KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 3
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
TẬP 3
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN HAI MƯƠI MỐT
PHẨM MƯỜI TẠNG VÔ TẬN
THỨ HAI MƯƠI HAI
Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Lâm, lại bảo các Bồ Tát rằng: Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tạng. Quá khứ, vị lai, hiện tại, chư Phật đã nói, sẽ nói và đang nói.
Những gì là mười ? Ðó là: Tín tạng, giới tạng, tàm tạng, quý tạng, văn tạng, thí tạng, huệ tạng, niệm tạng, trì tạng, biện tạng. Đó là mười.
Phật tử ! Những gì là tín tạng của đại Bồ Tát?
Bồ Tát nầy, tin tất cả pháp đều không. Tin tất cả pháp đều không tướng. Tin tất cả pháp đều không nguyện. Tin tất cả pháp đều không làm. Tin tất cả pháp đều không phân biệt. Tin tất cả pháp đều không chỗ nương. Tin tất cả pháp đều không thể lường. Tin tất cả pháp đều vô thượng. Tin tất cả pháp đều khó siêu việt. Tin tất cả pháp đều không sinh.
Nếu Bồ Tát hay tuỳ thuận tất cả pháp như vậy, sinh niềm tin thanh tịnh rồi, thì nghe các Phật pháp không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe tất cả chư Phật không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi chúng sinh không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe pháp giới không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi hư không không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe cõi Niết Bàn không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời quá khứ không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời vị lai không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe đời hiện tại không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược. Nghe vào tất cả kiếp không thể nghĩ bàn, tâm chẳng khiếp nhược.
Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy ở chỗ chư Phật, một lòng tin vững chắc, biết trí huệ của Phật vô biên vô tận.
Ở trong mười phương vô lượng các thế giới. Mỗi thế giới đều có vô lượng chư Phật. Nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đã đắc được, đang đắc được, sẽ đắc được. Đã ra đời, đang ra đời, sẽ ra đời. Đã vào Niết Bàn, đang vào Niết Bàn, sẽ vào Niết Bàn.
Trí huệ của chư Phật đó, không tăng, không giảm, không sinh, không diệt, không tiến, không lùi, không gần, không xa, không biết, không bỏ.
Bồ Tát nầy vào trí huệ của Phật, thành tựu tâm tin vô biên vô tận. Đắc được niềm tin nầy rồi, thì tâm chẳng thối chuyển, tâm chẳng tạp loạn, không thể phá hoại được, không ô nhiễm chấp trước. Thường có căn bổn, tuỳ thuận Thánh nhân, trụ nhà Như Lai.
Hộ trì tất cả giống tánh của tất cả chư Phật. Tăng trưởng tin hiểu của tất cả Bồ Tát. Tuỳ thuận căn lành của tất cả Như Lai. Sinh ra phương tiện của tất cả chư Phật. Đó gọi là tín tạng của đại Bồ Tát.
Bồ Tát trụ nơi tín tạng nầy, sẽ nghe và thọ trì tất cả Phật pháp, vì chúng sinh diễn nói, đều khiến cho họ khai ngộ.
Phật tử ! Những gì là giới tạng của đại Bồ Tát ?
Bồ Tát nầy thành tựu: Giới khắp lợi ích. Giới chẳng thọ. Giới chẳng trụ. Giới không hối hận. Giới không trái cãi. Giới chẳng tổn hại. Giới không tạp uế. Giới không tham cầu. Giới không lỗi lầm. Giới không huỷ phạm.
Thế nào là giới lợi ích khắp ? Bồ Tát nầy thọ trì giới thanh tịnh, vốn là lợi ích tất cả chúng sinh.
Thế nào là giới chẳng thọ ? Bồ Tát nầy chẳng thọ tất cả các giới của ngoại đạo tu hành. Nhưng tánh tự tinh tấn. Phụng trì giới thanh tịnh bình đẳng của chư Phật Như Lai ba đời.
Thế nào là giới chẳng trụ ? Bồ Tát nầy thọ trì giới thì: Tâm chẳng trụ dục giới. Tâm chẳng trụ sắc giới. Tâm chẳng trụ vô sắc giới. Tại sao ? Vì chẳng cầu sinh về đó mà trì giới.
