KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM
Đời Đường, sa môn Bát Lạt Mật Đế
(người Trung-Thiên-trúc) dịch từ Phạn văn ra Hán văn
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích
CHÚ THÍCH
(1) Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm. (Xin xem bài “Giới Thiệu Kinh Thủ Lăng Nghiêm” ở đầu quyển.)
(2) Về các thành viên của Hội Đồng Phiên Dịch Kinh Lăng Nghiêm, trongTạng Đại Chánh (quyển 19, kinh số 945, trang 106) có ghi tên 3 vị: sa môn Bát Lạt Mật Đế (dịch chủ), cư sĩ Phòng Dung (bút thọ), và sa môn Di Già Thích Ca (dịch ngữ); còn pháp sư Viên Anh, trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, thì ghi tên 4 vị: sa môn Bát Lạt Mật Đế (dịch chủ), sa môn Di Già Thích Ca (dịch ngữ), sa môn Hoài Địch (chứng nghĩa), và cư sĩ Phòng Dung (bút thọ). Ở đây chúng tôi xin ghi 4 vị theo pháp sư Viên Anh.
- Bát Lạt Mật Đế (Pramiti): (Xin xem bài “Giới Thiệu Kinh Thủ Lăng Nghiêm” ở đầu quyển.) Ngài là vị “dịch chủ”, tức là vị đứng đầu Hội Đồng Phiên Dịch, chủ tọa đạo tràng dịch Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Chính ngài tụng nguyên bản Phạn văn của Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm.
- Di Già Thích Ca: Người nước Ô-trành (tên cũ là Ô-trường, pháp sư Huyền-trang gọi là Ô-trượng-na) ở Bắc Thiên-trúc, không rõ tiểu sử chi tiết. Tên ngài có nghĩa là “năng hàng phục”. Trong đạo tràng dịch Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, ngài là vị “dịch ngữ”, tức là dịch Phạn văn ra Hoa văn.
- Hoài Địch: Tên ngài có nghĩa là luôn luôn giữ tâm tinh tấn. Ngài là người tỉnh Quảng-đông, trú tại chùa Nam-lâu ở núi La-phù. Ngài học rộng cả nội điển lẫn ngoại điển, lại được học Phạn văn với các vị cao tăng Ấn-độ. Trong đạo tràng dịch Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm ở chùa Chế-chỉ (Quảng-châu, thủ phủ của tỉnh Quảng-đông) vào năm 705, ngài được mời giữ nhiệm vụ “chứng nghĩa”, tức thẩm định sự chính xác của bản dịch và hiệu chính những chỗ sai sót, làm cho bản dịch được hoàn chỉnh. Năm 706, khi ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch Kinh Đại Bảo Tích tại kinh đô Trường-an, ngài cũng được triệu vào kinh giữ nhiệm vụ “chứng nghĩa”. Năm sinh và năm mất của ngài đều không thấy ghi chép.
- Phòng Dung: là vị cư sĩ thọ Bồ-tát giới, giữ nhiệm vụ “nhuận văn và bút thọ” (tức nhuận sắc văn từ và biên chép thành bản kinh) trong đạo tràng dịch Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Ông là người huyện Thanh-hà (tỉnh Hà-nam), học rộng biết nhiều, đỗ tiến sĩ. Dưới triều hoàng đế Võ Tắc Thiên (684-705), ông làm quan đến chức chánh-nghị đại phu, đồng trung thư môn hạ, bình chương sự, quyền kiêm cả hai tướng văn võ. Khi vua Đường Trung-tông (705-710) lên ngôi, ông bị giáng chức đày đi Quảng-đông. Khi đến Quảng-châu, ông gặp được tam tạng pháp sư Bát Lạt Mật Đế, được mời về chùa Chế-chỉ để cùng dịch bộ Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Năm sinh và năm mất của ông đều không biết rõ.
(3) Tinh xá Kì-hoàn. Chữ “tinh xá” có nghĩa là chỗ ở của những người tinh cần tu hành phạm hạnh, nói rõ ra, đó là nơi chư Tăng Ni cư trú tu học và hành đạo; Phật giáo Việt-nam thường gọi đó là chùa, tu viện, hay tòng lâm. Kì-hoàn là tên một tu viện Phật giáo ở kinh thành Xá-vệ của nước Kiều-tát-la, miền Bắc Ấn-độ, thời Phật tại thế. Chữ “Kì” tức Kì Đà, là tên vị thái tử con vua Ba Tư Nặc, nước Kiều-tát-la; chữ “hoàn” nghĩa là cây, rừng. Kì-hoàn cũng tức là Kì-viên, nguyên là khu hoa viên của thái tử Kì Đà. Ngôi tinh xá này do trưởng giả Cấp Cô Độc xây cất trong khu hoa viên của thái tử Kì Đà để cúng dường Phật và giáo đoàn, nên được gọi là tinh xá Kì-hoàn (hay Kì-viên, hoặc Kì-thọ-Cấp-cô-độc-viên). Câu chuyện xây cất tu viện Kì-viên như sau:
Nguyên, Cấp Cô Độc là một vị trưởng giả triệu phú ở kinh thành Xá-vệ. Ông tên thật là Tu Đạt, vì thường hay chu cấp giúp đỡ cho những kẻ khốn khó, cô đơn, cho nên mọi người đã kính mến và tặng cho ông biệt hiệu là Cấp Cô Độc, có nghĩa là “người cứu giúp kẻ nghèo khó, cô độc”. Ông có vợ và bốn con, ba gái đầu và một trai út.
Tu Đạt có người anh vợ là một thương gia giàu có ở tại kinh thành Vương-xá (nước Ma-kiệt-đà, miền Trung Ấn-độ). Mỗi khi có việc sang đây, ông đều trú tại nhà người anh vợ này. Một hôm đến đây, Tu Đạt thấy ông anh vợ đang bận rộn tíu tít sửa soạn một bữa tiệc lớn cho ngày mai. Ông hỏi thăm thì người anh vợ cho biết, sửa soạn để ngày mai cung thỉnh Phật và chư vị tì kheo đến thọ trai tại nhà.
Mới nghe tiếng “Phật” từ chính miệng ông anh vợ nói ra, Tu Đạt bỗng thấy lòng nảy sinh niềm hứng thú lạ thường. Ông yêu cầu người anh vợ nói thêm rõ ràng về bậc giác ngộ cho ông nghe. Nhân cơ hội đó, người anh vợ đã nói cho Tu Đạt biết về tư cách, đức độ và trí tuệ siêu việt của đức Phật. Chính ông đã được nghe Phật nói pháp và được làm đệ tử tại gia của Ngài. Ông cũng đã được Ngài cho phép dựng lên sáu mươi am thất nhỏ rải rác trong tu viện Trúc-lâm để cúng dường chư tăng.
Thật là một cơ duyên mầu nhiệm! Khi nghe được những điều đó, Tu Đạt cảm thấy sung sướng vô cùng, sinh lòng kính ngưỡng ngay đối với đức Phật. Suốt đêm đó ông nằm thao thức, không ngủ được, lòng cứ nôn nao mong cho mau sáng để được gặp Phật. Cuối cùng, không thể chờ đợi được, dù trời chưa sáng, ông vẫn nhất quyết đến Trúc-lâm để tìm gặp Phật. Khi ông vào đến khuôn viên tu viện thì trời vừa tờ mờ sáng. Dù lòng đang nôn nóng, nhưng ông cũng đang cảm thấy e ngại. Bỗng nhiên ông nghe có tiếng người gọi đích danh ông: “Tu Đạt!” Nhìn thẳng trước mặt, ông thấy một người, và linh tính báo cho ông biết, người đó chính là đức Phật. Đúng vậy, đó chính là đức Phật, lúc đó Ngài đang đi thiền hành ngoài trời. Khi thoáng thấy có người đi tới, Ngài đã biết ngay đó là Tu Đạt! Ông tỉnh người, tiến tới một bước. Một cách nghiêm trang và thành kính, ông chắp tay đảnh lễ Ngài. Ông tự giới thiệu mình và kể cho Phật nghe tâm trạng của ông từ hôm qua đến giờ, rồi xin Phật dạy cho ông về đạo lí. Đó là một buổi sáng tại tu viện Trúc-lâm, sau khi mùa an cư lần thứ ba của Phật chấm dứt.
Sau khi nghe bài pháp đầu tiên, tâm ông bừng sáng. Ông vui sướng đảnh lễ và xin Phật nhận cho ông được làm đệ tử tại gia của Ngài. Phật hoan hỉ chấp nhận. Khi đức Phật hướng dẫn chư tăng đến thọ lễ cúng dường tại nhà người anh vợ của ông, ông cũng thỉnh Phật và chư tăng ngay ngày hôm sau đến đây để thọ lễ trai tăng do chính ông cúng dường. Trong lễ trai tăng này, Tu Đạt đã thành khẩn thỉnh cầu Phật và chư tăng sang Xá-vệ, quê hương ông, để truyền bá chánh pháp. Ông phát nguyện sẽ kiến lập một ngôi tu viện lớn tại kinh thành Xá-vệ để cúng dường Phật và giáo đoàn làm cơ sở tu học và hành đạo tại vương quốc Kiều-tát-la.
Lời thỉnh cầu trên đã được Phật hứa khả. Ông liền trở về Xá-vệ để tìm địa điểm xây cất tu viện. Ông đã đi quan sát nhiều nơi chung quanh kinh thành, nhưng đều không ưng ý. Bấy giờ, thái tử Kì Đà của nước Kiều-tát-la, có một khu vườn cây nằm sát kinh thành, do vua cha là Ba Tư Nặc ban cho. Nơi đó rộng rãi, thanh tịnh, phong cảnh tươi đẹp, u nhã, thật là một địa điểm thích hợp để lập tu viện. Cư sĩ Tu Đạt vừa ý lắm, bèn vào hoàng cung xin gặp thái tử để thương lượng mua lại. Gặp thái tử, ông trình bày ước muốn của mình là được mua khu vườn cây của thái tử để xây cất tu viện cúng dường đức Phật và giáo đoàn của Ngài, làm cơ sở tu học và hoằng pháp. Thái tử nói đùa:
– Khu vườn ấy là của phụ hoàng cho tôi. Tôi quí nó như vàng. Nếu ông có thể đem vàng ròng trải kín đầy mặt đất khắp khu vườn thì tôi mới chịu bán nó cho ông.
Nhưng Tu Đạt thì cho đó là lời nói nghiêm túc, bèn trả lời:
– Thưa vâng. Sáng mai tôi sẽ chở vàng tới và làm đúng theo điều kiện của thái tử vừa đưa ra.
Thật là bất ngờ! Thái tử giật mình kinh ngạc:
– Tôi chỉ nói đùa thôi mà, chứ khu vườn đó tôi không muốn bán đâu. Ông đừng chở vàng tới!
Nhưng trưởng giả vẫn nghiêm trang:
– Thưa thái tử! Ngài là bậc vương giả. Ngài đã nói điều gì thì điều ấy không thể chối bỏ được.
Thái tử đành nhượng bộ, nhưng trong lòng vẫn mong cho Tu Đạt không có đủ vàng để ông khỏi mất khu vườn. Không để cho thái tử có thì giờ nói thêm lời gì, Tu Đạt vội vã cáo từ.
Sáng hôm sau, khi thái tử ra đến khu vườn thì đã thấy Tu Đạt chở vàng tới rồi, và gia nhân của ông đang lót vàng trên mặt đất vườn. Thái tử chứng kiến cảnh tượng lót vàng mà càng lúc càng cảm thấy kì lạ. Thái tử linh cảm đây không phải là chuyện bình thường. Ông trưởng giả chịu bỏ ra từng đống vàng một cách không tiếc rẻ để chỉ mua một khu vườn cây chỉ có giá trị giải trí chứ không có lợi tức gì thiết thực cả như thế này, thực ra là vì chuyện gì? Như vậy, con người mà ông trưởng giả gọi là “Phật” đó, chắc chắn phải là một nhân vật phi thường! Lúc ấy vàng đã được trải gần kín hết khu vườn, và Tu Đạt thì đang đứng nhìn những gốc cây có vẻ tư lự. Thái tử đến vỗ vai Tu Đạt, hỏi:
– Ông đang suy nghĩ gì? Hay muốn thay đổi ý kiến chăng?
Tu Đạt giật mình, vội trả lời:
– Không phải vậy. Tôi đang suy nghĩ xem làm sao mà trải vàng lấp được những gốc cây. Khó quá!
Nhưng thái tử đã chận lại, xin ông nói cho nghe về đức Phật và giáo đoàn của Ngài, xem có gì đặc biệt. Mắt Tu Đạt bỗng sáng lên vì hãnh diện. Ông bắt đầu nói về tư cách, đạo đức và trí tuệ vượt bậc của Phật, về giáo pháp mà Phật đã dạy cho ông, và về đời sống thanh cao, phạm hạnh của giáo đoàn. Thái tử nghe những điều ông nói, cũng cảm thấy hứng khởi trong lòng, liền đề nghị:
– Thôi, lót vàng như thế cũng đủ rồi, đừng suy nghĩ nữa. Thẻo đất trống còn lại, và tất cả cây trong vườn, tôi cũng xin cúng dường Phật, gọi là xin đóng góp chút ít vào công trình cao đẹp của ông. Cứ coi như là ông cúng đất và tôi cúng cây để xây tu viện. Được một người như thái tử thấu hiểu và thật tâm ủng hộ mình, Tu Đạt hân hoan không xiết kể. Từ đó, khu vườn được gọi tên là “Vườn Cấp Cô Độc với cây của Kì Đà” (Kì Thọ Cấp Cô Độc Viên – gọi tắt là Kì-viên).
Thế là địa điểm đã có, cư sĩ Tu Đạt lập tức trở lại thành Vương-xá để trình lên đức Phật, và xin Ngài ban cho ý kiến về việc xây cất tu viện. Đức Phật đã phái tôn giả Xá Lợi Phất cùng đi Xá-vệ với Tu Đạt để trông nom công việc xây cất.
Bốn tháng sau thì công tác kiến thiết hoàn tất. Tu viện có tịnh thất của Phật, có tăng xá, thiền đường, giảng đường, nhà dưỡng bệnh, nhà tắm, hồ nước, đường thiền hành, v.v..., coi như là đầy đủ tiện nghi, và có vẻ còn bề thế hơn cả tu viện Trúc-lâm. Tu viện được gọi bằng nhiều tên: Kì-viên, Kì-hoàn, Cấp-cô-độc, hay Kì-thọ-Cấp-cô-độc.
Kì-viên là trung tâm tu học và hành đạo to lớn được xây cất sau tu viện Trúc-lâm. Đức Phật đã trải qua mùa an cư thứ tư tại đây. Từ mùa an cư thứ hai mươi, đức Phật được chư tăng cung thỉnh, mỗi năm cứ tới mùa mưa, Ngài lại về an cư tại Kì-viên. Tổng cộng, tại tu viện này, đức Phật đã an cư cả thảy mười chín lần. Phần lớn các kinh điển cũng đã được Phật nói tại đây.
(4) Thành Thất-la-phiệt: tức là thành Xá-vệ, kinh đô của nước Kiều-tát-la, miền Bắc Thiên-trúc, thời Phật tại thế. “Thất-la-phiệt”, dịch ra Hán ngữ là “phong đức”, ý nói, đây là địa phương vừa rất giàu có về của cải, vật báu, mà hạng dân chúng tài giỏi, đức độ cũng rất nhiều. Ở miền Nam Thiên-trúc cũng có nước Kiều-tát-la, nhưng hồi Phật tại thế, Phật giáo chưa truyền bá đến nước này.
(5) Vô lậu đại A-la-hán. Chữ “vô lậu” nghĩa là không rơi rớt vào vòng sinh tử luân hồi, tức là giải thoát khỏi ba cõi. Ngược lại, “lậu” là những tội lỗi khiến cho chúng sinh mãi đọa lạc vào vòng sinh tử luân hồi; bởi vậy, “lậu” là một tên khác của “phiền não”. Lậu có ba loại: các phiền não của chúng sinh ở cõi Dục, gọi là “dục lậu”; các phiền não của chúng sinh ở hai cõi Sắc và Vô-sắc, gọi là “hữu lậu”; màn vô minh bao phủ cả ba cõi, gọi là “vô minh lậu”. Diệt trừ hết cả ba loại lậu này thì giải thoát khỏi ba cõi, dứt tuyệt sinh tử luân hồi – gọi là “vô lậu”. A-la-hán là bậc thánh đã dứt trừ hết ba loại lậu trên, giải thoát ra ngoài ba cõi, không còn sinh tử luân hồi. “A-la-hán” gồm 3 nghĩa: ứng cúng (xứng đáng được cả trời và người cúng dường), sát tặc (dứt sạch mọi phiền não trong ba cõi), và vô sinh (không còn tái sinh vào ba cõi). Sau khi vượt khỏi địa vị phàm phu, các hành giả Thanh-văn thừa tu chứng trải qua ba quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, thì đến quả vị thứ tư là A-la-hán, đó là quả vị cuối cùng của hàng Thanh-văn, giải thoát sinh tử luân hồi. Các bậc A-la-hán này, tuy đã dứt hết phiền não trong ba cõi, giải thoát sinh tử luân hồi, nhưng vẫn còn vướng phần vô minh vi tế, nên thành quả giải thoát chưa được rốt ráo, tuy nhập niết bàn nhưng chưa phải là niết bàn tuyệt đối như chư Phật. Trí tuệ của các bậc A-la-hán này không lãnh hội nổi các kinh liễu nghĩa thượng thừa, nên không phải là thính chúng đương cơ trong pháp hội Thủ Lăng Nghiêm; mà thính chúng ở đây được ghi là toàn các bậc “đại A-la-hán”. Đó là các vị tuy bề ngoài hiển lộ là thân phận A-la-hán, nhưng thực chất ẩn tàng bên trong là trí tuệ và tâm địa của Bồ-tát. Có thể nói, đó là các bậc Bồ-tát thị hiện làm thân A-la-hán để hỗ trợ đức Phật tuyên dương giáo pháp đại thừa, như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Tu Bồ Đề, v.v...
(6) Phật tử trụ trì. Từ “Phật tử” ở đây mang ý nghĩa như trong Kinh Pháp Hoa nói: “Từ trong miệng Phật sinh ra, từ trong Phật pháp mà hóa sinh ra, nối tiếp dòng giống Phật.” Từ “trụ trì” ở đây hàm hai ý nghĩa: 1) an trụ trong ngôi nhà của đấng Pháp Vương để giữ gìn kho tàng pháp bảo của Phật; 2) an trụ trong đại định Thủ Lăng Nghiêm và giữ gìn chân tánh như thật thường trú; bất biến nhưng tùy duyên mà thị hiện vào sinh tử để làm Phật sự; tùy duyên nhưng bất biến để không bị nhiễm trước trần lao như phàm phu.
(7) Bích-chi vô-học. Bích-chi Phật là quả vị chứng đắc của Duyên-giác thừa, dịch ý ra Hán ngữ là Duyên-giác, hay Độc-giác; chỉ cho những vị không có đạo sư hướng dẫn, mà một mình tự giác, tự ngộ để đạt thành quả vị thánh nhân. Hành giả sinh trong đời không có Phật tại thế, nhưng do nhân duyên tu tập đời trước, không theo học ai, thích ở nơi sơn lâm tịch tĩnh, quán sát cảnh hoa rơi lá rụng, tự phát sinh trí tuệ, cảm nhận tính vô thường hoại diệt của thế gian mà ngộ đạo, đó là bậc Độc-giác. Hành giả sinh trong đời có Phật tại thế, được Phật dạy cho giáo pháp Mười hai nhân duyên, nương theo đó tu tập mà được giác ngộ; hoặc sinh trong đời không có Phật tại thế, nhưng Phật pháp vẫn còn lưu truyền ở thế gian, nhờ căn lành đời trước, hành giả tự mình quán sát tu tập, thấu rõ đạo lí Mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, đó là bậc Duyên-giác. Luận Câu Xáphân ra hai loại Độc-giác: Hành giả từng tu theo Thanh-văn thừa, đã chứng ba quả vị Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, rồi tạm rời xa Phật, một mình tự tu tự ngộ để đạt quả vị A-la-hán, gọi là Bộ-hành Độc-giác. Hành giả chỉ ở một mình, tự tu tập, trải qua một trăm đại kiếp, tích tụ công đức, cuối cùng được giác ngộ, gọi là Lân-giác Độc-giác. Luận Đại Trí Độ lại nói: Hành giả sinh trong đời không có Phật xuất hiện, hoặc Phật pháp đã diệt, nhưng do nhân duyên đời trước, tự phát trí tuệ, không theo ai học, do thấy được một ít nhân duyên như hoa rơi lá rụng mà trí vô lậu phát sinh, dứt sạch kiết sử, chứng quả Bích-chi Phật, gọi là Duyên-giác Bích-chi Phật.Hành giả vốn đã chứng quả Dự-lưu, đã thọ sinh đủ bảy lần trong nhân gian, nhưng lần chót này lại không gặp Phật xuất hiện, hoặc Phật pháp đã diệt, bèn tự tu tự chứng ngộ, gọi là Tiểu Bích-chi Phật; hoặc hành giả từng tu tập trải qua trăm kiếp, tích tụ công đức, tăng trưởng trí tuệ, chứng ngộ thánh quả, gọi là Đại Bích-chi Phật;cả Tiểu và Đại Bích-chi Phật, gọi chung là Độc-giác Bích-chi Phật. Bích-chi Phật là quả vị cuối cùng của Duyên-giác thừa. Khi chưa chứng quả thì còn tu học, gọi là “hữu-học”; khi đã chứng quả thì nhập niết bàn, không còn gì phải học, nên gọi là “vô-học”. Cũng vậy, A-la-hán là quả vị cao tột của Thanh-văn thừa. Khi chưa chứng quả này thì còn phải tu học, gọi là “hữu-học”; khi đã chứng quả thì nhập niết bàn, không còn gì phải học, nên gọi là “vô-học”. Và siêu việt hơn hết, đức Phật cũng là bậc Vô-học.
(8) Sơ phát tâm: nghĩa là mới phát tâm tu học theo Phật pháp; ở đây là chỉ cho các vị “hữu-học” thuộc Duyên-giác thừa, đồ đệ của chư vị Bích-chi Phật.
(9) Từ Nghiêm: nghĩa là từ bi nghiêm túc. Đức Phật ân đức và uy đức đều đầy đủ, nên cũng được tôn xưng là đấng Từ Nghiêm.
