cúng dường Tam Bảo thêm phước và huệ của bạn. Nhưng đừng
một mặt thì cúng dường cung kính Tam Bảo, một mặt thì tạo tội nghiệp trước Tam
Bảo, làm thiện ác xen tạp, đều phân chẳng rõ. Ở trong Phật giáo hủy báng Phật
giáo, đừng nói đây không tốt, nói kia không đúng. Phải trồng ruộng phước, chớ
trồng ruộng họa (tai họa). Hủy báng Tam Bảo tức là trồng ruộng họa, tương lai sẽ
có tai nạn. Chúng ta phải siêng gieo trồng ruộng phước Tam Bảo.
‘’Tự giác giác tha nhậm đông tây.’’ Tương lai tu thành công
rồi, thì sẽ tự giác lại giác tha. Tùy ý bạn muốn đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới,
thì đến Cực Lạc Thế Giới. Muốn đến Phương Đông Thế Giới Lưu Ly, thì đến Thế Giới
Lưu Ly.
No comments:
Post a Comment