Thế nào là giới không hối hận ? Bồ Tát nầy luôn được an trụ tâm không hối hận, tại sao ? Vì chẳng làm tội nặng, chẳng làm xiểm nịnh dối trá, chẳng phá tịnh giới.
Thế nào là giới không trái cãi ? Bồ Tát nầy chẳng trái với giới của Phật chế ra, cũng chẳng tạo lập lại. Tâm luôn tuỳ thuận giới hướng về Niết Bàn. Thọ trì đầy đủ, không có huỷ phạm. Chẳng vì trì giới mà não hại chúng sinh khác, khiến cho họ sinh khổ. Chỉ muốn cho tất cả chúng sinh tâm thường hoan hỉ, mà trì giới.
Thế nào là giới không não hại ? Bồ Tát chẳng vì trì giới mà học các chú thuật, tạo những phương thuốc não hại chúng sinh. Chỉ vì cứu hộ tất cả chúng sinh, mà trì giới.
Thế nào là giới chẳng tạp? Bồ Tát nầy chẳng chấp biên kiến, chẳng trì tạp giới. Chỉ quán duyên khởi, trì giới thoát khỏi ba cõi.
Thế nào là giới không tham cầu ? Bồ Tát nầy chẳng hiện tướng khác lạ, hình ảnh mình có đức. Chỉ vì đầy đủ pháp pháp xuất ly mà trì giới.
Thế nào là giới không lỗi lầm? Bồ Tát nầy chẳng tự cống cao, nói mình trì giới. Thấy người phá giới, cũng chẳng khinh khi phỉ báng, khiến cho họ hổ thẹn, chỉ một lòng trì giới.
Thế nào là giới không huỷ phạm? Bồ Tát nầy vĩnh viễn dứt trừ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, chưởi mắng, và lời vô nghĩa, tham sân si, tà kiến. Thọ trì đầy đủ mười nghiệp lành.
Lúc Bồ Tát trì giới không huỷ phạm, thì nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh huỷ phạm tịnh giới, đều do điên đảo. Chỉ có đức Phật Thế Tôn, biết được chúng sinh, bởi nhân duyên gì, mà sinh tâm điên đảo, huỷ phạm tịnh giới. Tôi phải thành tựu vô thượng bồ đề, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật, khiến cho họ lìa điên đảo. Đó là giới tạng thứ hai của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Những gì là tàm tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy nghĩ nhớ các điều ác đã làm trong quá khứ, mà sinh tâm hổ thẹn.
Bồ Tát đó tâm tự nghĩ rằng: Tôi từ đời vô thuỷ đến nay, với các chúng sinh đều cùng nhau làm cha mẹ, anh em, chị em, nam nữ. Đủ tham, sân, si, kiêu mạn, xiểm nịnh, dối trá, và tất cả các phiền não khác, nên não hại với nhau, lăng đoạt lẫn nhau, gian dâm giết hại lẫn nhau, chẳng có việc ác nào mà không làm.
Tất cả chúng sinh, cũng đều như vậy. Vì các phiền não mà tạo ra các tội ác. Cho nên người người chẳng cung kính nhau, chẳng tôn trọng nhau, chẳng tuỳ thuận nhau, chẳng khiêm nhường nhau, chẳng chỉ dạy nhau, chẳng hộ tiếc nhau, lại giết hại nhau, oán thù lẫn nhau.
Tự nghĩ tôi và các chúng sinh, quá khứ, vị lai, hiện tại, thực hành pháp không hổ thẹn. Ba đời chư Phật đều thấy biết. Nếu nay không đoạn trừ hạnh không hổ thẹn, thì chư Phật ba đời cũng sẽ thấy tôi. Sao tôi vẫn thực hành không dứt, không thể được.
Do đó, tôi phải chuyên tâm đoạn trừ, để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật. Đó gọi là tàm tạng thứ ba của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Những gì là quý tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy tự thẹn, từ thuở xưa đến nay, ở trong năm dục, có đủ thứ sự tham cầu, không biết nhàm đủ. Do đó mà tăng trưởng tham, sân, si, tất cả phiền não. Nay tôi không nên làm việc này nữa.
Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Chúng sinh chẳng có trí huệ, khởi các phiền não, làm đủ các pháp ác. Chẳng cung kính nhau, chẳng tôn trọng nhau, cho đến triển chuyển oán thù lẫn nhau. Các việc ác như vậy, chẳng có việc gì mà không làm. Tạo rồi hoan hỉ, tìm cầu sự khen ngợi. Đui mù không có mắt trí huệ, chẳng thấy biết gì.