(10) Ca-lăng-tần-già: là tên một loài chim, có nghĩa là tiếng hót vi diệu. Loài chim này sống trong các hang núi ở vùng Tuyết-sơn, Ấn-độ, màu giống như chim sẻ, lông cánh mịn đẹp, mỏ đỏ; chúng đã có thể hót được từ khi còn nằm trong trứng, tiếng hót trong trẻo, hòa nhã, hay tuyệt diệu, không có loài chim nào trong các cõi trời và người hót hay bằng. Trong kinh điển Phật giáo, tiếng chim này thường được dùng để ví dụ cho âm thanh mĩ diệu của Phật và chư vị Bồ-tát.
(11) Ba Tư Nặc: là vua của vương quốc Kiều-tát-la, kinh đô là thành Xá-vệ, ở Bắc Thiên-trúc thời Phật tại thế. Nhà vua sinh cùng năm với đức Phật, nhưng tạ thế trước Phật một năm. Chánh hậu của nhà vua là phu nhân Mạt Lị, sinh ra thái tử Kì Đà, người đã bán khu vườn to lớn, xinh đẹp của mình cho trưởng giả Cấp Cô Độc, để xây dựng tinh xá Kì-viên cúng dường lên Phật và giáo đoàn. Nhà vua là người tính tình kiêu ngạo, bạo ác, không tin Phật pháp, nhưng từ khi được Phật hóa độ thì lại trở thành một người đệ tử tại gia trung kiên của đức Phật, tính tình thuần từ, khiêm cung, khác hẳn với lúc trước. Phải nói rằng, trong hoàng tộc nhà vua, thái tử Kì Đà đã qui y với đức Phật trước nhất, rồi đến hoàng hậu Mạt Lị; và chính bà đã khôn khéo dẫn dắt nhà vua qui y Tam Bảo. Nhà vua đã có duyên lành, được nghe pháp rất nhiều. Có rất nhiều kinh Phật nói mà thính giả đương cơ là vua Ba Tư Nặc. Nhà vua đối với đức Phật rất chân thành, và tôn kính đức Phật như là bậc từ phụ của mình. Năm nhà vua 79 tuổi, trong khi nhà vua đang du hành ở một vùng biên giới, thì tại thủ đô, hoàng tử Tì Lưu Li, con một bà thứ hậu, đã giết thái tử Kì Đà, rồi tự lên ngôi vua. Nhà vua phải chạy sang kinh thành Vương-xá của nước Ma-kiệt-đà. Nhưng vì tuổi già sức yếu, lại quá nhọc mệt, nhà vua đã không vào được kinh thành Vương-xá, mà đã chết thảm trong một công viên ở ngoài kinh thành, trong đêm rét lạnh. Sáng hôm sau, vua A Xà Thế (cháu gọi nhà vua bằng cậu) mới hay tin, lập tức rước nhục thân nhà vua vào thành làm lễ quốc táng.
(12) Khất thực theo thứ lớp. Thời Phật tại thế, đức Phật và chư vị tì kheo tăng ni đều đi xin ăn (khất thực) hằng ngày để nuôi mạng sống. Đức Phật, và chư tăng ni cũng thế, hôm nào được thí chủ thiết trai cúng dường thì không đi khất thực. Về cách thức đi khất thực, buổi đầu, có vị chọn đi xin ăn những nhà nghèo, có vị chọn đi xin ăn những nhà giàu; sự kiện ấy đã đưa đến tranh luận, mà bên nào cũng có lí do chính đáng để bảo vệ cho lập trường của mình. Cuối cùng đức Phật phải hóa giải bằng cách đưa ra pháp chế “khất thực theo thứ tự”, nghĩa là quí vị tì kheo, vị này tiếp nối vị kia, đi thành hàng một, hết nhà này đến nhà khác, dù thí chủ có cúng dường hay không cũng đều phải đi qua, không được bỏ sót, không phân biệt chọn lựa nhà giàu nhà nghèo, nhà sang nhà hèn. Như thế là tỏ lộ được tâm hóa độ bình đẳng của người xuất gia.
(13) Người đàn việt cuối cùng làm trai chủ. Chữ “đàn việt” nghĩa là bố thí cúng dường được phước đức, nhờ đó mà thoát khỏi cái khổ bần cùng. “Trai chủ” tức là người phát tâm cúng dường bữa ăn lên Phật và tăng chúng. Theo trong phần “Tựa” này của Kinh Lăng Nghiêm, buổi ăn trưa hôm đó, đức Phật và chư vị Bồ-tát lớn đã được vua Ba Tư Nặc cúng dường ngay tại hoàng cung; còn chư tăng thì ai cũng được các vị trưởng giả và cư sĩ khắp trong thành Xá-vệ mời về tư gia cúng dường. Như vậy, các nhà đàn việt như vua, những vị trưởng giả, cư sĩ trong kinh thành đã là các vị trai chủ của đức Phật, chư vị Bồ-tát và tăng chúng trước rồi; bây giờ tôn giả A Nan đi về trễ, không được ai mời cúng dường, nên tôn giả phải tự mình đi khất thực. Tôn giả tuần tự đi ngang từng nhà, hễ gặp ai cúng dường, thì người đó là vị trai chủ của tôn giả, và là vị trai chủ sau cùng, không có chọn lựa người này người kia.
(14) Tâm không bình đẳng. Đây là hai trường hợp điển hình về khất thực nhà giàu và khất thực nhà nghèo. Hai vị tôn giả Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp đều đã chứng quả A-la-hán. Về vấn đề khất thực, tôn giả Tu Bồ Đề quan niệm rằng, người nghèo khổ tự nuôi lấy gia đình họ đã khó khăn, vất vả rồi, làm sao có dư để cúng dường cho chúng tăng! Dù họ có muốn tự ý phát tâm thì họ cũng chỉ có lòng mà sức thì không đủ. Mình đã không có lương thực để giúp đỡ họ thì thôi, đâu nỡ bắt họ phải chịu thêm gánh nặng! Trong khi đó, đối với những người giàu có, một bữa cơm cúng dường đâu có đáng kể gì. Bởi vậy mà tôn giả chỉ đến khất thực ở nhà giàu mà không đến nhà nghèo.
Trái lại, tôn giả Đại Ca Diếp chỉ xin ăn nhà nghèo mà không xin ăn nhà giàu. Tôn giả quan niệm rằng, người xuất gia làm sa môn, giữ đạo và hành trì giáo pháp, đó là ruộng phước cho người đời, thọ nhận sự cúng dường của thí chủ là tạo cơ hội cho họ tăng trưởng phước huệ. Tôn giả chỉ đến khất thực ở những nhà nghèo là vì muốn cho họ gieo trồng phước đức, nhờ đó mà họ sẽ thoát được cảnh nghèo khổ trong kiếp vị lai; còn người giàu vốn dĩ họ đã có nhiều phước báo, vậy hà tất phải thêm hoa cho gấm!
Quan niệm và hành vi khất thực giữa hai vị tôn giả ấy đã trở thành hai lập trường đối chọi nhau. Đức Phật biết được sự việc này và không đồng ý với cả hai vị. Phật quở trách cả hai vị là đã khất thực với tâm phân biệt, chọn lựa, không bình đẳng. Khất thực đúng phép phải là thứ đệ hành khất, không được lựa chọn giàu nghèo, không phân biệt dơ sạch, và oai nghi lúc nào cũng phải nghiêm túc.
(15) Ma Đăng Già: là tiếng người Ấn-độ dùng gọi chung cho dân hạ tiện phái nam; dân hạ tiện phái nữ thì gọi là Ma Đăng Kì. Loại tiện dân này sống bằng nghề quét đường. Từ “Ma Đăng Già nữ” được dùng ở đây, có nghĩa là con gái của nhà Ma Đăng Già, hay nói vắn tắt là “nàng Ma Đăng Già”. Theo pháp sư Viên Anh trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, “Ma Đăng Già” dịch ra Hán ngữ là “hạ tiện chủng” (dòng hạ tiện), là tên của người mẹ. Con gái của bà tên là Bát Kiết Đề, dịch là “bản tánh”, nghĩa là tuy mang thân làm dâm nữ, nhưng bản tính không mất. Nàng được gọi theo tên mẹ, nên gọi là nàng Ma Đăng Già.
(16) Ta Tì Ca La: là tên một ông tiên thời cổ Ấn-độ, được coi là vị tổ của phái Số Luận. Ông chuyên tu khổ hạnh, thờ phụng Phạm Thiên mà được thần chú gọi là “Tiên Phạm Thiên”. Đó là một loại tà thuật làm cho người khác bị mê muội, không còn tỉnh táo, tự chủ được. Đây là một trong các chú thuật ác độc mà đức Thế Tôn từng cấm chư đệ tử thọ trì; vì ai thọ trì các loại chú này, đều sẽ phải đọa vào ba đường dữ. Theo pháp sư Viên Anh trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, Ta Tì Ca La dịch ra Hán ngữ là “hoàng phát”, hay “kim đầu” (tóc vàng), thuộc phái ngoại đạo tu khổ hạnh. Ông đã truyền thần chú Tiên Phạm Thiên cho bà Ma Đăng Già. Khi con gái của bà (Bát Kiết Đề, hay cô Ma Đăng Già) vừa trông thấy tôn giả A Nan, tướng hảo trang nghiêm, liền sinh tâm ái nhiễm. Vì năm trăm năm trước trong thời quá khứ, cô đã cùng với ngài A Nan từng là vợ chồng, cho nên bây giờ, tập khí ái dục chưa mất, nên vừa thấy ngài, tâm liền mừng vui, muốn được ngài làm chồng; bèn nhờ mẹ giúp. Ban đầu, bà thấy tôn giả là người xuất gia, đã cắt đứt ái dục, nên bà không chấp thuận; nhưng cô nài nỉ quá, bà thương con, bất đắc dĩ phải chiều ý cô. Bà bèn dùng thần chú Tiên Phạm Thiên (do Ta Tì Ca La truyền cho), làm cho tôn giả bị mê hoặc, cứ như ngây dại, không còn tỉnh táo nữa. Đức Phật đã kịp thời bảo Bồ Tát Văn Thù đem thần chú Lăng Nghiêm đến hóa giải chú thuật, cứu tôn giả A Nan thoát khỏi dâm nạn; và nhờ có túc duyên, cô Ma Đăng Già cũng được theo về gặp Phật, được Phật khai thị, liền chứng quả Bất-hoàn, rồi phát tâm xuất gia, không bao lâu sau thì chứng quả A-la-hán.
(17) Ánh sáng vô úy: hào quang của đức Phật có đầy đủ uy lực, không có kẻ ác nào mà không điều phục được, không có hành động tà ngụy nào mà không bị dẹp tan.
(18) Xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na. “Xa-ma-tha”, dịch ra Hán ngữ là “chỉ”, nghĩa là dừng lại, là bước đầu của phép tu định. Đó là trạng thái của tâm khi đã ngưng hết mọi ý tưởng, mọi suy nghĩ, mọi giao động, chỉ chuyên chú vào một đối tượng. Nên chú ý là, trong lúc “chuyên chú vào một đối tượng” này, tâm không khởi lên bất cứ một ý niệm, một suy nghĩ nào. “Tam-ma”, hay “tam-ma-địa”, hoặc “tam-ma-đề”, cũng tức là “tam-muội”, dịch ra Hán ngữ là “định”, tức là trạng thái tinh thần khi tâm chuyên chú vào một đối tượng, không còn tán loạn, không xao động lăng xăng, cũng không buồn ngủ dật dờ. Như vậy, “tam-ma” cũng tức là “xa-ma-tha”. “Thiền-na”, nói tắt là “thiền”, dịch ra Hán ngữ là “tĩnh lự”, nghĩa là lắng đọng tâm tư, là trạng thái tinh thần khi tâm hoàn toàn tĩnh lặng, không khởi ý niệm, không suy nghĩ, chỉ chuyên chú vào một đối tượng. Như vậy, cả ba từ“xa-ma-tha”, “tam-ma” và “thiền-na”, chỉ là ba tên gọi khác nhau của “ĐỊNH”.
Nhưng vì sao lại có ba tên gọi khác nhau? Xét nội dung Kinh Lăng Nghiêm, thì mục đích tối hậu của người tu hành là chứng đạt đại định Thủ Lăng Nghiêm, tức thể nhập chân tâm bản lai thanh tịnh thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô-thượng. Để đạt được mục đích cứu cánh đó, đức Phật đã chỉ dạy cho tôn giả A Nan và toàn thể thính chúng pháp môn tu định, tuần tự theo 3 bước phương tiện: 1) Đầu tiên là pháp định “xa-ma-tha”, có công năng diệt trừ vọng tâm mà ngộ được cái chân tâm bản lai thanh tịnh thường trú, bất sinh bất diệt; 2) Thứ đến “tam-ma-đề”, sau khi đã biết rõ mình vốn có sẵn chân tâm thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, thì phát tâm bồ đề, hạ thủ công phu, tinh tấn tu tập; 3) Cuối cùng là “thiền-na”, chứng đạt tuệ giác viên mãn, thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh Giác. – Xét cho cùng, ba tên định khác nhau như trên, chỉ là sự phân tích từ tổng thể đại định Thủ Lăng Nghiêm mà thôi; hay nói khác đi, nếu tổng hợp ba tên định khác nhau ở trên lại, thì đó chính là đại định Thủ Lăng Nghiêm. Đó là nói về LÍ, còn nói về SỰ, thì 3 tên định khác nhau trên chính là 3 giai đoạn trong tiến trình tu chứng đại định Thủ Lăng Nghiêm.
(19) Vua Tịnh Phạn là anh ruột của thân vương Bạch Phạn. Đức Thích Ca là con vua Tịnh Phạn, còn tôn giả A Nan là con thân vương Bạch Phạn, cho nên đức Phật đã nói với tôn giả A Nan rằng: “Như Lai cùng với thầy đồng một tổ tông, tình như ruột thịt.”
(20) Trần lao. Chữ “trần” có nghĩa là ô nhiễm; chữ “lao” có nghĩa là nhiễu loạn, khổ sở; “trần lao” chỉ cho phiền não, hay nói chính xác hơn, trần lao tức là phiền não.
(21) Mười loài chúng sinh. Tất cả các loài hữu tình do vọng tưởng điên đảo mà tạo nghiệp, rồi tùy theo nghiệp mà chiêu cảm nhiều quả báo khác nhau, trong nhiều hình loại khác nhau. Có tất cả 10 loài: 1) loài sinh ra từ trứng (noãn sinh); 2) loài sinh ra từ bào thai (thai sinh); 3) loài sinh ra từ nơi ẩm thấp (thấp sinh); 4) loài sinh ra do sự biến hóa (hóa sinh); 5) loài có hình sắc (hữu sắc); 6) loài có tư tưởng (hữu tưởng); 7) loài chẳng phải có hình sắc (phi hữu sắc); 8) loài chẳng phải không có hình sắc (phi phi hữu sắc); 9) loài chẳng phải có tư tưởng (phi hữu tưởng); 10) loài chẳng phải không có tư tưởng (phi phi hữu tưởng). – Nếu kể luôn cả loài không có hình sắc (vô sắc) và loài không có tư tưởng (vô tưởng), thì có cả thảy là 12 loài chúng sinh. Nhưng vì hai loài này không có tâm hiểu biết bình thường như 10 loài chúng sinh trên, nên tôn giả A Nan đã không kể tới.
(22) Rừng Kì-đà: cũng gọi là “Thệ-đa”, là khu hoa viên của thái tử Kì Đà, nước Kiều-tát-la, ở Bắc Thiên-trúc thời Phật tại thế. (Xem lại hai chú thích số 3 và số 11 ở trước.)
(23) Vườn Cấp-cô-độc: là khu hoa viên ở thành Xá-vệ mà trưởng giả Cấp Cô Độc đã mua lại của thái tử Kì Đà, để xây cất tinh xá Kì-hoàn cúng dường lên đức Phật và giáo đoàn, làm nơi tu học và hành đạo. (Xem lại hai chú thích số 3 và số 11 ở trước.)
(24) Tam-ma-đề: hay “tam-ma-địa”, hoặc “tam-ma”, cũng tức là “tam-muội”, dịch ra Hán ngữ là “định”. (Xem lại chú thích số 18 ở trước.)
(25) Phủ tạng. Đông y gọi các bộ phận bên trong cơ thể con người là “phủ” và “tạng”. Có 6 phủ là: bao tử, bàng quang, tam tiêu, mật, ruột già, ruột non; và 5 tạng là: tim, gan, lá lách, phổi, thận.
(26) Khiếu huyệt: là các lỗ ở mặt ngoài cơ thể, thông vào bên trong cơ thể; ở đây là chỉ cho 7 lỗ ở trên khuôn mặt: 2 con mắt, 2 lỗ mũi, 2 lỗ tai, và cái miệng.
(27) Giới thứ 19 và trần thứ 7. Vạn pháp trong vũ trụ được bao gồm trong 18 khu vực (giới): nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức; không có“khu vực (giới) thứ 19”. Cũng vậy, trần cảnh chỉ có 6 thứ (6 trần): sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có thứ gì gọi là “trần thứ 7”. Cho nên, nói “giới thứ 19 và trần thứ 7” tức là nói những chuyện hoang đường, không có thật.
(28) Pháp vương tử: con của đấng Pháp Vương; đó là một tên gọi khác của chư vị đại Bồ-tát. Đức Phật là đấng Pháp Vương; chư vị đại Bồ-tát có đầy đủ trí tuệ, phước đức và khả năng hoằng dương Phật pháp, nối tiếp địa vị của Phật, là những người con chân chánh của Phật, cho nên gọi là “Pháp vương tử”.
(29) Thân có ở giữa và các bên, như: bên trái, bên phải, bên trước, bên sau, bên trên, bên dưới.
(30) Đại đệ tử: là quí vị đệ tử lớn của Phật, có sở trường đặc biệt, được liệt vào hàng trưởng lão thượng thủ trong tăng đoàn của Phật. Có 10 vị đại A-la-hán được mọi người tôn xưng là đệ tử lớn của Phật, đó là 10 vị tôn giả: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ưu Ba Li, A Nan, A Na Luật, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na, La Hầu La.
(31) Đại Mục Kiền Liên: là một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, có sở trường đặc biệt về thần thông, được mọi người tôn xưng là vị thánh tăng có thần thông bậc nhất (thần thông đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật.
(32) Tu Bồ Đề: là một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, có sở trường đặc biệt về thông hiểu tánh không trong giáo lí Bát Nhã, được tôn xưng là vị thánh tăng hiểu rõ tánh không bậc nhất (giải không đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật.
(33) Phú Lâu Na: là một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, có sở trường đặc biệt về thuyết pháp, được tôn xưng là vị thánh tăng có biện tài thuyết pháp bậc nhất (thuyết pháp đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật.
(34) Xá Lợi Phất: là một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, có trí tuệ hơn hết mọi người, được tôn xưng là vị thánh tăng có trí tuệ bậc nhất (trí tuệ đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật.
(35) Lông rùa sừng thỏ. Loài rùa không bao giờ có lông, loài thỏ không bao giờ có sừng; cho nên, nói chuyện “lông rùa sừng thỏ” là chỉ nói theo óc tưởng tượng, không có thật.
(36) Năm vóc gieo xuống đất. Đây là cách lạy của Phật giáo. Năm vóc (ngũ thể, hay ngũ luân) là đầu, hai tay và hai đầu gối, đều chạm đất. Cách lạy “ngũ thể đầu địa” (cũng gọi là ngũ luân đầu địa, đầu địa lễ, tiếp túc lễ, đầu diện lễ, đảnh lễ) này nguyên được coi là cách lạy tôn kính, thành khẩn nhất trong các cách lạy của người Ấn-độ. Sau đó, Phật giáo cũng dùng cách lạy này để biểu lộ niềm tôn kính sâu xa nhất của mình đối với Tam Bảo. Cách lạy này có thể khiến cho người ta dứt bỏ tâm kiêu mạn mà tỏ lộ lòng thành kính đối với đối tượng mình đang lạy. Khi lạy, người Phật tử cần quán niệm năm ý nghĩa như sau:
1. Khi đầu gối phải chạm đất, quán niệm rằng, tất cả chúng sinh sẽ đạt đạo quả giác ngộ.
2. Khi đầu gối trái chạm đất, quán niệm rằng, tất cả ngoại đạo sẽ không còn khởi tà kiến, mà chắc chắn sẽ được đưa về con đường chánh.
3. Khi tay phải chạm đất, quán niệm rằng, nguyện được như đức Thế Tôn, ngồi trên tòa kim cương, hiện ra tướng lành, đại địa chấn động, chứng nhập quả vị đại giác.
4. Khi tay trái chạm đất, quán niệm rằng, mong cho mọi người rời xa ngoại đạo, nguyện dùng bốn cách điều phục (tứ nhiếp pháp) để khuyến hóa những kẻ ương ngạnh nhất, khiến cho tất cả đều trở về chánh đạo.
5. Khi đầu mặt chạm đất, quán niệm rằng, mong cho tất cả mọi người đều dứt trừ tâm kiêu mạn, và sẽ có được tướng quí ở đỉnh đầu mà mắt thường khó thấy (vô kiến đỉnh tướng).
(37) Chấn động sáu cách: Khi có các sự việc vĩ đại xảy ra, như đức Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất giáng trần gá vào thai mẹ, đức Bồ Tát ra khỏi thai mẹ xuất hiện ở thế gian, đức Bồ Tát vừa thành bậc Tối Chánh Giác v.v..., thì đại địa chấn động.
Đại địa chấn động có 6 tướng trạng. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã đã y theo phương hướng chấn động mà nêu ra 6 tướng như sau: hướng Đông nổi lên, hướng Tây chìm xuống; hướng Tây nổi lên, hướng Đông chìm xuống; hướng Nam nổi lên, hướng Bắc chìm xuống; hướng Bắc nổi lên, hướng Nam chìm xuống; ngoài biên nổi lên, ở giữa chìm xuống; ở giữa nổi lên, ngoài biên chìm xuống.
Trong khi đó, kinh Tân Hoa Nghiêm y theo cách thức chấn động mà nêu 6 tướng như sau: chuyển động; nổi cao dần; vọt cao lên; phát ra tiếng động nhẹ; gào thét dữ dội; ầm ầm vang xa. Ba tướng đầu là hình thái của chấn động; ba tướng sau là âm thanh của chấn động.