Ở trong bụng mẹ, nhập thai, thọ sinh, thành thân nhơ bẩn. Cho đến lúc tóc bạc mặt nhăn. Người có trí huệ quán sát, đây chỉ là từ dâm dục mà sinh ra, chẳng phải là pháp thanh tịnh. Ba đời chư Phật thảy đều thấy biết. Nếu nay tôi vẫn làm việc đó, tức là khi dối chư Phật ba đời. Cho nên tôi phải tu hành hổ thẹn, sớm thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh nói pháp chân thật. Đó gọi là quý tạng thứ tư của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Những gì là văn tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy biết: Việc nầy có, nên việc nầy có. Việc nầy không, nên việc nầy không. Việc nầy khởi, nên việc nầy khởi. Việc nầy diệt, nên việc nầy diệt. Là pháp thế gian. Là pháp xuất thế gian. Là pháp hữu vi. Là pháp vô vi. Là pháp hữu ký. Là pháp vô ký.
Những gì là việc nầy có, nên việc nầy có ? Đó là vô minh có, nên hành có. Những gì là việc nầy không, nên việc nầy không? Đó là thức không, nên danh sắc không. Những gì là việc nầy khởi, nên việc nầy khởi ? Đó là ái khởi, nên khổ khởi. Những gì là việc nầy diệt, nên việc nầy diệt? Đó là hữu diệt, nên sinh diệt. Những gì là pháp thế gian? Đó là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Những gì là pháp xuất thế gian ? Đó là: Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Những gì là pháp hữu vi ? Đó là: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chúng sinh giới.
Những gì là pháp vô vi? Đó là: Hư không, Niết Bàn, số duyên diệt, phi số duyên diệt, duyên khởi, pháp tánh trụ.
Những gì là pháp hữu ký ? Đó là: Bốn Thánh đế, bốn quả Sa Môn, bốn biện, bốn vô sở uý, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám Thánh đạo phần.
Những gì là pháp vô ký ? Đó là: Thế gian có bờ mé, thế gian không bờ mé. Thế gian cũng có bờ mé, cũng không bờ mé. Thế gian chẳng bờ mé, chẳng không bờ mé. Thế gian có thường, thế gian vô thường. Thế gian cũng có thường, cũng vô thường. Thế gian chẳng có thường, chẳng vô thường. Như Lai diệt rồi có, Như Lai diệt rồi không. Như Lai diệt rồi cũng có, cũng không. Như Lai diệt rồi chẳng có, chẳng không. Tôi và chúng sinh có, tôi và chúng sinh không. Tôi và chúng sinh cũng có, cũng không. Tôi và chúng sinh chẳng có, chẳng không.
Quá khứ có bao nhiêu Như Lai vào Niết Bàn, bao nhiêu Thanh Văn, Bích Chi Phật vào Niết Bàn. Vị lai có bao nhiêu Như Lai, bao nhiêu Thanh Văn Bích Chi Phật, bao nhiêu chúng sinh. Hiện tại có bao nhiêu đức Phật trụ, bao nhiêu Thanh Văn Bích Chi Phật trụ, bao nhiêu chúng sinh trụ ?
Những vị Như Lai nào ra đời trước nhất, những vị Thanh Văn Bích Chi Phật nào ra đời trước nhất, những vị chúng sinh nào ra đời trước nhất? Những vị Như Lai nào ra đời sau cùng, những vị Thanh Văn Bích Chi Phật nào ra đời sau cùng, những chúng sinh nào ra đời sau cùng? Pháp nào trước nhất, pháp nào sau cùng ?
Thế gian từ nơi nào đến, đi về chỗ nào? Có bao nhiêu thế giới thành, có bao nhiêu thế giới hoại? Thế giới từ nơi nào đến, đi về chỗ nào ?
Những gì là bờ mé ban đầu của sinh tử, những gì là bờ mé cuối cùng của sinh tử ? Đó gọi là pháp vô ký.