(38) Điên đảo. Trong Phật học, từ “điên đảo” được dùng để chỉ cho những tà kiến của kẻ phàm phu chưa giác ngộ, tức là do vô minh mà sinh ra những thấy biết sai lầm, trái ngược với thật tướng của vạn hữu; như vạn hữu là vô thường mà cho là thường, là vô ngã mà cho là ngã, là khổ mà cho là vui, là giả có mà cho là thật có, là dơ nhớp mà cho là trong sạch, là duyên sinh mà cho là do thượng đế sáng tạo, v.v...
(39) Chùm trái ác-xoa. Ác-xoa là một loại trái cây đặc sản của vùng Thiên-trúc, Tây-vức ngày xưa. Trái luôn luôn sinh ra thành chùm: một cuống có ba trái. Chúng sinh do mê lầm (hoặc) mà tạo nghiệp (nghiệp), do nghiệp mà nhận chịu quả báo đau khổ (khổ). Ba thứ hoặc, nghiệp, khổ này dính liền triền miên không rời nhau, giống như trái ác-xoa luôn luôn sinh ra thành chùm ba trái.
(40) Tâm phan duyên. Chữ “tâm” ở đây là chỉ cho thức thứ sáu (ý thức); chữ “phan” nghĩa là vin, níu, bám, chạy theo; chữ “duyên” ở đây là chỉ cho các trần cảnh. Ý thức chạy theo trần cảnh, khởi niệm phân biệt, tính toán so lường, rồi sinh ra yêu, ghét, lấy, bỏ, v.v...; có trần cảnh thì khởi lên, không có trần cảnh thì tiêu mất; lúc sinh, lúc diệt, hư vọng không có thật thể. Như thế, ý thức không phải là chân tâm, cũng không phải thật tánh.
(41) Vô sinh pháp nhẫn. Thật tướng chân như xa lìa hẳn các tướng sinh diệt, gọi là “vô sinh pháp”; chân trí tuệ an trú nơi lí lẽ này, không xao động, gọi là “vô sinh pháp nhẫn” – gọi tắt là “vô sinh nhẫn”. Bồ-tát dùng trí tuệ siêu việt quán chiếu thấy rõ tự tánh của các pháp vốn là không, cho nên các pháp không hề có sinh khởi, bởi vậy, Bồ-tát không hề xao động, gọi là “vô sinh pháp nhẫn”.
(42) Tòa sư tử. Sư tử là vua của các loài thú. Phật là bậc chí tôn trong ba cõi. Trong kinh điển thường ví đức Phật như “sư tử chúa” (sư tử vương); cho nên, pháp âm của Ngài thường được ví như “tiếng gầm sư tử” (sư tử hống), và chỗ ngồi của Ngài được gọi là “tòa sư tử” (sư tử tòa).
(43) Năm trần cảnh: tức là 5 cảnh ở ngoài thân: sắc, thanh, hương, vị và xúc, là đối tượng của 5 căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân.
(44) Pháp trần: là những cảnh ở trong tâm ý, chứ không phải ở ngoài thân. Chúng là đối tượng của ý căn (hay cảnh giới tri giác của ý thức), gồm một phạm vi vô cùng rộng rãi, phức tạp và trừu tượng, là tất cả những đối tượng cảm giác của năm thức trước, những ý tượng, ảnh tượng, và tư tưởng không ảnh tượng; ngoài ra, cũng còn phải kể tới các loại vô biểu sắc, các loại tâm sở, các pháp “bất tương ưng hành”, và các pháp “vô vi”.
(45) Chín bậc định theo thứ lớp. Do theo thứ lớp từ thấp lên cao, tiến lên từng định một, trải qua 9 bậc, gọi là“9 bậc định theo thứ lớp” (cửu thứ đệ định). Đó là các bậc định: Sơ-thiền, Nhị-thiền, Tam-thiền, Tứ-thiền, Không-xứ, Thức-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ, và Diệt-tận (cũng gọi Diệt-thọ-tưởng).
(46) Hai thứ chướng ngại (nhị chướng). Đây là hai thứ luôn luôn làm trở ngại, khiến cho người tu học không thể tiến đến chứng ngộ trí tuệ Phật.
1. Chướng ngại của phiền não (phiền não chướng). “Phiền não” là những hiện tượng tâm lí xấu, làm động cơ thúc đẩy con người gây ra vô vàn lầm lỗi về cả thân, miệng và ý. Phiền não có nhiều loại, có những loại thuộc về tình cảm, có những loại thuộc về trí thức. Lòng tham dục, sự giận hờn, những tâm trạng như buồn phiền, lo lắng, ghen tức, kiêu mạn, khinh khi v.v..., là những loại phiền não thuộc về tình cảm; sự si mê, ngu muội, trì trệ, những cái thấy biết sai lầm, những tâm niệm cố chấp, bảo thủ, thành kiến, những tư tưởng ngông cuồng, tà vọng v.v..., là những loại phiền não thuộc về trí thức; tất cả mọi thứ, chúng làm cho con người đau khổ triền miên, không có phút giây nào tỉnh thức để tu tập đạo giác ngộ, không thể nào tiến lên được địa vị giải thoát, cho nên chúng được gọi là “phiền não chướng”.
2. Chướng ngại của kiến thức (sở tri chướng). “Sở tri” là những quan điểm, những cái thấy, những hiểu biết, những khái niệm thu thập được từ sự học hỏi, đọc sách v.v..., nói chung là những kiến thức mình có được. Những kiến thức này rất cần thiết cho người tu học để đạt đến trí tuệ, chứ chính chúng không phải là trí tuệ. Cho nên, nếu chúng ta cứ khư khư ôm giữ lấy những kiến thức ấy và cho rằng chúng là hay nhất, chúng là chân lí; chúng ta thỏa mãn với chúng, tự thấy không cần phải học hỏi gì thêm nữa, thì tức là ta đã bị mắc kẹt vào chúng, không thể nào tiến bộ được nữa; đạo Phật gọi những kiến thức đó là “sở tri chướng” – tức là những kiến thức làm trở ngại cho tiến trình giác ngộ. Cái gì mà mình vừa biết được và liền cho đó là số một, thì lập tức con đường tiến thủ của mình bị chận lại, vì vậy, hành giả phải biết phá vỡ, vượt thoát những kiến thức đã có để có thể đi xa hơn nữa. Có như thế thì tuệ giác giác ngộ – mục tiêu sau cùng của hành giả – đến một lúc nào đó mới hiển lộ ra được.
Hai thứ chướng ngại này, có khi trạng thể rất vi tế, khó nhận thấy; chúng lại luôn luôn liên kết với nhau, giúp đỡ cho nhau để bám sát theo chúng sinh, hoặc ở trạng thái phát hiện (nổi trên mặt ý thức), hoặc ở trạng thái tiềm ẩn (chủng tử nằm sâu trong tàng thức); trong khi đó thì chúng sinh cũng mù quáng đeo đuổi theo chúng như người ngủ say để tạo ra các nghiệp xấu, ngày càng chất chồng. Vì vậy, Duy Thức Học gọi chúng (phiền não chướng và sở tri chướng) là “tùy miên”.
(47) Vàng diêm-phù-đàn: là loại vàng quí nhất trong các loại vàng. Cây diêm-phù vốn là đặc sản của Ấn-độ, nơi đây có nhiều khu rừng diêm-phù rất sầm uất, nhất là ở vùng rừng núi Hi-mã-lạp. Vào khoảng tháng Tư, tháng Năm thì cây trổ hoa, rồi kết trái. Có những con sông chảy qua các khu rừng này, nước từ trái diêm-phù nhỏ rớt xuống sông, thấm vào cát, lâu ngày cát biến thành vàng, gọi là “vàng diêm-phù-đàn”. Loại vàng này màu đỏ thẫm có pha màu tím, phát ra ánh sáng rực rỡ. Theo truyền thuyết, để một cục vàng này giữa một đống vàng khác, cả đống vàng ấy liền bị mất hết màu sắc; ban đêm đem để nó trong phòng tối, nó tỏa ra ánh sáng rực rỡ như ánh sáng mặt trời giữa ban ngày. Thân Phật cũng sáng rỡ như vậy, nên kinh điển thường đem vàng diêm-phù-đàn ví dụ cho thân Phật.
(48) Vườn Nai (Lộc-uyển): nằm cách khoảng 6 cây số về hướng Tây-Bắc của kinh thành Ba-la-nại (nay là Varanasi, Ấn-độ) của vương quốc Ca-thi. Theo truyền thuyết, vào thời quá khứ xa xăm, có vị quốc vương từ kinh thành Ba-la-nại đến nơi này săn bắn, đã giăng lưới bắt được cả ngàn con nai. Con nai chúa vì quá thương đàn nai, đã xin nhà vua thả hết đàn nai, rồi mỗi ngày nó sẽ đích thân đem đến dâng cho vua một con nai để làm thức ăn. Nhà vua xúc động, liền cho thả hết bầy nai vừa bắt được. Do đó, khu vườn này có tên là “Lộc-dã-uyển”(hay Lộc-dã-viên, Lộc-uyển, Lộc-viên – “lộc” nghĩa là con nai). Hoặc có chỗ nói, trong bầy nai nhà vua bắt được, có một con nai mẹ đang mang thai. Vì quá thương tâm, nai chúa bèn xin nhà vua tha cho con nai đang có thai, rồi tự hủy mình trước nhà vua để chết thế. Quá xúc động trước sự việc xảy ra bất ngờ, nhà vua liền ra lệnh thả hết bầy nai, và ban lệnh dành khu rừng ấy cho nai ở, cấm tất cả mọi người không được tới đó săn bắn. Do đó mà bầy nai được sống thật an bình, và địa phương đó được gọi là vườn Nai. Mặt khác, vào thời quá khứ, đức Phật đã từng là một vị tiên, tên Tối Thắng, thường nói pháp ở khu rừng này, nên nó cũng có tên là “Tiên-nhân-luận-xứ”. Lại nữa, dù có Phật ra đời hay không, khu vực này luôn luôn là nơi cư trú dành cho các bậc thần tiên, cho nên nó cũng có tên là “Tiên-nhân-trú-xứ” (hay Tiên-viên, Tiên-uyển). Cũng có thuyết nói rằng, ngày xưa từng có năm trăm vị tiên bay trên không trung, khi bay ngang qua khu rừng này thì thấy có rất nhiều phi tần của vua, lòng dục phát khởi, liền mất hết thần thông và rơi xuống đất, cho nên nó cũng có tên là “Tiên-nhân-đọa-xứ”.
Vườn Nai là một trong các thánh tích quan trọng của Phật giáo. Đó là nơi Phật chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên; cũng là nơi Ba Ngôi Báu xuất hiện trước tiên ở thế gian; và cũng là nơi Giáo đoàn Phật giáo được thành lập. Nhưng, từ thời Phật tại thế, nơi đó đã không có một tu viện qui mô với kiến trúc đồ sộ như các tu viện Trúc-lâm hay Kì-viên. Mãi đến thời đại vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL), thánh tích này mới trở thành quan trọng, được mọi người chú ý, do công đức xây dựng của chính vua A Dục. Đầu thế kỉ thứ 8, khi pháp sư Huyền Trang (Trung-quốc) đến Ấn-độ, thì dấu tích công trình của vua A Dục tại Lộc-uyển vẫn còn, có ngôi tinh xá cao tầng đồ sộ với tường thành vây bọc chung quanh, tăng chúng tu học đông đến ngàn vị. Gần đó là một trụ đá cao đến gần 25 thước, cũng do chính vua A Dục xây để ghi dấu vết nơi đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Đến thế kỉ 13, các thánh tích nơi đây đều bị Hồi giáo và Ấn giáo lần lượt dày xéo, phá nát, tăng sĩ bị giết sạch. Từ đó thánh địa đã trở thành hoang phế. Ngày nay, nhờ công trình khai quật của các nhà khảo cổ học, người ta đã phát hiện nền cũ của ngôi tinh xá xưa; một tòa tháp hai tầng, hình vuông, trên tường có chạm khắc hình chữ “vạn” (卍); cột trụ đá của vua A Dục với rào sắt vây bọc chung quanh; v.v... Hiện nay ở Lộc-uyển, chùa viện của các đoàn thể Phật giáo thuộc các nước trên thế giới được dựng lên rất nhiều, có viện bảo tồn các cổ vật đặc thù và trân quí của Phật giáo, viện bảo tồn cổ vật chung của Ấn-độ, và có cả giáo đường của Kì-na giáo.
(49) A Nhã Đa: tức Kiều Trần Như. (Xem chú thích số 51 ở sau.) Tiếng Phạn “a-nhã-đa” có nghĩa là hiểu trước nhất.
(50) Phiền não khách trần. Phiền não được dụ như khách và trần. “Khách” có nghĩa là khách trọ (trái lại với chủ), chỉ cho hành tướng thô thiển, di động không ngừng; “trần” là bụi bặm, chỉ cho hành tướng vi tế, cũng di động không ngừng. Phiền não của chúng sinh trong ba cõi gồm có kiến hoặc và tư hoặc. Kiến hoặc là những sai lầm về thấy biết, tính chất thô thiển, dễ nhận thấy, được ví dụ như “khách”; tư hoặc là những sai lầm về tình cảm, tính chất vi tế, khó thấy hơn, được ví dụ như “trần”. Kiến, tư hoặc (phiền não) là do ngã chấp mà sinh ra. Ngã chấp phân biệt ta người, tốt xấu, v.v... hành tướng lăng xăng, giao động không dừng, được ví như “khách”; ngã chấp sinh cùng lần với thân mạng, hành tướng vi tế khó biết, được ví dụ như “trần”. Phiền não khách trần là mê lầm chung của cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát), nếu không đoạn trừ được thì quả vị A-la-hán cũng không chứng được, huống gì là quả vị Vô-thượng Bồ-đề!
(51) Kiều Trần Na: tức Kiều Trần Như, là vị huynh trưởng của nhóm “năm vị tì kheo đệ tử đầu tiên” và là vị đệ tử lớn có pháp lạp cao nhất của đức Phật. Tên của tôn giả, gọi cho đầy đủ là A Nhã Kiều Trần Như; bốn vị khác trong nhóm tên là Bạt Đề, Bà Sư Ba, Ma Ha Nam và A Thị Thuyết, vốn đều là đạo sĩ Bà la môn, lúc trước cùng tu khổ hạnh với đức Cồ Đàm (tức đức Thích Ca) tại rừng Già-da, thuộc thôn Ưu-lâu-tần-loa, nước Ma-kiệt-đà. Sau một thời gian dài tu khổ hạnh một cách triệt để, cả 6 người đều kiệt sức, mà trí tuệ vẫn không phát triển thêm, trái lại còn mòn mỏi đi. Một hôm, đức Cồ Đàm tuần tự kiểm điểm lại sự tu tập trong thời gian qua, và bỗng nhiên bừng tỉnh. Ngài thấy rõ, con đường khổ hạnh đã là con đường sai lầm, không giúp ích được gì cho sự phát triển trí tuệ. Ngài bèn quyết định từ bỏ phép tu khổ hạnh, trở lại ăn uống bình thường để phục hồi sức khỏe, và bắt đầu theo đuổi con đường thiền quán – mà Ngài xét thấy, đó mới là con đường chính đáng nhất có thể đưa đến đạo quả giác ngộ.
Sa môn Kiều Trần Như thấy đức Cồ Đàm ăn uống bình thường trở lại, bỏ việc tu khổ hạnh, thì cho rằng Ngài đã thối chí, bèn rủ bốn người bạn kia bỏ đi, tìm đến nơi khác tu hành theo con đường riêng của họ. Họ đi sang vườn Nai (Lộc-uyển), gần thành Ba-la-nại, nước Ca-thi, để cùng tu học với nhau.
Sau khi thành đạo, đức Phật đã đến vườn Nai thuyết bài pháp đầu tiên, pháp Tứ Đế, hóa độ cho họ. Chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, nhờ quyết tâm và tinh chuyên tu học theo sự dạy dỗ của Phật, cả năm vị, đầu tiên là Kiều Trần Như, rồi tiếp đến là bốn vị kia, lần lượt đều chứng thánh quả A-la-hán. Vậy là, nơi vườn Lộc-uyển lúc bấy giờ, sa môn Kiều Trần Như cùng với bốn bạn hữu đã trở thành năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên của đức Phật. Họ cũng là năm thành viên đầu tiên của giáo đoàn đức Phật. Riêng tôn giả Kiều Trần Như lại còn là vị đệ tử đã chứng thánh quả A-la-hán đầu tiên của Phật, và trở thành vị đệ tử lớn nhất của Ngài lúc đó. Từ đây, ngôi Tam Bảo đã được xuất hiện ở thế gian, với đức Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo, giáo pháp Tứ Đế do Ngài vừa giảng dạy là Pháp Bảo, và năm vị tì kheo nhóm Kiều Trần Như là Tăng Bảo.
(52) Ca Chiên Diên: Ở đây là Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, lãnh tụ của một trong sáu phái ngoại đạo nổi tiếng (lục sư ngoại đạo) thời Phật tại thế. Phái này chủ trương rằng, tội phước của tất cả chúng sinh đều do trời Tự Tại mà có; vị trời này vui vẻ thì chúng sinh an lạc, vị trời này nóng giận thì chúng sinh khổ sở. Có người, dù giết tất cả chúng sinh, nhưng tâm không hổ thẹn thì không đọa vào ác đạo; nếu hổ thẹn thì liền đọa địa ngục. Phật giáo gọi đây là tà kiến của hạng “vô tàm ngoại đạo”; và xếp thuộc loại ngoại đạo chủ trương “đoạn kiến”.
(53) Tì La Chi Tử: tức San Xà Dạ Tì La Chi Tử, là vị lãnh tụ của một trong sáu phái ngoại đạo nổi tiếng (lục sư ngoại đạo) thời Phật tại thế. Phái này tương đối rất có thế lực, hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, trước khi qui y theo Phật, vốn là hai vị đệ tử lớn của của ông San Xà Dạ. Phái này chủ trương rằng, tất cả khổ vui mà con người đang nhận chịu, chẳng phải do nguyên nhân ở kiếp trước, mà cũng chẳng có quả báo ở đời sau. Phật giáo coi loại tà kiến này thuộc về “đoạn kiến”.
(54) Trời Kì Bà: là vị trời chủ về thọ mạng con người, thường hầu cận trời Đế Thích. Theo phong tục của các nước trong vùng Thiên-trúc và Tây-vực xưa, mọi người đều kính ngưỡng tôn thờ vị thiên thần này. Con sinh ra, khi lên 3 tuổi, cha mẹ đều dẫn đến đền thờ yết kiến vị trời này để cầu được sống lâu trăm tuổi.
(55) Mẫu-đà-la: là ấn khế; bàn tay mẫu-đà-la tức là bàn tay bắt ấn.
(56) Thân của chánh biến tri: tức pháp thân thanh tịnh của các đức Như Lai, biết rõ tâm bao trùm cả vạn pháp, vạn pháp chỉ do tâm khởi.
(57) Thân của tánh điên đảo: tức thân tứ đại của chúng sinh phàm phu, do bị năm ấm làm chướng ngại mà thấy biết sai lầm, chấp tâm ở trong thân, chấp pháp ở ngoài thân, thuận cho là nghịch, nghịch cho là thuận.
(58) Tiếng hải triều (hải triều âm): là một thuật ngữ Phật học, dùng để ví dụ cho tiếng thuyết pháp của Phật.Tiếng hải triều là tiếng sóng biển đập vào vách đá, nghe ầm ầm vang dội, thật uy mãnh. Pháp âm của Phật cũng vậy, thật hùng hồn, đầy uy lực, vang dội khắp nơi, thấm nhuần khắp ba cõi. Tiếng hải triều cũng chỉ cho thanh danh của Phật và chư đại Bồ-tát vang tỏa khắp nơi, ma vương nghe đến là kinh khiếp như sợ sự hùng vĩ của sóng biển. Lại nữa, hải triều không trái thời, cũng như lời thuyết pháp của Phật, vì do tâm từ bi cứu độ chúng sinh, nên luôn luôn thích ứng với thời cơ mà thuyết pháp.
(59) Sắc pháp, tâm pháp, các tâm sở, các sở duyên, và các duyên: chỉ cho mọi hiện tượng (vạn pháp) trong vũ trụ đều do chân tâm khởi hiện.
1. SẮC PHÁP: là các hiện tượng vật chất, gồm có 11 pháp: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), thân(thân thể), sắc (hình tướng và màu sắc như dài, ngắn, vuông, tròn, sáng, tối, xanh, vàng, v.v...), thanh (âm thanh như tiếng nói, tiếng động, tiếng vang, v.v...), hương (các thứ mùi thơm, hôi, v.v...), vị (các thứ vị nếm như cay, đắng, chua, mặn, v.v...), xúc (sự chạm xúc như nhẹ, nặng, trơn, nhám, lạnh, nóng, ấm, cứng, mềm, v.v...),pháp (các ý tượng, tức bóng dáng của năm trần –sắc, thanh, hương, vị, xúc– ở trên còn lưu lại trong ý thức).
2. TÂM PHÁP: là các hiện tượng tâm lí ở phương diện nhận thức (danh từ Duy Thức Học còn gọi là TÂM VƯƠNG), gồm có 8 pháp – tức là 8 THỨC: nhãn thức (mắt thấy biết cảnh vật), nhĩ thức (tai nghe biết âm thanh), tị thức (mũi ngửi biết mùi hương), thiệt thức (lưỡi nếm biết vị), thân thức (thân đụng chạm biết cảm xúc), ý thức (ý biết các ý tượng và ảnh tượng), mạt-na thức (khả năng suy lường, chấp ngã), a-lại-da thức(khả năng chứa đựng, giữ gìn chủng tử và phát hiện ra vạn pháp).