Đại Bồ Tát, bèn nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh, ở trong sinh tử, không có đa văn, không thể biết rõ tất cả những pháp nầy. Tôi phải phát tâm, trì tạng đa văn, để chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sinh mà nói pháp chân thật. Đó là tạng đa văn thứ năm của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Những gì là thí tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy thực hành mười thứ bố thí. Đó là: Phân giảm thí, kiệt tận thí, nội thí, ngoại thí, nội ngoại thí, nhất thiết thí, quá khứ thí, vị lai thí, hiện tại thí, cứu kính thí.
Phật tử ! Những gì là Bồ Tát phân giảm thí ? Bồ Tát nầy bẩm tánh nhân từ, thích làm bố thí. Nếu có thức ăn ngon, chẳng tự ăn một mình, mà muốn ban cho chúng sinh, sau đó mới ăn. Phàm tất cả vật nhận được, cũng đều như vậy.
Nếu lúc mình ăn, bèn nghĩ như vầy: Trong thân của tôi có tám vạn hộ trùng, nương tôi mà ở. Thân tôi sung túc, thì chúng cũng sung túc. Thân tôi đói khổ, thì chúng cũng đói khổ. Nay tôi thọ tất cả thức ăn uống nầy, nguyện khiến cho cho tất cả chúng sinh, khắp được no đủ. Vì bố thí cho chúng, nên tôi tự ăn, chứ chẳng tham vị ngon.
Lại nghĩ như vầy: Tôi ở trong đêm dài, mến chấp thân nầy, muốn khiến cho sung túc, mà ăn uống. Nay đem những thức ăn nầy, bố thí cho chúng sinh. Nguyện thân thể tôi vĩnh viễn dứt tham chấp, đó gọi là phân giảm thí.
Thế nào là Bồ Tát kiệt tận thí? Phật tử ! Bồ Tát nầy được các thứ thức ăn uống thượng hạng, hương hoa, quần áo, đồ tư sanh. Nếu tự thọ dụng thì an vui sống lâu. Nếu mình chẳng dùng mà đem bố thí cho người, thì sẽ nghèo khổ chết sớm.
Bấy giờ, hoặc có người đến nói như vầy: Nay Ngài hãy đem tất cả ban cho tôi. Bồ Tát tự nghĩ: Tôi từ vô thuỷ đến nay, vì đói khát, mà đã mất đi vô số thân, chưa từng lợi ích cho chúng sinh, dù nhỏ như sợi lông, để được lợi lành. Nay tôi cũng sẽ giống như thuở xưa, mà bỏ thân mạng. Do đó hãy vì lợi ích chúng sinh, tuỳ theo những gì mình có, tất cả đều xả bỏ, cho đến hết mạng sống, cũng chẳng sẻn tiếc. Đó gọi là kiệt tận thí.
Thế nào là Bồ Tát nội thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy tuổi trẻ mạnh khoẻ, đoan chánh xinh đẹp, có hương hoa y phục dùng trang nghiêm thân. Mới thọ lễ quán đảnh, lên ngôi Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.
Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Đại vương nên biết, nay tôi già yếu, thân mang bệnh nặng, côi cút, gầy ốm, sắp chết mất. Nếu được tay chân máu thịt, đầu mắt tuỷ não của thân thể nhà vua, thì mạng sống của tôi sẽ mạnh khoẻ sống lâu. Xin nguyện đại vương, đừng có suy lường sẻn tiếc, chỉ thấy từ bi, bố thí cho tôi.
Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Nay thân thể nầy của tôi, sau nầy rồi cũng sẽ chết, chẳng có lợi ích gì. Nay đúng thời, phải mau xả cứu chúng sinh. Nghĩ rồi liền bố thí, tâm chẳng hối tiếc, đó gọi là nội thí.
Thế nào là Bồ Tát ngoại thí? Phật tử ! Bồ Tát nầy tuổi trẻ khoẻ mạnh xinh đẹp, các tướng tốt đầy đủ, có hoa quý y phục thượng đẳng, dùng trang nghiêm thân. Mới thọ lễ quán đảnh, lên ngôi Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.
Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Nay tôi rất bần cùng, các khổ bức bách. Xin ngài nhân từ, thương xót tôi, xả bỏ ngôi vua nầy, nhường lại cho tôi, để tôi thống trị, hưởng thọ phước lạc ngôi vua.
Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Tất cả sự giàu sang phồn vinh, tất sẽ suy tàn. Lúc suy tàn không thể làm lợi ích cho chúng sinh được nữa. Nay tôi phải tuỳ sự yêu cầu của họ, làm cho họ mãn nguyện. Nghĩ như vậy rồi liền bố thí, mà tâm chẳng hối tiếc. Đó gọi là ngoại thí.
Thế nào là Bồ Tát nội ngoại thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy như trên đã nói, làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ. Bấy giờ, hoặc có người đến bạch với vua rằng: Ngôi vua Chuyển Luân Vương nầy, vua ngự trị đã lâu, tôi chưa từng được, xin nguyện đại vương, hãy nhường cho tôi, cùng với thân vua làm thần nô bộc cho tôi.
Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ rằng: Thân tôi và châu báu, cùng với ngôi vua, đều là pháp vô thường tan hoại. Nay tôi mạnh khoẻ cường tráng, giàu có thiên hạ, kẻ xin hiện tiền, đem vật không kiên cố để cầu pháp kiên cố. Nghĩ như vậy rồi liền bố thí, cho đến dùng thân cung kính chuyên cần làm tôi tớ, tâm chẳng hối tiếc. Đó gọi là nội ngoại thí.
Thế nào là Bồ Tát thí tất cả ? Phật tử ! Bồ Tát nầy cũng như nói ở trên, làm vua Chuyển Luân Vương, đầy đủ bảy báu, thống trị bốn thiên hạ.
Bấy giờ, có vô lượng người bần cùng, đến trước mặt vua, bèn nói rằng: Đại vương tiếng tăm vang khắp mười phương, chúng tôi nghe tin, nên đến đây. Chúng tôi đều có sở cầu, xin đại vương thuỳ từ khắp, khiến cho chúng tôi đều được đầy đủ.
Bấy giờ, các người nghèo ở chỗ đại vương đó, hoặc cầu xin đất nước, hoặc xin vợ con, hoặc xin chân tay, máu thịt tim gan, đầu mắt tuỷ não.
Bấy giờ, Bồ Tát tâm nghĩ như vầy: Tất cả ân ái, tất sẽ biệt ly, mà đối với chúng sinh, chẳng có sự lợi ích. Nay tôi vì muốn vĩnh viễn xả bỏ tham ái, đem những thứ nhất định sẽ ly tán nầy, làm mãn tâm nguyện của chúng sinh. Nghĩ như vậy rồi, thảy đều đem bố thí, tâm chẳng hối hận, cũng chẳng sinh tâm khinh nhàm chúng sinh. Đó gọi là thí tất cả.
Thế nào là Bồ Tát quá khứ thí ? Bồ Tát nầy nghe hết thảy công đức quá khứ của chư Phật Bồ Tát. Nghe rồi chẳng chấp trước, biết rõ thông đạt chẳng có, chẳng khởi phân biệt. Chẳng tham, chẳng đắm, cũng chẳng cầu lấy, không chỗ nương cậy. Thấy pháp như mộng, chẳng có bền vững. Nơi các căn lành, chẳng khởi hữu tưởng, cũng chẳng chỗ nương. Chỉ vì giáo hoá trước thủ chúng sinh, thành thục Phật pháp, mà vì họ diễn nói.
Lại quán sát các pháp quá khứ, tìm cầu mười phương đều không thể được. Nghĩ như vậy rồi, nơi pháp quá khứ, thảy đều xả bỏ. Đó gọi là quá khứ thí.
Thế nào là Bồ Tát vị lai thí ? Bồ Tát nầy nghe chư Phật vị lai tu hành, thấu rõ thông đạt chẳng có, chẳng thủ lấy tướng, chẳng muốn vãng sanh về các cõi nước chư Phật, chẳng đắm, chẳng chấp, cũng chẳng sinh nhàm chán, chẳng đem căn lành hồi hướng về đó, cũng chẳng ở nơi đó mà thối chuyển căn lành. Thường siêng tu hành, chưa từng xả bỏ.
Chỉ muốn vì cảnh giới đó, nhiếp lấy chúng sinh, vì họ nói pháp chân thật, khiến cho họ thành thục Phật pháp. Nhưng pháp nầy chẳng có xứ sở, chẳng phải không xứ sở. Chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng gần, chẳng xa. Lại nghĩ như vầy: Nếu pháp chẳng có, không thể không xả. Đó gọi là vị lai thí.