3. CÁC TÂM SỞ: là các hiện tượng tâm lí ở phương diện thuộc tính của tâm vương, có 51 pháp, tức là 51 TÂM SỞ, gồm trong 6 nhóm:
a) Biến Hành. “Biến hành” là hoạt động cùng khắp, là những hiện tượng tâm lí tương ưng với tất cả 8 thức, bất cứ lúc nào có thức hoạt động thì những tâm sở này cùng xuất hiện; có 5 tâm sở: xúc (sự tiếp xúc giữa các căn và các trần cảnh), tác ý (sự chú ý, sự kích thích để phát sinh nhận thức), thọ (cảm thọ khó chịu, dễ chịu, hay không khó chịu cũng không dễ chịu, – cũng tức là cảm giác), tưởng (tri giác, là sự nhận biết đối tượng như một người, một vật, một sự việc...), tư (sự quyết định, từ đó phát sinh ra các hiện tượng tâm lí khác, cùng các hành động của miệng lưỡi và thân thể, tức là tạo nghiệp).
b) Biệt Cảnh. “Biệt cảnh” là không hoạt động cùng khắp, là những tâm sở chỉ liên hiệp hoạt động với “sáu thức trước” mà thôi; có 5 tâm sở: dục (ham muốn, mong cầu), thắng giải (hiểu biết rõ ràng, không nghi ngờ), niệm(nhớ, kí ức), định (tác dụng làm cho thức và các tâm sở khác tập trung vào một đối tượng, không tán loạn), tuệ(biết sự vật một cách sáng tỏ, nhưng không chắc là biết đúng – khác với “tuệ giác” là trí tuệ giác ngộ. Bởi vậy có thể nói, tâm sở “tuệ” này chính là thuộc tính đặc biệt của thức mạt-na, vì thức này luôn luôn thấy rõ rằng “có TA và những gì THUỘC VỀ TA”; cái thấy đó tuy là sáng tỏ nhưng là cái thấy sai lầm).
c) Thiện. “Thiện” là các đức tính tốt; có 11 tâm sở: tín (tin tưởng), tàm (tự biết xấu hổ với lầm lỗi của mình), quí(biết tự thẹn khi thấy mình không trong sạch, không tốt như người), vô tham (gặp thuận cảnh không sinh lòng tham trước), vô sân (gặp nghịch cảnh không sinh lòng oán giận), vô si (sáng suốt, thấy biết đúng với sự thật),cần (siêng năng tu tập thiện nghiệp), khinh an (thư thái, nhẹ nhàng), bất phóng dật (không buông lung theo dục vọng), hành xả (tâm niệm bình đẳng, không vướng mắc, không chấp trước, không so đo phân biệt), bất hại (không có ý làm thương hại người khác).
d) Phiền Não. Đây là các “phiền não gốc rễ”, khó diệt trừ; có 6 tâm sở: tham (thấy gì vừa ý thì tham, muốn chiếm đoạt), sân (gặp điều không vừa ý thì oán giận), si (vô minh, không sáng suốt), mạn (kiêu mạn, tự cao),nghi (ngờ vực, do dự), ác kiến (thấy biết sai lạc, tà ngụy).
đ) Tùy Phiền Não. Đây là các thứ “phiền não phụ thuộc” của các phiền não gốc rễ ở trên, dễ diệt trừ hơn, gồm có 20 tâm sở: phẫn (nóng giận, bực tức, cộc cằn), hận (oán hờn), phú (che dấu tội lỗi), não (buồn phiền, bứt rứt, ẩn ức không yên), tật (ganh ghét), xan (bỏn sẻn, keo kiệt), cuống (dối gạt), siểm (nịnh hót, gièm siểm), hại(có ý làm thương hại người), kiêu (khoe khoang, tự kiêu, tự phụ), vô tàm (làm lỗi mà không biết tự xấu hổ), vô quí (tài đức không bằng người mà không biết tự thẹn), trạo cử (chao động không yên), hôn trầm (mê muội, dật dờ, trì trệ), bất tín (đa nghi, không tin tưởng), giải đãi (biếng nhác, bê trễ), phóng dật (buông lung, buông trôi),thất niệm (lãng quên, không có chánh niệm), tán loạn (xao xuyến, rối loạn), bất chánh tri (hiểu lầm, biết không chính xác).
e) Bất Định. “Bất định” là những tâm sở không thuộc về thiện cũng không thuộc về bất thiện, hoặc giả, chúng có thể là thiện mà cũng có thể là bất thiện; có 4 tâm sở: hối (hối hận về sự việc đã làm), miên (ngủ), tầm (suy tư, tìm hiểu phần dễ thấy của sự lí), từ (suy tư, nghiên cứu, phân tích để hiểu rõ phần sâu sắc của sự lí).
4. CÁC SỞ DUYÊN. Chữ “sở duyên” ở đây có nghĩa là đối tượng nhận thức của thức và trí.
a) Sở Duyên của Thức: là những hiện tượng không thuộc (nhưng có liên hệ với) tâm, tâm sở, hay sắc pháp ở trên, thuật ngữ Duy Thức Học gọi là “tâm bất tương ưng hành pháp”, gồm có 24 pháp: đắc (cái tính cách từ đó các pháp có được hình sắc và tính chất của mình –ví dụ: nước có thể lỏng, không màu sắc, trong suốt, ướt, lưu nhuận v.v...; đó cũng là cái năng lực làm cho một người có [đạt] được một vật –ví dụ: tôi có [được] quyển sách, Tổ Điều Ngự Giác Hoàng đạt [được] quả vị giác ngộ v.v...), mạng căn (tính cách từ đó sinh mạng được duy trì),chúng đồng phận (tính cách từ đó chúng sinh trong mỗi loài có cùng chung một quả báo giống nhau), dị sinh tánh (cái năng lực làm cho có bản tính phàm phu, đầy tà kiến, khác với thánh nhân), vô tưởng định (sự tu tập vô tâm định để đạt được quả Vô-tưởng), diệt tận định (sự tu tập rốt ráo, vượt cả vô tâm định, không còn cả thọ và tưởng, chứng đắc quả A-la-hán), vô tưởng quả (tính cách làm cho chúng sinh ở cõi trời Vô-tưởng, cả tâm lẫn tâm sở đều tiêu mất), danh thân (các tên gọi để chỉ cho sự vật), cú thân (những lời nói để diễn tả sự vật),văn thân (văn tự dùng để ghi chép những gì thuộc về “danh thân” và “cú thân” ở trên), sinh (tính cách từ đó các pháp được sinh thành), trụ (tính cách từ đó các pháp được tồn tại), lão [dị] (tính cách từ đó các pháp bị biến đổi, suy hoại), vô thường [diệt] (tính cách từ đó các pháp bị tiêu mất), lưu chuyển (tính cách làm cho mọi loài cứ phải quanh quẩn trong vòng luân hồi), thứ đệ (tính cách làm cho mọi sự vật có thứ lớp, có trật tự), định dị (tính cách làm cho mọi sự vật dù khác biệt nhau nhưng luật nhân quả tác động trên mỗi sự vật vẫn phân minh, không lộn xộn, không hồ đồ), phương (phương hướng), thời (thời gian), tương ưng (tính cách làm cho các sự vật ăn khớp, tương ứng nhau, liên hiệp hoạt động với nhau), thế tốc (tính cách làm cho vạn pháp sinh diệt tương tục từng sát na, di chuyển theo vận tốc), số (tính cách làm cho sự vật có thể hay không thể đếm được), hòa hiệp tánh (tính cách làm cho sự vật hòa hợp được với nhau), bất hòa hiệp tánh (tính cách làm cho sự vật không hòa hợp được với nhau).
b) Sở Duyên của Trí: là những hiện tượng không bị lệ thuộc vào nhân duyên, thuật ngữ Duy Thức Học gọi là“vô vi pháp”, gồm có 6 pháp: trạch diệt vô vi (cảnh giới niết bàn đạt được do sự dùng trí tuệ tiêu diệt tận cùng mọi phiền não), phi trạch diệt vô vi (thể tính tịch diệt vốn đã hiển nhiên – không phải do sức trí tuệ tận diệt phiền não mà có), hư không vô vi (tính cách không làm chướng ngại cho bất cứ pháp nào và cũng không bị bất cứ pháp nào làm cho chướng ngại, gần giống như tính chất của hư không – nói là “gần giống” vì hư không vẫn không phải là vô vi; hư không còn có thể được trông thấy; tuy nó không làm chướng ngại cho mọi vật nhưng lại bị mọi vật làm cho chướng ngại, như sức thấy của mắt, sức nghe của tai v.v... đều có giới hạn, hơn nữa, hư không thường bị lồng vào các khuôn khổ khác nhau như rộng, hẹp, vuông, tròn v.v...), bất động vô vi(thể tính của niết bàn là như như, tĩnh lặng), tưởng thọ diệt vô vi (trạng thái của sự tận diệt mọi tư tưởng và cảm thọ – cũng tức là niết bàn), chân như vô vi (bản thân của vạn pháp).
5. CÁC DUYÊN. Chữ “duyên” ở đây nghĩa là điều kiện. Theo luật duyên sinh thì bất cứ một sự vật nào trong vũ trụ cũng đều do nhiều sự vật khác hợp lại sinh ra. Những sự vật khác đó gọi là “DUYÊN”. Theo Duy Thức Học thì có bốn loại điều kiện (tứ duyên):
a) Nhân duyên, là điều kiện chính, là chủng tử, là cái nhân để sinh ra một vật. Hạt lúa là điều kiện chính để sinh ra cây lúa; chánh niệm là điều kiện chính để phát sinh trí tuệ, v.v...
b) Tăng thượng duyên, là điều
kiện phụ giúp. Dù hạt lúa là
điều kiện chính, nhưng nó không
phải là điều kiện duy nhất và đầy
đủ, vì nếu chỉ một mình nó không
thôi, cũng không thể làm nẩy sinh ra
cây lúa, mà phải nhờ đến nhiều
điều kiện khác như đất, nước,
phân bón, ánh sáng mặt trời, sức
người, sức vật, máy móc v.v...,
những thứ này là tăng thượng
duyên của hạt lúa. Những điều
kiện phụ giúp này cũng có thuận
và có nghịch, cho nên chúng có
thể phân làm hai loại: những điều
kiện giúp cho điều kiện chính phát
sinh và tiến triển cho đến khi có được
thành quả mĩ mãn, thì gọi là “thuận
tăng thượng duyên”; ngược
lại, những điều kiện đe dọa,
ngăn cản, phá hoại, làm cho hạt giống
không thể phát sinh được, thì
gọi là “nghịch tăng thượng
duyên”. Nhưng cũng nên chú ý,
không phải lúc nào thuận tăng thượng
duyên cũng là tốt và nghịch tăng
thượng duyên cũng là xấu, mà
cũng có trường hợp ngược
lại. Nếu có những điều kiện
thuận lợi nào đó đã giúp
cho một tâm niệm độc ác phát sinh
thành hành động gây đau khổ thì
đó là những thuận tăng
thượng duyên xấu; trái lại,
khi một ý tưởng xấu vừa khởi
lên mà người tu học biết dùng
những phương pháp hữu hiệu dập
tắt liền, không để cho phát hiện
thành hành động, thì đó là những
nghịch tăng thượng duyên tốt.
c) Sở duyên duyên, là điều
kiện đối tượng của nhận thức.
Danh từ “sở duyên duyên” gồm
có hai danh từ nhập lại: “sở
duyên” và “duyên”. “Sở
duyên” nghĩa là đối tượng
của nhận thức; và “duyên”
nghĩa là điều kiện. Duy Thức
Học nói, “nhận thức luôn luôn
bao gồm chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức”. Biết thì
không thể biết suông, mà phải là
biết cái gì; nhận thức luôn
luôn phải là nhận thức một đối
tượng, cho nên, không có đối
tượng thì không có nhận thức.
Vì vậy, sở duyên là điều
kiện thiết yếu cho thức, tức là
điều kiện thiết yếu để vạn pháp
có mặt.
d) Đẳng vô gián duyên, là điều
kiện tiếp nối liên tục, không
gián đoạn của vạn pháp. Trong dòng
sống của vạn pháp cần có sự
liên tục, nếu gián đoạn thì sẽ
không có gì được hình thành
cả. Nếu tôi của giây phút thứ nhất
mà không có tôi của giây phút thứ
hai tiếp nối thì sẽ không còn gì
là tôi cả! Vì vậy, đẳng vô
gián cũng là một điều kiện vô
cùng quan trọng cho sự hiện hữu của
sự vật.
(60) Sắc: ở đây là chỉ cho tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong).
(61) Câu này ý nói: Chân tâm nhiệm mầu thanh tịnh rộng lớn vốn có nơi bản thân mà bỏ quên đi, đó là một lớp mê; rồi nhận lấy cái tâm vọng tưởng phân biệt cho đó chính là tâm của mình, đó lại là một lớp mê nữa. Như thế là mê lầm chồng chất, không khác gì khi nhìn cánh tay của đức Phật, không biết rằng cánh tay vốn dĩ không chánh không ngược, đó là một lớp mê; đem cái tâm vọng tưởng phân biệt mà nhìn cho nên thấy cánh tay đưa lên thì cho là chánh, cánh tay rủ xuống thì cho là ngược, thật là mê lầm chồng chất!
(62) Viên âm: nghĩa là một âm trọn vẹn, một âm đầy đủ tất cả âm, tất cả âm không ra ngoài một âm. Đức Phật thuyết pháp chỉ bằng một thứ âm thanh, mà tất cả các loài chúng sinh ở nhiều nơi khác nhau, đều nghe và hiểu theo đúng âm thanh riêng của mỗi loài. Đức Phật nói một lời mà tất cả mọi người, tùy theo căn cơ sai biệt, đều được ân triêm lợi lạc.
(63) Câu Xá Li: tức Mạt Già Lê Câu Xá Li Tử, lãnh tụ của một trong sáu phái ngoại đạo nổi tiếng (lục sư ngoại đạo) thời Phật tại thế, chủ trương rằng, tất cả việc khổ vui của chúng sinh không phải do nhân duyên sinh, mà chỉ là tự nhiên có.
(64) Minh đế: nghĩa là lí chân thật đầu tiên. Học phái Số Luận thời cổ Ấn-độ đã đem vũ trụ vạn hữu phân ra có hai nguyên lí (gọi là thuyết “nhị-nguyên”): nguyên lí tinh thần gọi là “thần ngã”, và nguyên lí vật chất gọi là “tự tánh”; rồi đem quá trình chuyển biến của thế giới phân làm 25 loại, và cho đó là lí chân thật, cho nên gọi là “25đế”, mà đế đầu tiên gọi là “minh đế”. Minh đế là thật tánh của các pháp, thường tồn, là nguồn gốc ban đầu của vạn pháp, là nguyên nhân căn bản của mọi biến dịch, sinh diệt của vạn pháp, nó chính là tự tánh, một trong hai nguyên lí nói trên. Từ minh đế (tự tánh) sinh ra giác; từ giác sinh ra ngã mạn; từ ngã mạn sinh ra năm đại gồmđịa, thủy, hỏa, phong, không; từ năm đại sinh ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, lời nói, tay, chân, sinh thực khí, cơ quan bài tiết, và tâm căn. Từ minh đế đến tâm căn là 24 đế, cộng với thần ngã là 25 đế. Minh đế và thần ngã thì trường tồn bất diệt; 23 đế còn lại thì sinh diệt biến đổi.
(65) Tinh minh. Hoàn toàn sáng suốt, gọi là “minh”; nguyên chất, rặt ròng, không có gì pha trộn vào, gọi là“tinh”.
(66) A Na Luật: là một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, chứng được thiên nhãn thông tột bực, được mọi người tôn kính xưng là vị thánh tăng có thiên nhãn bậc nhất (thiên nhãn đệ nhất) trong tăng đoàn của Phật.
(67) Diêm-phù-đề. “Diêm-phù” cũng nói là “thiệm-bộ”, là tên một loại cây ở Ấn-độ; chữ “đề” có nghĩa là châu;“Diêm-phù-đề” là châu Diêm-phù, hay châu Thiệm-bộ. Theo kinh điển Phật giáo, trong vũ trụ có vô lượng vô số thế giới. Đơn vị căn bản để làm thành vũ trụ là “tiểu thế giới”. Trung ương của một tiểu thế giới là núi Tu-di. Bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc ở chung quanh núi Tu-di có 4 châu lớn, châu ở phương Nam tên là Diêm-phù, hay Thiệm-bộ, cho nên cũng gọi là “Nam Diêm-phù-đề”, hay “Nam Thiệm-bộ-châu”. Châu này có thứ đặc sản thiên nhiên là cây diêm-phù, cho nên gọi tên như vậy. Theo nội dung trong các kinh nguyên thỉ, thì châu Diêm-phù, ngày xưa vốn có ý chỉ cho bán đảo Ấn-độ; về sau thì chỉ chung cho cả thế giới loài người. Trong vũ trụ có vô số châu Diêm-phù như vậy.
(68) Am-ma-la: là giống cây ăn trái mọc nhiều ở các xứ nhiệt đới, như Ấn-độ, Mã-lai, Việt-nam, Phi-châu v.v...; người Việt gọi là cây xoài.
(69) Cõi trời Tứ-vương (Tứ-vương thiên). Cõi trời này ở lưng chừng núi Tu-di, cách xa cõi người bốn vạn hai ngàn do tuần. Nơi đây có ngọn núi chia làm bốn đầu, xoay ra bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc. Mỗi đầu là một cung trời, là nơi cư trú của một vị thiên vương cùng toàn bộ thiên chúng thuộc quyền: Hướng Đông là cung Hoàng-kim, do thiên vương Trì Quốc cai quản; hướng Nam là cung Lưu-li, do thiên vương Tăng Trưởng cai quản; hướng Tây là cung Bạch-ngân, do thiên vương Quảng Mục cai quản; hướng Bắc là cung Thủy-tinh, do thiên vương Đa Văn cai quản. Bốn vị thiên vương này đều là ngoại thần của trời Đế Thích ở cõi trời Đao-lợi trên đỉnh núi Tu-di. Họ có nhiệm vụ bảo hộ bốn châu thiên hạ, nên được gọi là Hộ Thế tứ thiên vương, và ngọn núi bốn đầu ấy được gọi là Tứ-vương thiên, là tầng trời đầu tiên của sáu tầng trời cõi Dục. Các vị thiên vương cũng như thiên chúng ở cõi trời này sống lâu 500 tuổi (một ngày đêm ở đây tương đương với 50 năm ở cõi Người), tính ra hơn chín triệu năm ở cõi Người. Sự dâm dục ở đây cũng giống như ở nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé năm tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
(70) Cung Mặt-trời, cung Mặt-trăng. Đây là hai cung Mặt-trời, Mặt-trăng ở sườn núi Tu-di, ngang bằng với cung điện của trời Tứ-vương. Theo Kinh Quán Đảnh ghi chép, cung Mặt-trời dài rộng 51 do-tuần, do ngọc ma-ni-hỏa làm thành; cung Mặt-trăng dài rộng 49 do-tuần, do ngọc ma-ni-thủy làm thành; nơi nào cũng đông đảo thiên chúng. Cung Mặt-trời tuy do ngọc lửa làm thành, nhưng rất mát mẻ, giống như cung Mặt-trăng.”
(71) Bảy núi vàng. Bao quanh núi Tu-di có 7 lớp biển nước thơm và 7 lớp núi vàng, xen kẽ nhau, cứ một lớp biển, một lớp núi; núi toàn bằng vàng, cho nên gọi là “núi vàng”.
(72) Cõi Ta-bà: ở đây là có ý chỉ cho châu Diêm-phù-đề. “Ta-bà” có nghĩa là nhẫn, kham nhẫn, chỉ cho thế giới nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời hóa độ chúng sinh, mà giáo pháp của Ngài hiện còn đang truyền bá rộng rãi. Chúng sinh ở thế giới này đa phần làm mười điều ác, cam chịu bao nhiêu đau khổ do vô minh phiền não hành hạ, mà không có ý muốn thoát li; đó là ý nghĩa của chữ “nhẫn”, tức là chịu đựng. Mặt khác, đức Phật và chư vị Bồ-tát ở thế giới này, trong công cuộc hành đạo để cứu độ chúng sinh, cũng phải chịu đựng nhiều khổ não để tỏ rõ đức vô úy và tâm từ bi; có thế mới đem lại lợi lạc cho chúng sinh một cách hữu hiệu; đó là ý nghĩa của từ “kham nhẫn”. Ngoài ra, thế giới Ta-bà cũng được hiểu là nơi có sáu loài Trời, Người, A-tu-la, Bàng-sinh, Ngạ-quỉ, và Địa-ngục cùng ở chung lộn với nhau. Từ “Ta-bà” nguyên được dùng chỉ cho châu Diêm-phù-đề, nơi cư trú của con người chúng ta, nhưng về sau nó được dùng để chỉ rộng ra cả một “ba ngàn đại thiên thế giới”,tức là toàn thể phạm vi giáo hóa của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, mà châu Diêm-phù-đề chỉ là một hạt cát nhỏ ở trong đó.
(73) Tinh xá: ở đây là chỉ cho tinh xá Kì-hoàn. (Xem lại chú thích số 3 ở trước.)
(74) Quả Vô-học: ở đây là chỉ cho quả A-la-hán. (Xem lại đoạn cuối của chú thích số 7 ở trước.)
(75) Bốn thứ bất tử của Mạt Già Lê: Mạt Già Lê là một trong “lục sư ngoại đạo” thời Phật tại thế (xem lại chú thích số 63 ở trước). “Bốn thứ bất tử” là loại luận thuyết càn rỡ (bất tử kiểu loạn luận) của nhóm ngoại đạo Mạt Già Lê và một số đạo sĩ Bà-la-môn khác. Nhóm này cố chấp cho rằng Phạm Thiên là trường tồn bất tử, nhưng có một số vấn đề phức tạp mà họ không hiểu nổi. Họ sợ rằng, nếu có người thông minh cơ trí đem những vấn đề ấy đến hỏi, mà họ không trả lời được thì rất là xấu hổ, bèn chủ trương “cứ trả lời bừa, hỏi một đường đáp một nẻo” (kiểu loạn hồi đáp). Trong Kinh Phạm Động (trong bộ Trường A Hàm) ghi chép, loại ngoại đạo này có 4 chủ trương, gọi là “tứ bất tử kiểu loạn luận”: 1) Đối với vấn đề “Làm điều thiện điều ác có quả báo hay không có quả báo?”, họ không biết rõ, bèn chủ trương, nếu có ai hỏi như thế, họ sẽ trả lời: “Việc đó như thế; việc đó có thật; việc đó khác; việc đó không khác; việc đó chẳng phải khác, chẳng phải không khác.” 2) Đối với vấn đề “Ngoài đời này còn có đời khác hay không có đời khác?”, họ không biết rõ, bèn chủ trương, nếu có ai hỏi như thế, họ sẽ trả lời: “Việc đó như thế; việc đó có thật; việc đó khác; việc đó không khác; việc đó chẳng phải khác, chẳng phải không khác.” 3) Đối với vấn đề “Thế nào là thiện, thế nào là bất thiện?”, họ không biết rõ, bèn chủ trương, nếu có ai hỏi như thế, họ sẽ trả lời: “Việc đó như thế; việc đó có thật; việc đó khác; việc đó không khác; việc đó chẳng phải khác, chẳng phải không khác.” 4) Vì ám muội, họ không biết phải quấy ra sao, nên bất cứ ai hỏi điều gì mang ý nghĩa ấy, họ cứ đáp bừa một câu: “Việc đó như thế; việc đó có thật; việc đó khác; việc đó không khác; việc đó chẳng phải khác, chẳng phải không khác.”
(76) Bốn chúng. Trên căn bản, “bốn chúng” là chỉ cho bốn chúng đệ tử làm thành giáo đoàn Phật giáo, đó là chúng Tì-kheo, chúng Tì-kheo-ni, chúng Ưu-bà-tắc, và chúng Ưu-bà-di. Nhưng cũng có chỗ chỉ cho bốn chúng xuất gia mà thôi: Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, và Sa-di-ni. Ngoài ra, từ “tứ chúng” còn dùng để chỉ cho bốn loại thính chúng trong pháp hội của Phật: 1) Chúng phát khởi: những vị có trí tuệ lớn, thấy rõ thời cơ, căn cơ hay tâm ý của đại chúng, hoặc phát hiện tướng lành trên dung nhan đức Phật v.v..., đã đặt câu hỏi, tạo duyên sự để thỉnh Phật thuyết pháp; 2) Chúng đương cơ: những vị túc duyên đã thuần thục, thích ứng ngay với bài pháp Phật nói tại pháp hội, và đạt được thành quả giác ngộ ngay trong pháp hội đó; 3) Chúng ảnh hưởng: chư vị Bồ-tát từ các cõi Phật ở các phương khác vân tập đến pháp hội để trợ hóa cho đức Phật; 4) Chúng kết duyên:trong pháp hội cũng có số đông thính chúng túc căn non yếu căn cơ thấp kém, chưa đủ khả năng chứng ngộ, nhưng nhờ phát tâm nghe pháp mà kết được duyên lành, mong cho kiếp lai sinh sẽ được gặp Phật và được tế độ.
(77) Pháp Vương. Đức Phật cũng được tôn xưng là đấng Pháp Vương. Đối với muôn pháp, đức Phật rất tự tại, không bị bất cứ pháp gì ràng buộc, chướng ngại; Ngài siêu việt tất cả các pháp, cho nên gọi là “Pháp Vương”.Đức Phật làm chủ tất cả mọi pháp môn, sử dụng chúng một cách tự tại để cứu độ chúng sinh, nên Ngài được tôn xưng là Pháp Vương.
(78) Đầu-khôi, hay Đồ-khôi: là một phái ngoại đạo khổ hạnh thời Phật tại thế. Họ sùng bái trời Đại Tự Tại, cho đó là vị thần sáng tạo ra vạn vật trong vũ trụ. Họ tu khổ hạnh bằng cách có lúc nhảy vào tro nóng, có lúc bôi tro khắp người, uống nước cám đun sôi, giữ giới không giết bò, chó, gà, nhưng lại giết dê để cúng tế trời Đại Tự Tại; và cho làm như thế để được lên trời, được giải thoát.
(79) “Chân ngã”: ở đây là chỉ cho “thần ngã”, một trong hai nguyên lí thường tồn theo chủ trương của phái Số Luận. (Xem lại chú thích số 64 ở trước.)
(80) Núi Lăng-già: cũng tức là đảo Lăng-già, ngày nay gọi là Tích-lan (tức nước Sri-Lanka). Đức Thích Tôn ngày xưa từng nói Kinh Lăng Già tại nơi này.
(81) Bồ Tát Đại Tuệ: là vị thính chúng đương cơ trong pháp hội phật nói Kinh Lăng Già.
(82) Tổng trì. Tiếng Phạn “đà-la-ni”, dịch ra Hán ngữ là “tổng trì”, nghĩa là bao hàm tất cả vạn pháp và giữ gìn vô lượng nghĩa lí.
(83) Năm ấm: tức là năm uẩn. Chữ Hán “ấm” có nghĩa là che khuất, ngày xưa được các nhà “cựu dịch” dùng để dịch chữ Phạn “skandha”; vì quan niệm rằng, năm thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp chân tính, làm cho chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi, cho nên năm thứ ấy được gọi là “năm ấm”. Nhưng chữ “skandha”cũng còn có nghĩa là chứa nhóm, và các nhà “tân dịch” quan niệm rằng, năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thứcvốn không có tính che lấp, mà chúng chỉ tích tụ lại, hòa hợp lại để làm nên thân tâm con người; vì vậy, chữ Phạn “skandha” đã được dịch lại là “uẩn” (có nghĩa là tích tụ). Dù vậy, do thói quen, ngày nay hai từ “ngũ ấm” và“ngũ uẩn” vẫn được dùng song hành. Năm ấm (năm uẩn) gồm có:
1. Sắc: chỉ chung cho thân thể của con người.
2. Thọ: là cảm giác sinh lí sinh ra khi các giác quan của thân thể tiếp xúc với đối tượng của chúng. Cảm giác có thể là dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ), hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu (xả thọ).
3. Tưởng: là tri giác, tức là sự nhận biết rõ ràng về đối tượng của nhận thức con người. Ví dụ, nhìn tượng Phật thì biết là tượng Phật, và tượng ấy bằng đồng, bằng gỗ, cao, thấp, v.v...; nghe tiếng chuông thì biết là tiếng chuông, và tiếng ấy trong, đục, bổng, trầm, v.v...; ngửi mùi nhang thì biết là mùi nhang, và mùi ấy thơm dịu, thơm gắt, v.v...
4. Hành:, là “tâm
hành”, tức là tất cả những
hiện tượng tâm lí của con người. Duy Thức Học nói, có cả thảy 51 hiện tượng tâm lí – gọi là 51 tâm sở, trong đó có 2 uẩn thọ và tưởng ở trên; nhưng vì phạm vi hoạt động của thọ và tưởng quá quan trọng – gần như suốt ngày, lúc nào
ta cũng sống với thọ và tưởng – nên ở đây hai hành này
được tách riêng thành ra 2 uẩn,
và 49 hành còn lại thì được
gộp chung trong 1 uẩn là “hành
uẩn”.
5. Thức: là căn bản thức, Duy Thức Học gọi là thức a-lại-da, chứa đựng chủng tử của vạn pháp.
Năm yếu tố kết hợp thành bản
thân con người như trên chỉ là
cách phân chia cho dễ thấy. Trong năm yếu
tố đó thì yếu tố đầu (sắc)
là vật chất, còn cả bốn yếu
tố sau đều là tinh thần; vì vậy
mà có chỗ chỉ phân chia con người
làm hai phần, là danh (tinh thần, gồm
cả bốn uẩn: thọ, tưởng, hành
và thức) và sắc (thể xác,
là sắc uẩn). Hai phần đó, nói
theo cách thông thường tức là
thân (sắc) và tâm (danh). Lại
nữa, theo tinh thần Duy Thức Học thì
thức (tức là tàng thức
hay a-lại-da thức) là nơi sinh khởi
ra mọi hiện tượng; cho nên rốt cuộc,
năm uẩn cũng chỉ là một uẩn
duy nhất mà thôi: đó là THỨC.
Mặt khác, khi ta nói về “bốn nguyên
tố” (tứ đại: địa, thủy,
hỏa, phong) cấu thành thân thể con người,
thì cả bốn nguyên tố này đều
thuộc về “sắc uẩn”. Khi ta nói
đến “sáu nguyên tố” (lục
đại: địa, thủy, hỏa, phong, không, thức) tạo thành bản thân con người
thì năm nguyên tố đầu (địa, thủy,
hỏa, phong, không) thuộc về sắc uẩn,
còn nguyên tố thứ sáu (thức)
thì bao gồm cả bốn uẩn là thọ, tưởng,
hành và thức.
(84) Sáu nhập. Trong “mười hai nhân duyên” có một khâu gọi là “sáu nhập”. Chữ “nhập” ở đây có nghĩa là tiếp xúc, can dự vào, nhập vào nhau để phát sinh ra nhận thức. Bởi vậy, sáu nhập này phải có hai phần: trong thân và ngoài thân. Sáu thứ ở trong thân gọi là “sáu nhập trong” (lục nội nhập), tức “sáu căn”, gồm nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý; sáu thứ ở ngoài thân gọi là “sáu nhập ngoài” (lục ngoại nhập), tức “sáu cảnh”, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp. Gộp lại sáu nhập trong và sáu nhập ngoài, ta có danh số gọi là “mười hai nhập” (thập nhị nhập). Vậy, sáu nhập cũng tức là mười hai nhập – nhưng danh số “SÁU NHẬP” được đề cập trong đoạn kinh này chỉ dùng để nói tới SÁU CĂN mà thôi. Và danh số “mười hai nhập” cũng được gọi là “mười hai xứ” (thập nhị xứ). Chữ “xứ” có nghĩa là chỗ, là nơi y cứ, từ đó mà thức được phát sinh. Do chữ “xứ” này mà có các danh số “sáu xứ trong” (tức sáu nhập trong, hay sáu căn) và “sáu xứ ngoài” (tức sáu nhập ngoài, hay sáu cảnh).
(85) Mười hai xứ. Gồm chung sáu giác quan (lục căn) và sáu đối tượng của giác quan (lục trần) thì chúng ta có danh số gọi là “mười hai xứ”. (Xem lại mục chú thích số 84 ở trên.)
(86) Mười tám giới. Chữ “giới” ở đây có nghĩa là khu vực. Gồm chung sáu giác quan (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý), sáu đối tượng của giác quan (lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và sáu thức (lục thức:nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), thì có danh số gọi là “mười tám giới” (thập bát giới). Tất cả mọi sự mọi vật trong vũ trụ đều bao gồm trong mười tám giới này.
(87) Như lai tàng: tức là chân tâm, có 3 ý nghĩa: 1) Thể tánh của chân tâm thường trụ bất biến, gọi là “như”; tuy là thường trụ bất biến nhưng luôn luôn tùy duyên biến hiện ra muôn vàn diệu dụng, gọi là “lai”; vạn pháp đều hàm chứa trong chân tâm, gọi là “tàng”; bất biến mà thường tùy duyên, tùy duyên mà luôn luôn bất biến, gọi là“như lai tàng”. 2) “Như lai tàng” cũng tức là thể tánh giác ngộ (Phật tánh). Thể tánh giác ngộ này xưa nay vốn có sẵn trong tất cả chúng sinh; vì chúng sinh mê vọng nên nó bị che lấp, không hiển hiện được, nếu hết mê vọng thì tức khắc hiện rõ. Vì thể tánh giác ngộ (tánh như lai) ấy vốn sẵn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh, cho nên gọi là “như lai tàng”. 3) “Như lai tàng” tức là chân tâm thường trụ bất sinh bất diệt, hằng sa diệu đức của các đức Như Lai trong mười phương đều hàm chứa ở trong đó, cho nên gọi là “như lai tàng”.
(88) Chân như. “Chân” nghĩa là chân thật; “như” nghĩa là thường trụ, không biến đổi. Thể tánh của vạn pháp là chân thật, thường trú, không biến đổi, không sinh diệt, vượt ra ngoài mọi khái niệm hư vọng, không thể phân biệt suy lường; đó chính là “chân như”.
(89) Bình tần-già. Cái bình có hình dáng trông giống như chim ca-lăng-tần-già, nên gọi là “bình tần-già”.
(90) Hai tướng trái và thuận. Tâm lí chung của chúng sinh là chán khổ cầu vui, bởi thế, cảm xúc khổ thì trái ngược với chúng sinh, đó là tướng “trái”; và cảm xúc vui thì thuận với chúng sinh, đó là tướng “thuận”. Cả hai trần hợp và lìa đều có hai tướng trái và thuận này.
(91) Tô, lạc, đề hồ: là các món ăn giàu chất dinh dưỡng của người Ấn-độ, được chế biến từ sữa. Từ sữa nguyên chất chế ra món “lạc”; từ lạc chế ra món “sinh tô”; từ sinh tô chế ra món “thục tô”; từ thục tô chế ra món“đề hồ”; –đại khái giống như các món bơ, phó mát của các nước Tây-phương, hay các món chế biến từ đậu nành của các nước Đông-phương vậy.
(92) Xoa đầu. Trong Luật, đức Phật dạy chư vị tì kheo, mỗi ngày xoa đầu ba lần, thầm tụng kệ rằng: “Giữ gìn thân ngữ ý, chớ tổn hại chúng sinh, tránh khổ hạnh vô ích, chắc chắn được giải thoát.” Ngoại đạo thường tu các loại khổ hạnh vô nghĩa, vô ích; vì tu nhân không chân chánh nên không đạt được quả giải thoát chân thật. Phần đông các vị tì kheo đệ tử Phật, trước kia từng là ngoại đạo, bởi vậy, để thường xuyên có một ý chí “xả tà qui chánh” mạnh mẽ, đức Phật dạy họ mỗi ngày tự xoa đầu ba lần, để luôn luôn tự cảnh giác rằng, tóc mình đã cạo, đang là người xuất gia, phải sống xứng đáng là đệ tử của Phật.
(93) Trung đạo: tức là chân lí tuyệt đối, vượt lên trên mọi khái niệm đối đãi của “nhị biên” như có-không, sinh-diệt, phải-trái, v.v...
(94) Hí luận: là những lời bàn luận vô nghĩa, phi lí, xuyên tạc sự thật, những lời nói không cẩn trọng, không nghiêm túc, nói lung tung như giỡn chơi, chỉ cốt đả phá cho thỏa lòng tị hiềm.
(95) Sắc. Các chữ “sắc” ở đây là chỉ cho địa đại.
(96) Kính dương-toại: là một loại kính bằng đồng, một tay cầm kính, một tay cầm cục bùi nhùi, đưa thẳng lên mặt trời thì ánh nắng tụ vào kính, chiếu xuyên vào cục bùi nhùi mà sinh ra lửa.
(97) Tinh thái-âm: tức là chất tinh túy luyện được từ mặt trăng. (Xem chú thích số 98 ở sau.)
(98) Ngọc phương-chư: cũng gọi là “âm toại” (đối lại với từ “dương-toại” trong chú thích số 96 ở trước), là loại ngọc do nấu đá luyện thành, hình giống như con sò, chà cho nóng, để dưới ánh trăng sẽ sinh ra một thứ nước tinh ròng, gọi là “tinh thái-âm”.
(99) Y tăng-già-lê: cũng gọi là “đại y”, là loại y quan trọng nhất trong ba y của chư vị tì kheo, dùng để mặc trong những lễ tiết quan trọng. (Xem chú thích số 100 tiếp theo sau.)
(100) Ca-sa: là áo mặc (y) của người xuất gia. Ca-sa hay cà-sa, là dịch âm tiếng Phạn, có nghĩa là hoại sắc, tức không thuộc vào năm màu chính: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Y của người xuất gia được may bằng vải không thuộc năm màu chính như trên, nên gọi là “ca-sa”.
Nghĩa thông thường của chữ “y” là áo, tức chiếc áo bình thường mọi người đều mặc. Nhưng trong truyền thống của Phật giáo Việt-nam, khi nói “y” thì không có nghĩa là chiếc áo bình thường, mà đó là chiếc “pháp y”của chư tăng ni mặc trong các pháp sự quan trọng như tụng kinh lễ Phật, thuyết pháp, nghe pháp v.v... Và khi dùng loại “y” này, cũng theo truyền thống Phật giáo Việt-nam, chư tăng ni Việt-nam không nói “mặc y”, mà nói là“đắp y”.
Nguyên thỉ, “y” là ba loại pháp y được chấp thuận là vật sở hữu nhu yếu của một vị tì kheo trong tăng đoàn thời Phật tại thế, do đức Phật chế định, luôn luôn cất giữ bên mình, đi đâu mang theo đó, không được xa rời; gồm có:
1) Y an-đà-hội, Hán ngữ dịch là “nội y”, tức là loại y mặc sát người, mặc thường ngày; làm việc, ngủ nghỉ đều mặc.
2) Y uất-đa-la-tăng, Hán ngữ dịch là “thượng y”, tức là loại y mặc phủ ngoài y an-đà-hội, dùng khi lễ bái, tụng kinh, nghe pháp, bố-tát, thọ trai.
3) Y tăng-già-lê, Hán ngữ dịch là “đại y”, tức là loại y quan trọng, mặc trong những lúc thuyết pháp, chủ trì hay tham dự các đại lễ.
Chư tăng thời Phật tại thế, mặc y thường để trần vai bên phải, nhưng chư ni thì phải mặc kín vai; bởi vậy, chư ni, ngoài ba y trên, còn phải mặc thêm chiếc y lót bên trong y an-đà-hội, để che kín vai và nách, gọi là y tăng-kì-chi, Hán ngữ dịch là “phú kiên y”. Ở phía dưới chiếc y phú kiên này, chư ni lại còn phải mặc thêm một chiếc quần, phủ từ thắt lưng trở xuống, gọi là y quyết-tu-la, Hán ngữ dịch là “hạ quần”. Như vậy, trong khi chư tăng có ba y thì chư ni có năm y, gọi là “tì-kheo-ni ngũ y”. Về sau, vì thấy sự ích lợi của chiếc áo và quần lót mặc bên trong, qui chế “năm y” cũng được áp dụng cho chư tăng.
Cả ba loại y an-đà-hội, uất-đa-la-tăng và tăng-già-lê trên, đều là một tấm vải lớn do nhiều mảnh vải nhỏ hình chữ nhật chắp vá lại làm thành. Cứ hai hay ba mảnh dài và một mảnh ngắn nối nhau thành một hàng dọc, gọi là một “điều”; tùy theo số điều nhiều ít mà phân loại ba y:
1) Y an-đà-hội có 5 điều (cho nên cũng được gọi là “ngũ điều y”), mỗi điều gồm 1 mảnh dài và một mảnh ngắn chắp nối nhau.
2) Y uất-đa-la-tăng có 7 điều (cũng được gọi là “thất điều y”), mỗi điều gồm 2 mảnh dài và một mảnh ngắn chắp nối nhau.
3) Y tăng-già-lê có từ 9 đến 25 điều (cũng được gọi là “cửu điều y”, hay “nhị thập ngũ điều y”); loại y này lại phân ra có 3 phẩm:
a) Phẩm hạ (hạ phẩm y) có 3 loại y: y 9 điều, y 11 điều và y 13 điều, mỗi điều do hai mảnh dài và một mảnh ngắn chắp lại;
b) Phẩm trung (trung phẩm y) có 3 loại y: y 15 điều, y 17 điều và y 19 điều, mỗi điều do ba mảnh dài và một mảnh ngắn chắp lại;
c) Phẩm thượng (thượng phẩm y) có 3 loại y: y 21 điều, y 23 điều và y 25 điều, mỗi điều do bốn mảnh dài và một mảnh ngắn chắp lại.
Ngoài các loại y chính thức như trên, còn có một loại y dành cho các chúng sa-di, sa-di-ni, cư sĩ thọ trì năm giới, và Bồ-tát tại gia, đó là “mạn y”, chỉ là một tấm vải trơn, không có các “điều” như các loại y trên.
(101) Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Tì-xá, Thủ-đà, Phả-la-đọa, Chiên-đà-la: là những giai cấp dân chúng cao thấp khác nhau trong xã hội Ấn-độ, do đạo Bà-la-môn đặt định từ mấy ngàn năm trước khi đức Phật ra đời. Sát-đế-lịlà giai cấp vua chúa và các quyến thuộc nắm quyền thống trị quốc gia; Bà-la-môn là giai cấp tăng lữ đạo Bà-la-môn, nắm quyền lãnh đạo tinh thần từ vua quan cho đến toàn thể dân chúng; Tì-xá là giai cấp của những người thuộc giới địa chủ, thương chủ, nghiệp chủ; Thủ-đà-la giai cấp nô lệ, gồm giới nông dân, thợ thuyền. Đó là 4 giai cấp chính thức trong xã hội Ấn độ, ngoài ra còn có một hạng ngoại cấp, gọi là Chiên-đà-la, bị coi là hạng người hèn hạ nhất trong xã hội, đó là những kẻ gánh phân, đồ tể, đâm thuê chém mướn, làm những nghề cực kì ghê tởm, nguy hiểm nhất trong đời sống xã hội. Riêng từ “Phả-la-đọa” thì không phải chỉ cho một giai cấp nào, mà đó là một họ trong 6 họ của dòng Bà-la-môn, gồm những người có trí thông minh lanh lợi, có biện tài, làm các nghề cao quí về tế lễ, âm nhạc, thiên văn, thuật số, thư khố, v.v...
(102) Kiến đại: chỉ chung cho tánh thấy nghe hay biết ở trong sáu căn; hiểu rõ được tánh thấy thì các tánh nghe, ngửi, nếm v.v... cũng được thông suốt.
(103) Bảo-vương: tức Pháp-vương, tức quả Phật.
(104) Năm trược: Chữ “trược” nghĩa là dơ bẩn, nhưng tính chất “dơ bẩn” ở đây không phải chỉ cho sự dơ bẩn vật chất như thân thể đầy cáu ghét, quần áo dính đầy bùn đất, bàn ghế đầy bụi bặm v.v..., mà chỉ cho đời sống đau khổ, tính tình xấu ác, không trong sạch của tất cả chúng sinh phàm phu. “Đời xấu ác năm trược” là chỉ cho thế giới Ta-bà đầy đau khổ. “Năm trược” là năm thứ dơ bẩn, đó là:
1. Kiếp dơ bẩn (kiếp trược). Kiếp sống của chúng sinh phàm phu cứ tăng dài giảm ngắn, luôn luôn bất an, đến thời kì nhất định thì xảy ra các tai nạn: nhỏ thì có đói khát, dịch bệnh, đao binh; lớn thì có lửa cháy thiêu đốt, nước dâng cao tràn khắp, gió bão vùi dập; làm cho không thứ gì là không bị hủy hoại, tiêu diệt, cho nên nói là“kiếp dơ bẩn”.
2. Thấy biết dơ bẩn (kiến trược). Tất cả năm phương diện thấy biết (ngũ kiến, hay ngũ lợi sử: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến) của chúng sinh phàm phu đều sai lầm, không đúng với chân tướng vạn pháp, cho nên nói là “thấy biết dơ bẩn”.