Thế nào là Bồ Tát hiện tại thí ? Bồ Tát nầy nghe các trời Tứ Thiên Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hoá Lạc, trời Tha Hoá Tự Tại, trời Phạm Thiên, trời Phạm Thân, trời Phạm Phụ, trời Phạm Chúng, trời Đại Phạm, trời Quang Thiên, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm, trời Tịnh Thiên, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng Thiên, trời Thiểu Quảng, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, cho đến nghe bậc Thanh Văn, Duyên Giác, đầy đủ công đức. Nghe rồi, tâm của Bồ Tát nầy chẳng mê, chẳng mất, chẳng tụ, chẳng tán. Chỉ quán các hạnh như mộng, chẳng thật, chẳng có tham trước.
Vì khiến cho chúng sinh xả lìa cõi ác, tâm của Ngài chẳng có phân biệt, tu Bồ Tát đạo, thành tựu Phật pháp, mà vì họ khai xiển diễn nói. Đó gọi là hiện tại thí.
Thế nào là Bồ Tát cứu kính thí ? Phật tử ! Bồ Tát nầy, giả sử có vô lượng chúng sinh, hoặc có người không mắt, hoặc có người không tai, hoặc có người không mũi lưỡi, cùng với tay chân, đến chỗ Bồ Tát, bạch rằng: Thân tôi bạc phúc, các căn tàn tật thiếu khuyết. Xin ngài nhân từ, dùng phương tiện khéo léo, xả bỏ những gì Ngài có, khiến cho tôi được đầy đủ.
Bồ Tát nghe rồi, lập tức bố thí cho. Giả sử do đây trải qua A tăng kỳ kiếp, các căn không đủ, tâm Bồ Tát cũng chẳng sinh một niệm hối tiếc.
Chỉ tự quán sát thân thể, từ khi bắt đầu nhập thai, thân hình chẳng thanh tịnh, chịu cảnh sinh già bệnh chết. Lại quán thân nầy, chẳng có chân thật, chẳng có hổ thẹn, chẳng phải là vật Thánh hiền, hôi dơ chẳng sạch, gân cốt chằng chịt với nhau, máu thịt kết lại. Chín lỗ thường chảy ra, ai cũng nhờm gớm, quán như vậy rồi, chẳng sinh một tâm niệm thương tiếc chấp trước.
Lại nghĩ như vầy: Thân nầy nguy hiểm, suy nhược, chẳng có bền vững. Nay sao tôi lại sinh tâm luyến ái, chấp trước ? Nên đem bố thí cho họ, khiến cho họ mãn nguyện.
Như chỗ tôi làm, dùng đây khai đạo tất cả chúng sinh, khiến cho họ thân tâm chẳng sinh tham ái, thảy đều được thành tựu, trí thân thanh tịnh. Đó gọi là cứu kính thí. Đó là thí tạng thứ sáu của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Những gì là huệ tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy nơi sắc biết như thật. Sắc tập biết như thật. Sắc diệt biết như thật. Sắc diệt đạo biết như thật. Nơi thọ tưởng hành thức biết như thật. Thọ tưởng hành thức tập biết như thật. Thọ tưởng hành thức diệt biết như thật. Thọ tưởng hành thực diệt đạo biết như thật.
Nơi vô minh biết như thật, vô minh tập biết như thật, vô minh diệt biết như thật, vô minh diệt đạo biết như thật.
Nơi ái biết như thật, ái tập biết như thật, ái diệt biết như thật, ái diệt đạo biết như thật.
Nơi Thanh Văn biết như thật, pháp Thanh Văn biết như thật, Thanh Văn tập biết như thật, Thanh Văn Niết Bàn biết như thật.
Nơi Độc Giác biết như thật, pháp Độc Giác biết như thật, Độc Giác tập biết như thật, Độc Giác Niết Bàn biết như thật.
Nơi Bồ Tát biết như thật, pháp Bồ Tát biết như thật, Bồ Tát tập biết như thật, Bồ Tát Niết Bàn biết như thật.
Biết như thế nào ? Biết từ nghiệp báo các hành nhân duyên tạo tác. Tất cả đều hư giả, chẳng thật. Chẳng có cái ta, chẳng bền vững, chẳng có chút pháp có thể được thành lập.