3. Phiền não dơ bẩn (phiền não trược). Chúng sinh phàm phu đầy dẫy ái dục, xan tham, hư dối v.v..., nói tổng quát là bị năm loại tính tình xấu ác độc hại căn bản nhất là tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ,thường xuyên làm não loạn tâm thần; cho nên nói là “phiền não dơ bẩn”.
4. Chúng sinh dơ bẩn (chúng sinh trược). Chúng sinh phàm phu rất nhiều tính xấu, không hiếu kính cha mẹ, không tôn trọng sư trưởng, không tin nhân quả, thường gây nghiệp ác, không sợ ác báo, không làm việc thiện, không tạo phước đức, không tu trí tuệ, không giữ gìn cấm giới, v.v...; cho nên nói là “chúng sinh dơ bẩn”.
5. Thọ mạng dơ bẩn (mạng trược). Từ buổi xa xưa, mạng sống con người rất dài, đến tám vạn tuổi; nhưng rồi, vì tính tình càng ngày càng ác độc, cho nên mạng sống cứ giảm ngắn dần, cho đến nay rất ít người được sống đến trăm tuổi; cho nên nói là “thọ mạng dơ bẩn”.
(105) Chân thắng nghĩa trong các thắng nghĩa: “Thắng nghĩa” tức là chân lí. Tông Pháp Tướng phân tích có bốn loại thắng nghĩa:
1) Thế gian thắng nghĩa: tức loại chân lí tương đối ở thế gian, như nói về năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới v.v...
2) Đạo lí thắng nghĩa: tức loại chân lí trên đường tu tập căn bản, như nói về khổ, tập, diệt, đạo (tứ đế) v.v...
3) Chứng đắc thắng nghĩa: tức loại chân lí của trí tuệ chứng đắc, như thể nhập tánh “nhị không chân như” chẳng hạn.
4) Thắng nghĩa thắng nghĩa: tức loại chân lí tuyệt đối, chân thật rốt ráo cùng tột, như lí thể “nhất chân pháp giới”, hay “như lai tạng” chẳng hạn.
(106) Định-tánh Thanh-văn: “Thanh-văn” là chỉ cho các vị A-la-hán; “định-tánh” tức là tánh cố chấp, không thay đổi. Những vị A-la-hán căn cơ thấp kém, cho rằng chứng được quả vị ấy đã là đầy đủ, rồi chìm đắm trong cảnh giới không tịch, không phát tâm hóa độ chúng sinh, không hướng lên quả vị Bồ-đề Vô-thượng.
(107) Đạo lí hai không (nhị không): “Hai không” tức là ngã không và pháp không. Hai không cũng tức là “hai vô ngã” (nhị vô ngã). “Vô ngã” là không có một bản ngã tồn tại. Đó là một ý niệm mà đức Phật đã phương tiện nói ra để phá bỏ cái ý niệm sai lầm là “có một bản ngã tồn tại” (ngã) mà mọi người đều chấp chặt. Có hai thứ vô ngã:
1. Con người là vô ngã (nhân vô ngã, hay nhân không). Đạo lí này nói rằng, con người do năm uẩn hợp lại mà thành, không có một bản ngã chân thực tồn tại. Khi năm uẩn tan rã thì con người cũng không còn nữa. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền quán thì hành giả có thể diệt trừ được “phiền não chướng”.
2. Sự vật là vô ngã (pháp vô ngã, hay pháp không). Đạo lí này nói rằng, mọi sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hòa hợp và nương nhau mà có, chứ tự nó không có bản ngã tồn tại. Khi nhân duyên tan rã thì sự vật cũng tan rã. Ý niệm này nếu được thực tập bằng thiền quán thì hành giả có thể diệt trừ được “sở tri chướng”.
Kinh Niết Bàn nói: “Tất cả sự vật đều không có bản ngã và cũng không có gì là sở hữu của bản ngã. Hành giả tu tập được phép quán niệm này thì dứt trừ được tính ngã mạn, chứng được niết bàn.”
Thực ra, “vô ngã” chỉ là một khái niệm mà đức Phật đưa ra để phá trừ tâm “chấp ngã” của con người, chứ không phải đó là mục đích cuối cùng để cho người tu học đạt tới. Nói cách khác, “vô ngã” chỉ là một phương tiện giúp cho hành giả khai mở tuệ giác. Kinh Niết Bàn nói: “Người trí nên biết, Như Lai vì người chấp ngã mà nói phép quán vô ngã, và muốn cho các tì kheo tu tập phép quán vô ngã.”
Vì “vô ngã” chỉ là một khái niệm cho nên nó chỉ có giá trị như một trợ lực cho công phu thiền tập, và rồi nó phải bị phá bỏ thì tuệ giác mới tỏ lộ ra được. Nếu nó không bị phá bỏ thì sẽ trở thành một thứ “sở tri chướng”. Trong kinh Niết Bàn, Phật dạy: “Nếu cho rằng vạn hữu đều không có ngã thì là đoạn kiến; nếu cho rằng vạn hữu có ngã thì là thường kiến... Người trí nên quán niệm rằng, ‘vô ngã’ chỉ là giả danh, chẳng thật...”
Đối với đạo lí “hai không” này, các bậc A-la-hán (Thanh-văn thừa) và Bích-chi Phật (Duyên-giác thừa) chỉ chứng được lí “ngã không” (con người là vô ngã) mà thôi, còn vẫn chấp cho vạn vật là thật có (pháp hữu). Chỉ có hàng Bồ-tát mới chứng đạt cả ngã không và pháp không (nhị không).
(108) Phật thừa - Nhất thừa. Chữ “thừa” nghĩa là cỗ xe, dùng để chỉ cho giáo pháp của đức Phật. Vì giáo pháp có năng lực đưa con người từ cõi vô minh đến nơi giác ngộ, cho nên lấy hình ảnh chiếc xe làm ví dụ. “Phật thừa” hay “Nhất thừa” là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn của chư Phật.
Kinh Pháp Hoa (phẩm “Phương Tiện”)
nói: “Chư Phật chỉ dùng một cỗ xe (nhất thừa) để
hóa độ chúng sinh, chứ không có
cỗ xe (thừa) nào khác,
dù là hai hay ba...”; hoặc: “Thật
ra chỉ có một cỗ xe duy nhất
(nhất Phật thừa), nhưng chư Phật
tùy căn cơ mà dùng phương tiện,
dạy có ba cỗ xe (tam thừa).” Các kinh luận thường dùng thuật ngữ này –nhất thừa - Phật thừa– để chỉ cho giáo pháp đại thừa.
(109) Tánh giác: thể tánh của chân như tự sáng rõ, không nhờ vào cái gì khác mới sáng. Bản giác: tánh giác vốn có, xưa nay vốn thanh tịnh, sáng suốt, là chân nguyên của vạn pháp. Diệu minh: tánh giác bất biến, tịch tịnh, nhiệm mầu (diệu) mà thường tùy duyên chiếu sáng (minh). Minh diệu: tánh giác vốn có nơi chúng sinh luôn luôn tùy duyên chiếu soi (minh) nhưng vẫn không xa rời thể tánh bất biến, tịch tịnh, nhiệm mầu (diệu).
(110) Phong luân: tức là phong đại (trong bốn đại).
(111) Kim luân: tức là địa đại (trong bốn đại).
(112) Hỏa quang: tức là hỏa đại (trong bốn đại).
(113) Thủy luân: tức là thủy đại (trong bốn đại).
(114) Đồng nghiệp: là cùng chung nghiệp với nhau. Ở đây nói về hai loài thai sinh và noãn sinh (trong bốn loài chúng sinh: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh), vì cha, mẹ và chính mình, cả ba đều cùng có nghiệp chung với nhau, nên ràng buộc nhau mà mình sinh ra đời.
(115) Hợp, lìa: Ở đây nói về hai loài thấp sinh và hóa sinh (trong bốn loài chúng sinh: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh), không do cha mẹ, chỉ do nghiệp riêng của mình, hoặc hợp với nơi ẩm thấp để hình thành sinh mạng (thấp sinh); hoặc lìa sinh mạng cũ để hóa thành sinh mạng mới (hóa sinh).
(116) Vọng cảnh: Ở đây là chỉ cho cảnh giao hợp của cha mẹ.
(117) Đồng thì yêu, khác thì ghét: Theo luật âm dương hấp dẫn, âm với dương thì thu hút nhau, gọi là “đồng”; âm với âm, hoặc dương với dương thì đẩy nhau ra, gọi là “khác” (dị). Bởi vậy, nếu thân trung ấm là nam, thấycha, đó là “khác”, cho nên ghét; thấy mẹ, đó là “đồng”, cho nên yêu. Nếu thân trung ấm là nữ, thấy mẹ, đó là“khác”, cho nên ghét; thấy cha, đó là “đồng”, cho nên yêu.
(118) Đồng nghiệp trong quá khứ. (Xem lại chú thích số 114 ở trên.)
(119) Yết-la-lam, át-bồ-đàm: Luận Câu Xá phân tích bào thai gồm có năm thời kì:
1) Bảy ngày đầu gọi là “yết-la-lam”, là thời kì tinh cha huyết mẹ ngưng tụ lại.
2) Bảy ngày thứ nhì gọi là “át-bồ-đàm”, là thời kì bào thai chỉ như một cái mụt trên da.
3) Bảy ngày thứ ba gọi là “bế-thi”, là thời kì bào thai phát triển thành một cục thịt mềm.
4) Bảy ngày thứ tư gọi là “yết-nam”, là thời kì cục thịt cứng chắc dần.
5) Bảy ngày thứ năm gọi là “bát-la-xa-khư”, là thời kì thai nhi thành hình đầy đủ với tất cả tay chân, đầu mặt, các giác quan, xương cốt. Thời kì này kéo dài cho đến khi em bé chào đời, vào bảy ngày thứ ba mươi tám; tổng cộng thời gian thai nhi ở trong bụng mẹ từ ngày đầu cho đến ngày lọt lòng mẹ gồm khoảng 266 ngày.
(120) Vô công dụng đạo: Khi công phu tu hành đã tiến đến chỗ thuần thục, trí tuệ vô lậu và tâm từ bi vận hành một cách tự tại, tự nhiên, không còn phải dụng công, gắng sức như thuở còn yếu kém, gọi là “vô công dụng đạo”.
(121) Mười hai bộ kinh: Mười hai bộ kinh tức là mười hai thể loại của toàn bộ kinh điển Phật dạy:
1. Khế kinh (trường hàng): những lời dạy của đức Phật bằng văn xuôi, thường được gọi tổng quát là “kinh”.
2. Ứng tụng (trùng tụng): những bài kệ tụng (hình thức thơ cổ) dùng để tóm tắt ý nghĩa của khế kinh, cho nên thường đặt ở sau và luôn luôn tương ứng với phần khế kinh.
3. Kí biệt (thọ kí): lời Phật thọ kí cho chúng đệ tử sẽ chứng quả Phật vào đời vị lai.
4. Phúng tụng (cô khởi): một bài kinh Phật dạy toàn dùng kệ tụng để diễn đạt, nhưng không phải là những bài kệ tụng tóm tắt kinh văn “trường hàng” như thể loại “ứng tụng” ở trên.
5. Tự thuyết: Phật tự mở lời khai thị mà không đợi có người thỉnh cầu chỉ dạy.
6. Nhân duyên: nêu lên cái nhân duyên đưa đến trường hợp thuyết giáo của Phật – thường là phẩm “tựa” ở đầu mỗi bộ kinh.
7. Thí dụ: những ví dụ Phật đưa ra trong lúc giảng thuyết để giúp thính chúng hiểu ý kinh dễ dàng hơn.
8. Bản sinh: các kiếp tu hành đời trước của Phật do chính Ngài thuật lại.
9. Bản sự: những hành vi cùng phẩm hạnh của các vị Bồ-tát và thánh chúng đệ tử trong các kiếp trước do chính đức Phật thuật lại.
10. Phương quảng: kinh điển Phật nói có văn từ phong phú, giáo nghĩa sâu xa rộng lớn; đặc biệt chỉ cho toàn thể kinh điển đại thừa.
11. Hi pháp (vị tằng hữu): những sự việc ít có của Phật và chư vị đệ tử được ghi chép trong kinh.
12. Luận nghị: những lời nghị luận rành mạch, rõ ràng của đức Phật nhằm giúp thính chúng hiểu rõ về thể tánh của vạn pháp.
(122) Sáu căn thọ dụng: Sáu căn tiếp xúc, lãnh thọ trần cảnh, và phát sinh công dụng hiểu biết, gọi là “sáu căn thọ dụng” (lục thọ dụng căn).
(123) Bốn trần của phù căn: Căn có hai phần: tịnh sắc căn (hay thắng nghĩa căn) và phù trần căn; cả hai phần này đều do bốn đại (đất, nước, lửa, gió) kết hợp làm thành. Bốn đại làm thành tịnh sắc căn rất vi tế, trong sạch – gọi là “bốn đại thanh tịnh”; cho nên chỉ có thánh nhãn hay thiên nhãn mới trông thấy được tịnh sắc căn, mắt thường không thể thấy được. Bốn đại làm thành phù trần căn thì thô lậu, nhiễm ô, cho nên phù trần căn, với mắt thường, ai cũng trông thấy được; vì vậy mà bốn đại ở đây được gọi là “bốn trần của phù căn”.
(124) Câu sinh vô minh: Loại vô minh căn bản vốn có từ vô thỉ, đeo đẳng theo chúng sinh không rời; khi một sinh mạng ra đời, nó liền sinh ra theo cùng lúc với sinh mạng đó.
(125) Giao-lô: tức là cây lau, nhưng đây là loại lau đặc biệt, khác với lau thường. Loại lau này, lúc mới mọc lên liền có hai cây cùng mọc, gốc rễ của hai cây dính liền nhau, thân của hai cây thì nương dựa nhau; do đó mà đứng vững được. Nếu chỉ một cây đơn độc thì ngã rạp trên mặt đất, không đứng lên được.
(126) Sáu gút (lục kết): Theo giải thích của pháp sư Viên Anh (trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa), sáu cái gút này tức lànăm ấm, theo thứ lớp từ nơi sâu kín cho đến chỗ thô cạn, gồm có: 1) Thức ấm, tức thức thứ tám a-lại-da; 2) Hành ấm, tức thức thứ bảy mạt-na; 3) Tưởng ấm, tức thức thứ sáu, ý thức; 4) Thọ ấm, tức năm thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân); 5) Sắc ấm, gồm hai phần, trong là căn thân và ngoài là khí thế giới. Bốn ấm đầu (thức, hành, tưởng, thọ), mỗi ấm là một gút; riêng sắc ấm, vì gồm hai phần nên có hai gút; cộng lại là sáu gút(lục kết).
(127) Cái một: Cũng theo pháp sư Viên Anh trong tác phẩm vừa dẫn trên, nói “sáu gút” là nói về tướng của gút, nhưng nói về bản nguyên của gút thì chỉ có “một”.
(128) Thức đà-na: tức là thức a-đà-na, dịch ra Hán ngữ là chấp trì, có công năng gìn giữ mọi chủng tử nhiễm, tịnh, chủng tử của căn thân và khí thế giới; có thể nói, a-đà-na là một tên khác của thức a-lại-da, dịch ra Hán ngữ là tàng thức.
(129) Vô sinh nhẫn. (Xem chú thích số 41 ở trước.)
(130) Mười tám khu vực. (Xem chú thích số 86 ở trước.)
(131) Ưu Ba Ni Sa Đà: Sự tích không thấy chép rõ ràng, chỉ biết sơ lược rằng, tôn giả thuộc hạng người lợi căn, được gặp Phật rất sớm; nhưng tánh nhiều tham dục, cho nên đức Phật đã đặc biệt dạy cho pháp tu “bất tịnh quán”, nhờ đó mà tôn giả chứng A-la-hán.
(132) Ni-sa-đà: dịch là sắc tánh không, có nghĩa, tự tánh của sắc trần là không.
(133) Hương Nghiêm: Danh hiệu này có nghĩa là do quán chiếu hương trần mà thâm nhập được tự tánh của hương chân thật, và dùng hương chân thật này mà trang nghiêm pháp thân.
(134) Dược Vương và Dược Thượng: là tên hai vị Bồ-tát lớn thuộc hàng Đẳng-giác. Vào thời quá khứ xa xưa, lúc đức Phật Lưu Li Quang ra đời hóa độ chúng sinh, có vị trưởng giả tên Tinh Tú Quang, nghe pháp tu hành, tâm vô cùng hoan hỉ. Ông thường dùng các loại thuốc tốt nhất để trị bệnh cho chúng tăng, và phát nguyện rằng, trong các đời sau, ông sẽ luôn luôn trị cả thân bệnh lẫn tâm bệnh cho chúng sinh. Lời nguyện của ông được mọi người tán thán, xưng tặng ông danh hiệu Dược Vương. Người em trai của ông tên Điện Quang Minh cũng thường đem những vị thuốc bổ thượng hạng cúng dường Phật và chúng tăng, nên được mọi người xưng tặng danh hiệu Dược Thượng. Từ đó, trải bao nhiêu kiếp tu hành, họ đều là anh em với nhau, và đều chuyên trị về thuốc men cứu đời.
(135) Bạt Đà Bà La: là tên của một vị Bồ-tát lớn thuộc hàng Đẳng-giác. “Bạt-đà-bà-la” được dịch là “hiền thủ”, có nghĩa là lấy sự hiền đức để giữ mình; cũng dịch là “hiền hộ”, có nghĩa là đem hiền đức để cứu hộ chúng sinh; tự lợi và lợi tha đều gồm đủ trong hai nghĩa đó. Kinh Pháp Hoa ghi rằng: Vào thời kì tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên, Bồ Tát Bạt Đà Bà La và Bồ Tát Thường Bất Khinh là hai người cùng thời. Lúc đầu thì Bạt Đà Bà La thường khinh mạn, phỉ báng Bồ Tát Thường Bất Khinh; về sau, thấy được thần lực của Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bạt Đà Bà La rất hối hận, tự trách mình, bèn xin theo phụng sự Bồ Tát; cho nên được nghe giáo pháp, và phát tâm xuất gia tu hành. Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó, bây giờ thành Phật, tức đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni; còn Bạt Đà Bà La thì bây giờ là một vị Bồ-tát Đẳng-giác, đang có mặt trong pháp hội Lăng Nghiêm của đức Phật Thích Ca.
(136) Phật Oai Âm Vương: là đức Phật đầu tiên của kiếp Quá-khứ (tức Quá-khứ Trang-nghiêm kiếp). TheoKinh Pháp Hoa (phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát) ghi chép, vào thời quá khứ, hơn vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì kiếp về trước, có quốc độ tên Đại-thành, trong đó có đức Phật hiệu là Oai Âm Vương, ra đời thuyết pháp hóa độ cho các loài Trời, Người và A-tu-la. Đức Phật trụ thế bốn mươi vạn ức na-do-tha hằng-hà-sa kiếp. Sau khi đức Phật diệt độ, thời kì chánh pháp trải dài vô số kiếp; thời kì tượng pháp trải dài vô lượng vô số kiếp. Khi thời kì tượng pháp này chấm dứt, trong quốc độ ấy lại có đức Phật khác ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương. Cứ như thế, trước sau có đến hai vạn ức đức Phật nối tiếp nhau ra đời, cùng có chung một danh hiệu là Oai Âm Vương. Phật Oai Âm Vương nói đến ở đây là chỉ cho đức Phật đầu tiên.
(137) Tì kheo ni Tử Kim Quang: tức bà Diệu Hiền, phu nhân của trưởng giả Đại Ca Diếp, khi hai người chưa xuất gia tu hành theo Phật.
(138) Chu Lị Bàn Đặc Già: cũng gọi là Chu Lị Bàn Đà Già, hoặc gọi tắt là Chu Lị Bàn Đặc, hay Bàn Đà, dịch ý là Tiểu Lộ. Tôn giả người ở thành Xá-vệ, có người anh ruột là Ma Ha Bàn Đặc (dịch ý là Đại Lộ), tánh rất thông minh, thuộc hạng người lợi căn, sớm bỏ tục xuất gia, không bao lâu thì chứng quả A-la-hán. Còn tôn giả thì ngược lại, bẩm tánh vô cùng ngu độn. Sau được huynh trưởng cho theo xuất gia để dạy dỗ, nhưng học trước quên sau, nhớ sau quên trước, không học tập gì được cả; bị mọi người gọi tên là Ngu Lộ. Đức Thế Tôn biết được, rất thương, nên gọi lên đích thân chỉ dạy. Nhờ vậy, một thời gian sau tôn giả gột sạch trần cấu vô minh, tâm tánh bừng sáng, chứng quả A-la-hán.
(139) Kiều Phạm Bát Đề: cũng gọi là Kiều Phạm Ba Đề, dịch ý ra Hán ngữ là Ngưu Tướng –nghĩa là có tướng trâu. Tôn giả là một trong số đệ tử thánh tăng của Phật, nhưng trong buổi đầu xuất gia thì do tôn giả Xá Lợi Phất chăm sóc dạy dỗ. Nhân trong đời quá khứ, ngài có ngắt một gié lúa đầy hạt vất xuống đất; lại một lần khác, ngài trông thấy một vị tì kheo A-la-hán già, đang ăn mà vì không có răng nên cứ nhai trệu trạo, ngài bèn cười chế giễu rằng: Ông ăn giống như trâu ăn cỏ! Do tội phí phạm lúa và phạm khẩu nghiệp giễu cợt vị A-la-hán ấy mà trải suốt 500 đời phải sinh làm thân trâu. Đến kiếp này, tuy ngài sinh trở lại làm người, nhưng tập quán loài trâu vẫn còn, dấu chân như trâu, giọng nói như trâu, nhất là miệng lúc nào cũng nhai lại như trâu; bởi vậy, ngài bị mọi người đàm tiếu, gọi là “Ngưu Tướng tì kheo”. Đức Phật thương xót, một phần không muốn ngài thường gặp người đời phải bị họ chê bai làm nhục, một phần không muốn người đời mang tội khinh mạn thánh tăng để phải đọa ác đạo, đức Phật đã cho ngài lên ở trong một khu vườn riêng biệt trên cung trời Đao-lợi để chuyên tu thiền định. Sau khi Phật diệt độ, tôn giả Đại Ca Diếp, khi tổ chức pháp hội kết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương-xá, có sai thị giả lên cung trời Đao-lợi thỉnh ngài về để dự hội kết tập. Lúc bấy giờ ngài mới biết tin đức Thế Tôn và tôn giả Xá Lợi Phất đã nhập diệt. Ngài than tiếc, rồi từ chối không chịu trở về; liền đó, ngài tự phóng lửa tam muội đốt nhục thân mà nhập diệt. Vị thị giả bèn thỉnh hết xá lợi của ngài đem về trình lên tôn giả Đại Ca Diếp.
(140) Tất Lăng Già Bà Ta: gọi tắt là Tất Lăng Già, dịch ý là “dư tập”, nghĩa là tập khí ngày xưa còn sót lại. Tôn giả vốn thuộc dòng Bà-la-môn, người ở thành Xá-vệ, ban đầu học được thuật ẩn thân (tàng hình), rất nổi tiếng; về sau gặp Phật thì thuật ẩn thân biến mất, bèn xin theo Phật xuất gia tu hành. Tôn giả vốn thuộc dòng Bà-la-môn từ 500 đời trước, tánh tình rất kiêu mạn, cho nên đời này, tuy đã thành một vị tì kheo đệ tử của Phật, mà cái tập khí kiêu mạn khi xưa vẫn còn, cho nên thường nói năng kênh kiệu, không kể người tôn quí. Tôn giả thường lội qua sông Hằng đi khất thực. Cứ mỗi lần qua sông thì gọi vị thần sông với giọng hách dịch: “Này tiểu tì kia, ngăn nước lại cho ta qua sông!” Vị thần sông phải làm theo lời tôn giả, nhưng trong lòng thì giận lắm, bèn đến tinh xá, đem chuyện ấy bẩm cáo lên Phật. Phật bảo tôn giả phải xin lỗi vị thần sông. Tôn giả bèn chắp tay hướng về vị thần, nói: “Tiểu tì đừng giận!” Mọi người đứng chung quanh cười ồ lên! Phật dạy đại chúng: Thật sự thì thầy Tất Lăng Già không có tâm kiêu mạn; nhân vì vị thần sông Hằng này trong kiếp quá khứ đã từng là tì nữ của thầy ấy, bây giờ cái tập quán kia còn sót lại, khiến thầy ấy nói năng không từ tốn mà thôi.
(141) Ba anh em Ca Diếp: tức ba vị đạo sĩ anh em ruột, cùng thờ thần Lửa, đạo cao đức trọng, có thanh danh lớn, rất được mọi người kính nể. Ba vị đều mở đạo tràng riêng để dạy dỗ đồ chúng: Người anh cả ở thôn Ưu-lâu-tần-loa, nên có tên là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, lãnh đạo 500 đồ chúng; người em kế ở núi Già-da (tức núi Tượng-đầu), nên có tên là Già-da Ca Diếp, lãnh đạo 250 đồ chúng; và người em út ở bờ sông Nan-đề, nên có tên là Nan Đề Ca Diếp, lãnh đạo 250 đồ chúng. Cả ba anh em đã được Phật độ rất sớm (chỉ sau năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như và nhóm thanh niên Da Xá), đều chứng quả A-la-hán.
Ở đây nói tôn giả Xá Lợi Phất đã gặp ba anh em tôn giả Ca Diếp ở giữa đường, nhờ được nghe giáo pháp “nhân duyên” từ tôn giả Ca Diếp mà ngộ đạo; nhưng các chỗ khác thì nói, tôn giả Xá Lợi Phất đã gặp tôn giả Mã Thắng (A Thị Thuyết) đang đi khất thực trong thành Vương-xá. Vì kính cảm phong thái oai nghi của tôn giả mà ngài đi theo hỏi chuyện, được tôn giả nói cho nghe giáo pháp “nhân duyên” mà tâm trí bừng sáng; bèn theo lời chỉ bảo của tôn giả, ngài tìm đến đức Phật xin xuất gia học đạo.
(142) Bồ Tát Phổ Hiền: là tên vị Bồ-tát lớn thường xuất hiện chung với Bồ Tát Văn Thù trong các kinh điển đại thừa. Vì thân tướng cùng công đức của ngài thuần thiện, biến khắp, cho nên gọi là Phổ Hiền. Trong khi ngài Văn Thù được tôn xưng là vị Bồ-tát “đại trí” thì ngài Phổ Hiền được tôn xưng là vị Bồ-tát “đại hạnh”. TRÍ là để giác ngộ thành Phật; HẠNH là để giáo hóa độ sinh. Vì tâm đại bi, ngài nguyện luôn luôn dùng mọi phương tiện để tuyên dương Phật pháp, hóa hiện mọi thân tướng để cứu độ chúng sinh, ủng hộ tất cả những ai hành trì và hoằng dương Phật pháp. Trong Kinh Hoa Nghiêm có ghi mười điều nguyện lớn của ngài, như: Nguyện thường cung kính lễ bái chư Phật; nguyện thường khen ngợi công đức của chư Phật; v.v... Và ngài có nói: “Nếu có người tin tưởng sâu xa vào mười điều nguyện lớn này, rồi thọ trì đọc tụng, biên chép, giảng nói cho mọi người, người đó sẽ được vãng sinh về nước Cực-lạc...” Bởi vậy, tông Tịnh Độ tôn kính ngài, cũng như Bồ Tát Văn Thù, là vị Bồ-tát đã góp công đức vào việc xiển dương pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh-độ. Ngài cùng với đức Bồ Tát Văn Thù, là hai vị hầu cận hai bên đức Thế Tôn. Đức Văn Thù cưỡi sư tử, ở bên trái Phật; đức Phổ Hiền cưỡi voi, ở bên phải Phật; đó là “Hoa Nghiêm Tam Thánh” (ba vị thánh của pháp hội Hoa Nghiêm).
(143) Tôn Đà La Nan Đà: Tôn giả Nan Đà nguyên là một vị hoàng tử, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (em ruột của hoàng hậu Ma Da), tức là em cùng cha khác mẹ của thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi thái tử đi xuất gia thành Phật, hoàng tử Nan Đà được kế lập làm thái tử để nối ngôi vua. Hoàng tử có người vợ sắp cưới tên là Tôn Đà La (hoặc Tôn Đà Lị). Triều đình Ca-tì-la-vệ đã chọn ngày để cùng lúc cử hành vừa lễ đăng quang thái tử, vừa lễ thành hôn cho Nan Đà; nhưng buổi sáng hôm ấy, trong khi Nan Đà đang chuẩn bị sẵn sàng cho buổi lễ, thì đức Phật xuất hiện ở hoàng cung, ngay trước mặt Nan Đà, dùng cách khéo léo dẫn Nan Đà đi xuất gia. Trong chúng có nhiều vị cùng tên Nan Đà, nên ở đây gắn thêm tên Tôn Đà La ở trước để phân biệt với các vị khác.
(144) Câu Hi La: Tôn giả quê ở thành Vương-xá, nguyên là cậu ruột của tôn giả Xá Lợi Phật. Tôn giả vốn là người thông minh bác đạt, rất giỏi về nghị luận, đầy đủ biện tài. Khi chưa xuất gia theo Phật, ông đã từng châu du tham học bốn phương, bác thông kinh điển Phệ Đà; sau đó về ở Nam Thiên-trúc, quyết tâm chuyên cần học hỏi, thề rằng, nếu không trở thành bậc thầy đệ nhất thiên hạ thì không bao giờ cắt móng tay. Bởi vậy, ông đã để móng tay mọc quá dài, được mọi người gọi tên là Trường Trảo Phạm Chí. Sau khi biết cháu ông là Xá Lợi Phật đã xuất gia theo Phật, ông liền đến Trúc-lâm xin diện kiến đức Phật. Sau một hồi nghị luận, ông bị đức Phật điều phục, bèn xin xuất gia làm đệ tử đức Phật, chứng quả A-la-hán, thông đạt lí lẽ “năm uẩn đều không”, nên cũng được gọi tên là Ngộ Không.
(145) Ưu Ba Li: Tôn giả Ưu Ba Li nguyên thuộc giai cấp hạ tiện, được tuyển vào hoàng cung Ca-tì-la-vệ, chuyên giữ việc cắt tóc cho các vương tử. Năm thứ ba sau ngày thành đạo, đức Phật về thăm hoàng cung, hóa độ cho cả triều đình qui y Phật pháp; trong dịp này, bảy vị vương tử trong hoàng tộc Thích-ca đã theo Phật xuất gia. Thấy các vương tử đi xuất gia, Ưu Ba Li cũng nhờ tôn giả Xá Lợi Phất giúp đỡ, dẫn đi xin Phật cho xuất gia; chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán. Tôn giả là người giữ gìn giới luật triệt để, lại có khả năng thông hiểu giới luật vượt trội đại chúng, nên được xưng tụng là người trì luật đứng đầu tăng đoàn.
(146) Ưu Ba Li theo Phật vượt thành xuất gia: Đây là một truyền thuyết khác nói về trường hợp đi xuất gia của tôn giả Ưu Ba Li. Truyền thuyết này nói rằng: Ưu Ba Li vốn là một viên quan hầu cận riêng biệt cho thái tử Tất Đạt Đa. Khi thái tử vượt thành xuất gia thì Ưu Ba Li bị kết tội và mất chức, liền theo thái tử đi xuất gia. Khi vua Tịnh Phạn biết được thái tử đã nhất định đi xuất gia, nhà vua đã phái nhóm năm vị đạo sĩ Kiều Trần Như cùng theo làm bạn tu chung với thái tử. Vì Ưu Ba Li tự ý theo thái tử xuất gia, không phải do vua sai phái, nên không được kể chung vào nhóm đạo sĩ Kiều Trần Như.
(147) Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh: “Oai nghi” là tác phong nghiêm chỉnh, đứng đắn, từ tốn; những hoạt động thường ngày như đi, đứng, ngồi, nằm đều theo phép tắc, luôn luôn tỏ rõ là người có đầy đủ uy đức.“Tế hạnh” cũng tức là oai nghi. Trong các kinh luật thường nói chư vị tì kheo phải giữ gìn đến ba ngàn oai nghi và tám muôn tế hạnh. Con số “3.000” hay “80.000” này là có ý chỉ cho số nhiều, nhưng các nhà giải thích pháp số cũng đã đưa chúng vào thành những danh mục pháp số để giải thích hợp lí. Một vị tì kheo phải giữ 250 giới; oai nghi được thể hiện qua 4 loại hành động thường ngày là đi, đứng, ngồi, nằm –gọi là bốn oai nghi; mỗi một oai nghi này đều phải phù hợp với 250 giới, vậy là, 4 oai nghi ấy bây giờ thành ra (250 x 4 =) 1.000 oai nghi; và trong cả 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, thời nào cũng phải giữ gìn đầy đủ 1.000 oai nghi như vậy, cộng lại tất cả là “3.000 oai nghi”. Lại đem áp dụng 3.000 oai nghi này cho 7 hành động của thân và khẩu (sát, đạo, dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ), thành ra có cả thảy (3.000 x 7) là 21.000 tế hạnh; lại nữa, 4 loại phiền não độc hại là tham, sân, si và đẳng phần (tức là tham, sân, si cùng hiện khởi một lúc), mỗi loại phải dùng đầy đủ 21.000 tế hạnh mới chuyển hóa tận gốc, cho nên một vị tì kheo phải tu tập tất cả là (21.000 x 4 =) 84.000 tế hạnh –nói tròn con số là “tám muôn tế hạnh”.
(148) Tánh nghiệp, già nghiệp: Những hành động vốn ác từ thể tánh, không cần phải chế giới luật, hễ phạm phải thì liền thành nghiệp ác, như sát, đạo, dâm, vọng, gọi là tánh nghiệp. Những hành động vốn không có tánh ác, nhưng nếu không khéo léo thì có thể dẫn tới làm ác, như uống rượu, ăn các thứ hôi tanh, đào đất, v.v..., gọi là già nghiệp.
(149) Ở kinh này thì nói tôn giả Xá Lợi Phất và tôn giả Mục Kiền Liên đều nhân gặp ba anh em tôn giả Ca Diếp trên đường đi khất thực mà được nghe pháp và tỏ ngộ đạo lí; nhưng ở nhiều tài liệu khác thì nói hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vốn là hai vị đạo sĩ Bà-la-môn, bạn thân của nhau, ở cùng chỗ, cùng nhiếp lãnh một đạo tràng có 200 đồ chúng. Vì không thỏa mãn với những tri kiến sở đắc hiện tại, nên cả hai ngài đều bảo nhau để tâm tìm một vị minh sư khác để học hỏi thêm. Một hôm đang đi trên một con đường trong thành Vương-xá, ngài Xá Lợi Phất bỗng gặp được tôn giả A Thị Thuyết đang đi khất thực; và qua vị tôn giả này, ngài Xá Lợi Phất đã được nghe về giáo pháp “nhân duyên sinh” của đức Phật. Vừa nghe xong bài pháp, ngài liền tỏ ngộ. Ngài vô cùng mừng rỡ, liền mau mau trở về nói chuyện cho ngài Mục Kiền Liên nghe. Ngài Mục Kiền Liên vừa nghe được bài pháp “nhân duyên sinh” do ngài Xá Lợi Phất thuật lại, tâm liền bừng sáng; cho nên cả hai ngài cùng quyết định tìm đến tinh xá Trúc-lâm để xin xuất gia theo Phật. Chẳng bao lâu, cả hai ngài đều chứng quả A-la-hán, và trở thành hai vị đệ tử thượng thủ của đức Phật.
(150) Ô Sô Sắt Ma: dịch ra Hán ngữ là Hỏa Đầu, là một vị kim cang lực sĩ ủng hộ Phật pháp.
(151) Phật Không Vương: Đức Phật này, do chứng đệ nhất nghĩa không mà thành Phật, nên có danh hiệu như vậy. Trong Kinh Pháp Hoa đức Phật có dạy: “Như Lai cùng với A Nan đã cùng phát tâm tu hành dưới thời đức Phật Không Vương...” Vậy thì tôn giả A Sô Sắt Ma ở đây (xem chú thích số 150 kế trên) cũng từng là bạn đồng tu của đức Phật Thích Ca và tôn giả A Nan vào thời đó; nay vì trợ giáo cho đức Thích Ca mà tôn giả hiện thân là vị kim cang lực sĩ, gọi là Hỏa Đầu Kim Cang.
(152) Phật Phổ Quang: Thân và trí đều sáng chói, chiếu soi khắp thế gian, gọi là “Phổ Quang”; đó là danh hiệu khác của đức Phật Nhiên Đăng. Kinh Tu Hành Bản Khởi chép rằng: Vào đời quá khứ, ở vương quốc Đề-hòa-vệ có vị thánh vương trị vì, tên là Đăng Thạnh. Trước khi lâm chung, thánh vương truyền ngôi cho thái tử Định Quang. Thái tử thấy mọi việc ở đời đều là vô thường, bèn nhường ngôi lại cho người em, rồi đi xuất gia làm sa môn; sau thành Phật, hiệu là Định Quang Như Lai. Lúc bấy giờ có vị phạm chí tên Nho Đồng, gặp đức Phật Định Quang đi du hóa, bèn khởi lòng kính ngưỡng, mua hoa cúng dường, được Phật thọ kí trong đời vị lai sẽ thành Phật. Đức Định Quang Như Lai thuở đó tức là đức Phật Nhiên Đăng; còn phạm chí Nho Đồng là tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(153) Phật Tì Xá Phù: Đây là đức Phật cuối cùng của một ngàn đức Phật ra đời trong kiếp Trang-nghiêm (quá khứ).
(154) Bồ Tát Nguyệt Quang: tức Nguyệt Quang đồng tử, con trai của trưởng giả Thân Nhật ở thành Vương-xá thời Phật tại thế. Trưởng giả Thân Nhật sùng tín ngoại đạo, nghe lời xúi giục của họ, làm một cái hầm lửa lớn ngay lối đi vào nhà ông, rồi thỉnh Phật và tăng chúng đến nhà để cúng dường trai tăng, mục đích là ám hại Phật. Nguyệt Quang đồng tử hết lời can gián, nhưng ông không nghe. Cuối cùng, khi đức Phật đến nơi thì hầm lửa biến thành ao sen trong mát. Ông trưởng giả quá kinh sợ, bèn xin qui y theo Phật, từ bỏ ngoại đạo, nghe Phật thuyết pháp, chứng quả Tu-đà-hoàn.
(155) Tôn giả Xá Lợi Phất bị ác quỉ đập đầu. Một hôm, tôn giả Xá Lợi Phất ngồi trong hang núi Kì-xà, nhập Kim-cang định. Lúc bấy giờ có hai con quỉ đi qua trên không: con quỉ dữ tên là Phục Hại, con quỉ hiền tên là Vi Hại. Quỉ Phục Hại (dữ) nói với quỉ Vi Hại (hiền) rằng: “Ta muốn đập trên đầu ông sa môn này.” Quỉ Vi Hại liền ngăn cản, bảo không nên khởi ý ác đối với vị sa môn. Quỉ Phục Hại không nghe lời khuyên, quỉ Vi Hại liền bỏ đi. Quỉ Phục Hại bèn dùng nắm tay đánh trên đầu tôn giả Xá Lợi Phất. Sau đó tôn giả xuất định, cảm thấy đầu bị đau nhức, liền đến trước đức Phật, bạch rằng: “Thân thể con vốn không bệnh hoạn gì, tại sao đầu con lại đau nhức?” Phật dạy: “Trong lúc thầy nhập định, con ác quỉ Phục Hại đã dùng nắm tay đánh trên đầu thầy. Con quỉ này sức mạnh vô cùng, nếu nó đập núi Tu-di thì núi cũng bị bể đôi. Nếu thầy không nhờ có Kim-cang tam- muội hộ vệ thì thân thầy đã nát nhừ. Hiện con quỉ ấy đã thọ khổ báo ở địa ngục A-tì.”
(156) Phật Định Quang: tức Phật Nhiên Đăng (xem lại chú thích số 152 ở trên).
(157) Bồ Tát Di Lặc: Ngài vốn sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở miền Nam Thiên-trúc, sau xuất gia làm đệ tử Phật, và nhập diệt trước Phật. Sau khi nhập diệt, Ngài sinh lên Nội-viện cõi trời Đâu-suất, trở thành vị Bồ-tát “nhất sinh bổ xứ”; vì Ngài từng được đức Thế Tôn thọ kí, trong tương lai, vào tiểu kiếp thứ 10 của trung kiếp Trụ, khi tuổi thọ con người giảm đến tám vạn tuổi (từ tám vạn bốn ngàn tuổi), ngài sẽ hạ sinh trong nhân gian để thành Phật, nối tiếp pháp vận của Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, Ngài cũng được tôn xưng là Phật Di Lặc.
(158) Bồ Tát Đại Thế Chí: Âm tiếng Phạn là Ma Ha Ta Thái Ma Bát La Bát Đa, dịch ý là “đắc đại thế”, hay “đại tinh tấn”, tức là Bồ Tát Đại Thế Chí. Ngài cùng với Bồ Tát Quán Thế Âm là hai vị cận sự luôn luôn ở hai bên tả hữu của đức Phật A Di Đà – cả ba Ngài được gọi chung là “Tây Phương Tam Thánh”. Bồ Tát Đại Thế Chí dùng trí tuệ chiếu soi cùng khắp, khiến cho chúng sinh xa lìa ba đường dữ, được sức vô thượng. Trong lúc ngài thực hiện hạnh nguyện ấy, cõi đất ở khắp thế giới mười phương đều chấn động, cho nên gọi ngài là Đại Thế Chí. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Khi còn tu nhân, Bồ Tát Đại Thế Chí đã dùng tâm niệm Phật mà nhập vào vô sinh nhẫn; cho nên, hôm nay ngài có thể giúp cho những người niệm Phật ở thế giới Ta-bà được về cõi Tịnh-độ. Kinh Bi Hoa còn nói: Sau khi đức Phật A Di Đà nhập diệt, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật và thay thế vào địa vị của Phật A Di Đà; sau khi đức Quán Thế Âm nhập diệt, Bồ Tát Đại Thế Chí sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, thay thế đức Quán Thế Âm mà nhiếp hóa chúng sinh.
(159) Phật Vô Lượng Quang: tức Phật A Di Đà, nhưng đây không phải là đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực-lạc (mới thành Phật cách nay 10 kiếp – theo Kinh A Di Đà). Đức Phật Vô Lượng Quang nói ở đây đã thành Phật từ hằng sa kiếp về trước. Chư Phật trùng tên là chuyện thường.
(160) Danh hiệu 12 đức Phật: Theo Kinh Đại Di Đà, danh hiệu của 12 đức Phật này như sau:
1. Phật Vô Lượng Quang: trí tuệ chân thật chiếu soi chân lí không hạn lượng.
2. Phật Vô Biên Quang: trí tuệ quyền xảo chiếu soi sự tướng không ngằn mé.
3. Phật Vô Ngại Quang: ánh sáng đại từ ban vui cho chúng sinh không bị chướng ngại.
4. Phật Vô Đối Quang: ánh sáng đại bi cứu khổ chúng sinh không ai bì kịp được.
5. Phật Diệm Vương Quang: ánh sáng ứng hóa khắp nơi một cách tự tại.
6. Phật Thanh Tịnh Quang: cấu nhiễm hoàn toàn dứt sạch, chỉ thuần ánh sáng thanh tịnh.
7. Phật Hoan Hỉ Quang: cho chúng sinh thọ dụng, tâm sinh đại hoan hỉ.
8. Phật Trí Tuệ Quang: dùng ánh sáng trí tuệ phá trừ mọi lậu hoặc.
9. Phật Bất Đoạn Quang: ánh sáng từ thân phóng chiếu thường xuyên không dứt.
10. Phật Nan Tư Quang: ánh sáng vi diệu vô tận, khó có thể nghĩ bàn.
11. Phật Vô Xưng Quang: ánh sáng đầy đủ mọi công đức, không thể xưng tán cho cùng.
12. Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang: ánh sáng chiếu soi khắp nơi, cả những chỗ u tối nhất, ánh sáng mặt trời mặt trăng cũng không sánh bằng được.