Muốn khiến cho chúng sinh biết thật tánh, rộng vì tuyên nói. Nói những gì ? Nói các pháp không thể hoại. Những Pháp gì không thể hoại? Sắc không thể hoại, thọ tưởng, hành, thức, không thể hoại. Vô minh không thể hoại. Pháp Thanh Văn, pháp Độc Giác, pháp Bồ Tát, không thể hoại.
Tại sao? Vì tất cả pháp đều không làm, chẳng có ai làm. Không lời nói, không xứ sở. Không sinh, không khởi, không cho, không lấy, không động chuyển, không tác dụng.
Bồ Tát thành tựu vô lượng huệ tạng như vậy, dùng chút ít phương tiện, thấu rõ tất cả pháp, thì tự nhiên thông đạt, không do kẻ khác giác ngộ.
Huệ vô tận tạng nầy, có mười thứ không thể tận, nên nói là vô tận. Những gì là mười ? Đó là: Đa văn thiện xảo, nên không thể tận. Gần gũi thiện tri thức, nên không thể tận. Khéo phân biệt câu nghĩa, nên không thể tận. Vào sâu pháp giới, nên không thể tận. Dùng một vị trí trang nghiêm, nên không thể tận. Tập tất cả phước đức, tâm chẳng nhàm mỏi, nên không thể tận. Vào tất cả môn đà la ni, nên không thể tận. Phân biệt được lời lẽ âm thanh của tất cả chúng sinh, nên không thể tận. Dứt được nghi hoặc của tất cả chúng sinh, nên không thể tận. Vì tất cả chúng sinh, hiện tất cả thần lực của Phật, để giáo hoá điều phục, khiến cho họ tu hành không gián đoạn, nên không thể tận. Đó là mười.
Đó là huệ tạng thứ bảy của đại Bồ Tát. Bồ Tát trụ nơi tạng nầy, đắc được trí huệ vô tận, khắp khai ngộ tất cả chúng sinh.
Phật tử ! Thế nào là niệm tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy xả lìa nghi hoặc, đắc được niệm đầy đủ.
Nghĩ nhớ quá khứ một đời, hai đời, cho đến mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời.
Kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại, chẳng phải một kiếp thành, chẳng phải một kiếp hoại, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn ức Na do tha, cho đến vô lượng, vô số, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lường, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.
Nhớ một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật.
Nhớ một vị Phật ra đời nói thọ ký, cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật ra đời nói thọ ký.
Nhớ một vị Phật ra đời nói Tu đa la, cho đến nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết vị Phật ra đời nói Tu đa la.
Như Tu đa la, Kỳ dạ, thọ ký, Già đà, Ni đà na, Ưu đà na, bổn sự, bổn sinh, phương quảng, vị tằng hữu, ví dụ, luận nghị, cũng đều như vậy.
Nhớ một chúng hội, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng hội.
Nhớ diễn nói một pháp, cho đến diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết pháp.
Nhớ một căn đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn đủ thứ tánh.
Nhớ một căn vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn vô lượng đủ thứ tánh.
Nhớ một phiền não đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh.
Nhớ một tam muội đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đủ thứ tánh.
Niệm tạng nầy có mười thứ. Đó là: Niệm vắng lặng, niệm thanh tịnh, niệm chẳng trược, niệm minh triệt, niệm lìa trần, niệm lìa đủ thứ trần, niệm lìa cấu, niệm quang diệu, niệm khả ái lạc, niệm không chướng ngại.
Bồ Tát trụ ở niệm nầy, thì tất cả thế gian không thể nhiễu loạn. Tất cả dị luận không thể biến động. Căn lành đời trước đều được thanh tịnh. Nơi các pháp thế gian không thể nhiễm trước. Các ma ngoại đạo không thể phá hoại được. Chuyển thân thọ sanh không quên mất. Quá khứ, hiện tại, vị lai, nói pháp vô tận. Ở trong tất cả thế giới, đồng ở với chúng sinh, chưa từng lỗi lầm. Vào trong chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, chẳng có chướng ngại. Chỗ tất cả chư Phật đều được gần gũi. Đó gọi là niệm tạng thứ tám của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Thế nào là trì tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy thọ trì Tu đa la của chư Phật nói. Văn câu nghĩa lý, chẳng có quên mất. Một đời thọ trì, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết đời thọ trì.
Thọ trì một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật.
Thọ trì một kiếp số, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp số.
Thọ trì một Phật thọ ký, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật thọ ký.
Thọ trì một Tu đa la, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Tu đa la.
Thọ trì một chúng hội, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng hội.
Thọ trì diễn nói một pháp, cho đến diễn nói bất khả thuyết bất khả thuyết pháp.
Thọ trì một căn vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết căn vô lượng đủ thứ tánh.
Thọ trì một phiền não đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phiền não đủ thứ tánh.
Thọ trì một tam muội đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đủ thứ tánh.
Phật tử ! Trì tạng nầy vô biên, khó viên mãn được, khó đến được tột đáy, khó được gần gũi. Không thể chế phục. Vô lượng, vô tận, đủ oai lực lớn. Là cảnh giới của Phật, chỉ có Phật mới thấu rõ được. Đó gọi là trì tạng thứ chín của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Thế nào là biện tạng của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy có trí huệ thâm sâu, biết rõ thật tướng. Rộng vì chúng sinh diễn nói các pháp, chẳng trái với kinh điển của tất cả chư Phật.
Nói pháp một phẩm, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết phẩm pháp. Nói một danh hiệu Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết danh hiệu Phật. Như vậy nói một thế giới, nói một Phật thọ ký. Nói Một Tu đa la, nói một chúng hội, nói diễn một pháp, nói một căn vô lượng đủ thứ tánh, nói một phiền não vô lượng đủ thứ tánh, nói một tam muội vô lượng đủ thứ tánh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội vô lượng đủ thứ tánh.
Hoặc một ngày diễn nói, hoặc nửa tháng, một tháng diễn nói, hoặc trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm diễn nói. Hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp diễn nói. Hoặc trăm ngàn ức Na do tha kiếp diễn nói. Hoặc vô số, vô lượng, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp diễn nói. Kiếp số có thể hết, nhưng nghĩa lý của một câu văn diễn nói khó hết được.
Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy thành tựu mười thứ tạng vô tận. Thành tựu tạng nầy, thì nhiếp được tất cả pháp môn đà la ni hiện ở trước. Trăm vạn A tăng kỳ môn đà la ni dùng làm quyến thuộc. Đắc được đà la ni nầy rồi, thì dùng pháp quang minh, để rộng vì chúng sinh diễn nói pháp.
Khi Bồ Tát nói pháp, thì dùng lưỡi rộng dài, vang ra âm thanh vi diệu, sung mãn mười phương, tất cả thế giới. Tuỳ theo căn tánh của chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ, tâm được hoan hỉ. Diệt trừ tất cả phiền não trần cấu ràng buộc. Khéo vào tất cả âm thanh ngôn ngữ văn tự biện tài, khiến cho tất cả chúng sinh, không dứt giống Phật, tâm thanh tịnh liên tục. Cũng dùng pháp quang minh, để diễn nói pháp, chẳng có cùng tận, chẳng sinh tâm mỏi mệt. Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy thành tựu vô biên thân, tận hư không khắp pháp giới. Đó là biện tạng thứ mười của đại Bồ Tát.
Tạng nầy vô cùng tận, không phần đoạn, không gián đoạn, không đổi khác, không chướng ngại, không thối chuyển, thâm sâu không đáy, khó có thể vào được, vào khắp tất cả môn Phật pháp.
Phật tử ! Mười thứ tạng vô tận nầy, có mười thứ pháp vô tận. Khiến cho các Bồ Tát rốt ráo thành tựu vô thượng bồ đề.
Những gì là mười ? Vì lợi ích tất cả chúng sinh. Vì dùng bổn nguyện khéo hồi hướng. Vì tất cả kiếp không đoạn tuyệt. Vì tận cõi hư không đều khai ngộ tâm vô hạn. Vì hồi hướng hữu vi mà chẳng chấp trước. Vì một niệm cảnh giới tất cả pháp vô tận. Vì đại nguyện tâm không đổi khác. Vì khéo nhiếp lấy các đà la ni. Vì được chư Phật hộ niệm. Vì thấu rõ tất cả pháp đều như huyễn.
Đó là mười pháp vô tận, hay khiến cho chỗ thật hành của tất cả thế gian, đều được rốt ráo đại tạng vô tận.
No comments:
Post a Comment