(161) Bồ Tát Quán Thế Âm: tức là Bồ Tát Quán Tự Tại; tiếng Phạn là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A Phược Lô Chỉ Đê Thấp Phạt La. Với tâm đại bi, ngài dùng tính nghe viên thông để nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh đau khổ mà thị hiện cứu độ, cho nên gọi là Quán Thế Âm. Ngài có phát 12 lời nguyện lớn trong việc độ sinh, như: Tôi nguyện có mặt thường xuyên tại biển khơi và một lòng thương nghĩ đến chúng sinh đang đau khổ, không có một trở ngại nào ngăn cản tôi được; Tôi nguyện có mặt ở mọi nơi và mọi hoàn cảnh đen tối trong thế giới khổ đau, tức khắc tìm đến chỗ nào có tiếng kêu cứu để giúp đỡ; Tôi nguyện chèo con thuyền Phật pháp dạo cùng khắp vùng biển khổ đau để cứu độ chúng sinh, cho đến khi kẻ đau khổ cuối cùng được an lạc, giải thoát; v.v... Trong Kinh Đại Bi có ghi lời Phật dạy rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã thành Phật từ kiếp xa xưa, có danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì lòng đại bi, muốn thành tựu đạo nghiệp cho tất cả chúng sinh, muốn cho chúng sinh được an vui, ngài đã thị hiện làm thân Bồ-tát...” Trong Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Kí có nói: Trong vô lượng kiếp sau, đức Phật A Di Đà sẽ nhập niết bàn. Sau đó, đức Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, thay thế Phật A Di Đà nhiếp hóa chúng sinh. Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát lớn, cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí, là hai vị hầu cận và trợ thủ đắc lực nhất của đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn chúng sinh về cõi Cực-lạc. Bởi vậy, tông Tịnh Độ đã tôn xưng đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí là “Tây Phương Tam Thánh”.
(162) Hữu-học: Đối lại với bậc Vô-học là bậc Hữu-học. Đệ tử Phật, tuy đã hiểu biết Phật pháp, nhưng phiền não chưa trừ, cho nên còn phải gắng công tu học các pháp giới, định, tuệ, v.v... để đoạn trừ phiền não, chứng quả lậu tận. Vì còn có pháp môn để tu học và còn phải nỗ lực tu học, cho nên gọi là “hữu học”. Các hành giả chứng nhập bốn hướng bốn quả của Thanh-văn thừa đều đã là thánh nhân, nhưng ở bốn hướng và ba quả đầu vẫn còn là bậc Hữu-học; chỉ có quả A-la-hán mới là bậc Vô-học. Theo kinh Trung A Hàm, bậc Hữu-học có mười tám hạng: 1) Hạng Tùy-tín-hành: chỉ cho các hành giả độn căn ở bậc Kiến-đạo của thừa Thanh-văn. Quí vị này nương vào người khác để được nghe giáo pháp của Phật, nhờ đó mà sinh lòng tin; do có lòng tin mà tu hành.2) Hạng Tùy-pháp-hành: chỉ cho các hành giả lợi căn ở bậc Kiến-đạo của thừa Thanh-văn. Quí vị này tự mình phát huy trí tuệ, xem kinh giáo, suy nghĩ chín chắn, rồi y theo nghĩa lí mà tu hành. 3) Hạng Tín-giải: “Tín giải” nghĩa là nhờ vào lòng tin thù thắng mà có được trí hiểu biết thù thắng. Đây là các hành giả độn căn ở bậc Kiến-đạo, sau khi viên mãn Tùy-tín-hành thì bước lên bậc Tu-đạo, gọi là “Tín-giải”. 4) Hạng Kiến-chí: cũng gọi là “Kiến-đáo”, nghĩa là do trí tuệ thù thắng mà chứng đạt chân lí. Đây là các hành giả lợi căn ở bậc Kiến-đạo, sau khi viên mãn Tùy-pháp-hành thì bước lên bậc Tu-đạo, gọi là “Kiến-chí”. 5) Hạng Gia-gia: Ở quả vị Nhất-lai (Tư-đà-hàm), khi hành giả chưa chứng quả thì gọi là “Nhất-lai-hướng” (đang hướng đến quả Nhất-lai). Hành giả ở giai đoạn Nhất-lai-hướng này, vì chỉ mới đoạn trừ được ba hay bốn phẩm tư hoặc đầu (của chín phẩm) của Dục giới, nên còn phải sinh đi sinh lại nhiều lần từ cõi người lên cõi trời, và từ cõi trời xuống cõi người, để tu tập cho đến khi chứng quả Vô-sinh (A-la-hán). Bởi vậy, các hành giả này được gọi là “gia-gia” (có nghĩa là từ nhà này sang nhà khác – tức là từ nhà người lên nhà trời, và từ nhà trời xuống nhà người). 6) Hạng Nhất-gián: Hành giả đã chứng đắc quả Nhất-lai, tiếp tục tu tập để đoạn trừ nốt ba phẩm tư hoặc cuối cùng của Dục giới để chứng đạt quả Bất-hoàn (A-na-hàm); khi đang tu tập thì gọi là “Bất-hoàn-hướng” (đang hướng đến quả Bất-hoàn). Trong giai đoạn này, khi hành giả đã đoạn trừ được bảy hay tám phẩm tư hoặc (trong chín phẩm), thì còn một hay hai phẩm nữa phải đoạn trừ. Để hoàn tất viên mãn giai đoạn này, hành giả phải thọ sinh trở lại trong một cõi trời Dục giới để tu tập, cho nên gọi là “Nhất-gián”. (Chữ “gián” nghĩa là gián cách; tức là phải cách một đời mới chứng quả.) 7) Hạng Thân-chứng: Khi chứng đắc quả Bất-hoàn, hành giả nhập vào diệt tận định mà thân chứng được pháp lạc tịch tịnh giống như niết bàn. 8) Hạng Dự-lưu-hướng: Hành giả đã vượt khỏi địa vị phàm phu, tiến vào bậc Kiến-đạo, đang tu tập để tiến đến chứng quả Dự-lưu (Tu-đà-hoàn). 9) Hạng Dự-lưu-quả: Hành giả đã chứng quả Dự-lưu – cũng gọi là “Sơ-quả”. 10) Hạng Nhất-lai-hướng: Hành giả đã chứng quả Dự-lưu, đang tu tập để hướng đến quả Nhất-lai. 11) Hạng Nhất-lai-quả: Hành giả đã chứng đắc quả Nhất-lai. 12) Hạng Bất-hoàn-hướng: Hành giả đã chứng quả Nhất-lai, đang tu tập để tiến đến quả Bất-hoàn. 13) Hạng Bất-hoàn-quả:Hành giả đã chứng đắc quả Bất-hoàn. 14) Hạng Trung-bát: “Trung” là chỉ cho thân “trung hữu”, hay “trung ấm”; “bát” tức là nhập niết bàn. Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn, khi viên tịch ở cõi Dục liền sinh lên cõi Sắc; tại đây, thân trung hữu của hành giả liền nhập niết bàn, cho nên gọi là “Trung-bát”. 15) Hạng Sinh-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, sau đó không lâu thì phát khởi thánh đạo, đoạn trừ các hoặc của cõi Vô-sắc mà nhập niết bàn, gọi là “Sinh-bát”. 16) Hạng Hữu-hành-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, rồi phải trải qua một thời gian dài gắng công tu tập thêm, mới nhập niết bàn, gọi là “Hữu-hành-bát”.17) Hạng Vô-hành-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc, nhưng không gắng công tu tập thêm, lần lữa trải qua thời gian rồi nhập niết bàn, gọi là “Vô-hành-bát”. 18) Hạng Thượng-lưu-bát: Hành giả đã chứng quả Bất-hoàn và sinh lên cõi Sắc; trước tiên sinh vào cõi trời Sơ-thiền, sau đó dần dần sinh lên các cõi trời cao hơn của cõi Sắc, cuối cùng, đến cõi Sắc-cứu-cánh (hoặc Hữu-đỉnh) thì nhập niết bàn, gọi là “Thượng-lưu-bát”.
(163) Độc-giác: Tiếng Phạn “Bích-chi-ca Phật-đà”, gọi giản lược là “Bích-chi Phật”, cựu dịch là Duyên-giác, tân dịch là Độc-giác. Nhưng theo giáo nghĩa tông Thiên Thai thì Duyên-giác và Độc-giác có chỗ khác nhau:
- Một loại hành giả nghe Phật dạy nguyên lí mười hai nhân duyên, tu theo đó mà giác ngộ, chứng quả Bích-chi Phật, gọi là “DUYÊN-GIÁC”.
- Một loại hành giả khác, sinh vào thời không có Phật cho nên không có cách nào được nghe pháp, nhưng nhờ có sức tu học từ đời trước, ở trong cảnh diễn biến sinh diệt của vạn pháp mà có thể thấy rõ tính chất vô thường của thế gian, nhân đó mà diệt trừ được tâm thức vô minh; hoặc giả họ ở trong chốn núi rừng, trông thấy cảnh hoa rơi lá rụng, rồi do một niệm tương ưng với trí tuệ mà màn vô minh bỗng chốc bị phá tan, chứng quả Bích-chi Phật; cả hai trường hợp này đều gọi là “ĐỘC-GIÁC”. (Xem thêm chú thích số 7 ở trước.)
(164) Mười hai nhân duyên (thập nhị nhân duyên): 12 nhân duyên là mười hai điều kiện tương liên, là đạo lí căn bản của đạo Phật dùng để giải thích cái “bí ẩn” của hiện tượng sinh tử luân hồi, tức là sự hiện hữu của chúng sinh –mà trực tiếp là con người. Mười hai điều kiện ấy gồm có:
1. Vô minh: là trạng thái vô ý thức, mù quáng, mê lầm, không sáng suốt, không nhận chân được thực tướng của vạn pháp, không thấy rõ được tự tính của chính mình, do đó mà dẫn tới những hành động u tối, sai lầm.
2. Hành: là tác động vô thức của ý chí sinh tồn theo hướng vô minh đã thúc đẩy tạo nghiệp. Nó là khát vọng muốn sống một cách mù quáng. Tất cả những tư tưởng (ý), lời nói (khẩu) và việc làm (thân) thiện hay bất thiện đều nằm trong hành.
3. Thức: Tất cả nghiệp nhân đã tạo ra đều được huân tập vào nghiệp chủng thức (hay nghiệp thức, tức là a-lại-da thức). Thức này đi đầu thai và bắt đầu một sinh mạng mới. Lúc bà mẹ thụ thai, chính đó là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh huyết của cha mẹ mà làm nên bào thai. Như vậy, thức chính là yếu tố nối tiếp giữa kiếp quá khứ và kiếp hiện tại, và là giai đoạn đầu tiên của đời sống hiện tại.
4. Danh sắc: Do nghiệp thức phát động mà phát hiện ra các hiện tượng tinh thần (danh) và vật chất (sắc) của bản thân con người. Đây là giai đoạn thứ hai của đời sống hiện tại. Bản thân con người là một “hợp thể ngũ uẩn”, trong đó, bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chỉ có tên gọi mà không có hình chất, không thể thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm xúc được, nên gọi là danh; còn uẩn sắc tức là phần sinh lí của bản thân, do bốn nguyên tố(tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong) cấu thành, có hình chất, màu sắc, mùi, vị, có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc được, nên gọi là sắc. Trong giây phút đầu tiên khi bà mẹ thụ thai – tức là lúc nghiệp thức kết hợp với tinh huyết của cha mẹ, thì danh chính là nghiệp thức, và sắc chính là tinh huyết. Vậy, nếu hành và thức là hai yếu tố thuộc về hai kiếp quá khứ (hành) và hiện tại (thức) của một chúng sinh, thì thức và danh sắc, trái lại, được xuất hiện cùng lúc trong kiếp hiện tại của chúng sinh đó.
5. Lục nhập: sáu giác quan (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) dần dần hiện rõ theo sự phát triển của bào thai, từ chỗ thật giản dị lúc mới được tượng hình, trở thành vô cùng phức tạp khi con người đã trưởng thành toàn diện. Chúng hoạt động một cách hoàn toàn tự nhiên, mầu nhiệm, như một guồng máy tinh diệu. Mỗi giác quan đều có những hoạt động và đối tượng riêng biệt. Sáu giác quan là sáu chỗ để cho sáu đối tượng (lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phản ảnh vào, gọi chung là “lục nhập”.
6. Xúc: Sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng của chúng, như mắt thấy cảnh vật, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi v.v...
7. Thọ: Cảm giác gây nên do sự tiếp xúc giữa các giác quan và đối tượng. Có loại cảm giác dễ chịu, vui sướng, hạnh phúc, gọi là “lạc thọ”; có loại cảm giác khó chịu, buồn phiền, khổ đau, gọi là “khổ thọ”; có loại cảm giác trung tính, không khó chịu cũng không dễ chịu, gọi là “xả thọ”.
8. Ái: “Ái” hay “ái dục” là sự ham muốn, khao khát, luyến ái. Do có cảm giác mà sinh ra ái. Đối trước dục vọng trần cảnh (ngũ dục), con người sinh tâm luyến ái. Nếu nói cho chính xác hơn, “ái” chính là sự luyến ái đối với sự sống. Vì vậy, cái gì làm cho ta vui thích thì ta khao khát, muốn có cho bằng được; còn cái gì làm cho ta buồn khổ thì ta chỉ muốn tránh xa, hay hủy diệt nó đi; đó là động cơ chính yếu thúc đẩy thân, miệng, ý tạo nghiệp.
9. Thủ: Khi đã luyến ái thì cố bám giữ lấy đối tượng; hay nói rõ hơn, vì luyến ái sự sống cho nên phải bám giữ lấy sự sống –và từ đó mà phát sinh ra những tư tưởng sai lầm là có “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI”. Mục đích của mọi hành động trong ba lĩnh vực ý, thân và miệng, dù là thiện hay bất thiện, cũng đều để bảo vệ và củng cố cho cái “TÔI và những gì THUỘC VỀ TÔI” ấy.
10. Hữu: Vì đam mê và cố bám giữ lấy đối tượng cho nên phải vướng mắc vào nghiệp báo do sự sống của chính mình tạo ra. “Hữu” nghĩa là có –có những nghiệp nhân (thiện hay bất thiện) đã tạo ra ở kiếp này, và dĩ nhiên, có những nghiệp quả (vui sướng hay khổ đau, cũng tức là những cảnh giới của các loài chúng sinh khác nhau) sẽ thọ nhận ở kiếp sau.
11. Sinh: Nghiệp đã tạo (hữu) ấy lại được huân tập vào chủng tử thức (a-lại-da), và chính là dẫn lực đưa tới việc ra đời của sinh mạng mới.
12. Lão tử: Khi đã có sinh ra thì tất nhiên lại phải có già và chết.
12 nhân duyên, như vừa thấy, đã trình bày một chuỗi nhân quả kéo dài suốt qua ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do vô minh và hành nghiệp ở từ quá khứ cho nên đã có đời sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, và những nhân duyên này cũng chính lại là vô minh, làm cho ái, thủ lại tiếp tục tạo nghiệp –tức là hữu. Chính sức mạnh của hữu (nghiệp) đã tạo ra trong cuộc sống hiện tại ấy sẽ là nguyên nhân đưa đến một đời sống mới (sinh và lão tử) ở đời vị lai. Cứ thế, quá khứ làm nguyên nhân cho hiện tại, hiện tại làm nguyên nhân cho vị lai; hiện tại lại trở thành quá khứ, vị lai lại trở thành hiện tại để rồi lại đưa đến một vị lai khác..., vòng luân hồi tiếp diễn không ngừng.
12 nhân duyên chính là nội dung của giáo lí “Duyên Khởi”, giáo lí căn bản nhất của Phật giáo. Mười hai nhân duyên là mười hai điều kiện cùng nương nhau mà hiện hữu, cùng nối kết mật thiết với nhau, cùng là nhân và là quả của nhau, để tạo thành vòng sinh tử luân hồi. Vòng (hay bánh xe) luân hồi là một vòng tròn không có khởi điểm. Mười hai nhân duyên là mười hai cái khoen của vòng tròn đó, mà không có cái khoen nào là khoen bắt đầu. Bất cứ một nhân duyên nào trong số ấy cũng không thể có một bản chất và sự hiện hữu riêng biệt và độc lập. Vô minh chẳng hạn, không phải chỉ là điều kiện sinh ra hành, mà nó còn có mặt trong hành cũng như trongtất cả các điều kiện khác. Lại nữa, vô minh chỉ là một điều kiện như mười một điều kiện còn lại; tuy nó được đặt ở khoen đầu tiên, nhưng đó chỉ là theo thói quen thông thường, chứ không phải vì nó là nguyên nhân đầu tiên để sinh ra các điều kiện khác. Lí do dễ hiểu, vì đã là nguyên nhân đầu tiên rồi thì nó không còn là một nhân duyên nữa. – Hai ý niệm “nhân duyên” và “nguyên nhân đầu tiên” hoàn toàn chống trái nhau. Phật giáo không bao giờ chấp nhận có một nguyên nhân đầu tiên. Ta chỉ có thể tạm cho rằng, vô minh là điều kiện bao trùm đối với các điều kiện khác, vì chính thực, có vô minh mới có sinh tử luân hồi, nếu diệt được nó thì sinh tử luân hồi cũng không còn. Hơn nữa, các nhân duyên khác như lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ v.v... cũng chính là vô minh, và cũng chính là chất liệu để tạo ra vòng sinh tử luân hồi; nếu một trong các nhân duyên ấy bị diệt thì cái vòng luân hồi tức khắc đứt tung. Cũng vậy, a-lại-da (tức là thức) chính là bản thể của vạn hữu, nhưng không vì thế mà bảo nó là nguyên nhân đầu tiên để từ đó sinh ra những cái khác; bởi vì, a-lại-da là bản thể của vạn hữu ở trạng thái vô minh ô nhiễm, nếu nó đã là nguyên nhân đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ có trí tuệ, và do đó, chẳng bao giờ có thể có chân như; kì thực, chân như (hay đại viên cảnh trí) và a-lại-da thức chỉ là hai trạng thái (thanh tịnh và ô nhiễm, hay mê và ngộ) của bản thân vạn pháp. Cho nên, dù là chân như, dù là thức, hay là gì gì đi nữa, thì cũng không có cái gì gọi là nguyên nhân đầu tiên, không có gì hiện hữu độc lập, mà tất cả đều là nhân duyên của nhau, nương vào nhau mà sinh thành, tồn tại và hủy diệt.
(165) Duyên-giác. (Xem chú thích số 7 và số 163 ở trước.)
(166) Tứ Đế không: Các hành giả Thanh-văn thừa ở địa vị Kiến-đạo, dùng trí tuệ vô lậu đoạn diệt hết kiến hoặc về Tứ Đế trong ba cõi, gọi là thể hội được “Tứ Đế không”, chứng quả Tu-đà-hoàn.
(167) Địa vị Tu-đạo: Đây là địa vị Tu-đạo trong tiến trình tu chứng của Thanh-văn thừa. Sau khi chứng quả Tu-đà-hoàn (Sơ-quả), hành giả tiếp tục tu tập để dứt trừ tư-hoặc trong ba cõi, lần lượt tiến lên từ bậc Tư-đàm-hàm-hướng, Tư-đà-hàm-quả, A-na-hàm-hướng, A-na-hàm-quả, cho đến A-la-hán-hướng; đó là thời gian của địa vịTu-đạo. Cuối cùng, khi chứng A-la-hán-quả, thì đó là địa vị Vô-học.
(168) Trạch diệt vô vi: Dùng trí vô lậu dứt trừ hết sự trói buộc của tư hoặc ba cõi, đạt cảnh giới niết bàn giải thoát, gọi là “trạch diệt vô vi”. Tư hoặc được phân chia nhiều phần, từ thô trọng đến vi tế; cứ mỗi lần diệt được một phần tư hoặc thì chứng nhập được một phần vô vi, cho nên ở đây nói “chứng nhập từng phần trạch diệt vô vi”.
(169) Thanh-văn: Các vị đệ tử Phật nghe thanh giáo của Phật dạy pháp Tứ Đế mà tỏ ngộ chân lí, dứt kiến tư hoặc trong ba cõi, chứng thánh quả A-la-hán và nhập niết bàn.
(170) Phạm Vương: tức Đại Phạm Thiên Vương, vua của cõi trời Sơ-thiền, Sắc-giới. Chư thiên ở các cõi trời Sắc-giới cũng được gọi chung là Phạm Thiên. Chữ “phạm” có nghĩa là thanh tịnh, trực tiếp chỉ cho đời sống đã dứt lìa hẳn sự dâm dục (cả thân lẫn tâm). Chúng sinh ở cõi Dục tu hành “phạm hạnh”, dứt hẳn ngũ dục, thân tâm thanh tịnh, đó là cái nhân để sinh lên các cõi trời Sắc-giới. Vì không còn đời sống ngũ dục, nên ở Sắc-giới không có “thai sinh”; chúng sinh sinh về đó hoàn toàn bằng “hóa sinh”, thân tướng trang nghiêm thanh tịnh, thoát khỏi mọi nhiễm ô của Dục-giới.
(171) Thiên Chủ: tức là vị trời chúa tể, ở đây là chỉ cho trời Đế Thích, thống lĩnh tất cả thiên chúng ở hai cõi trời thấp nhất của sáu cõi trời Dục-giới, là trời Đao-lợi và trời Tứ-vương.
(172) Đế Thích: cũng gọi là Thích Đề Hoàn Nhân, là tên vị thiên chủ vừa nói ở chú thích số 171 trên. Trong sáu tầng trời cõi Dục (lục Dục thiên), thì trời Tứ-vương là thấp nhất, nằm ở lưng chừng núi Tu-di; kế tiếp lên trên là trời Đao-lợi, nằm ở đỉnh núi Tu-di. Vua trời Đế Thích ngự ở thành Thiện-kiến (trung tâm của cõi trời Đao-lợi), thống lãnh toàn thể thiên chúng không những ở cõi trời Đao-lợi, mà còn gồm cả thiên chúng ở cõi trời Tứ-vương.
(173) Trời Tự Tại: tức chư thiên cõi trời Tha-hóa-tự-tại, là tầng trời cao nhất của Dục-giới, có phước báo thù thắng nhất trong sáu tầng trời Dục-giới.
(174) Trời Đại Tự Tại: cũng gọi là trời Ma Hê Thủ La, là vị trời được đạo Bà-la-môn tôn phụng là chúa tể của vạn vật, cư ngụ ỡ cõi trời tột đỉnh của Sắc-giới, hưởng phước báo thù thắng ở thế gian. Khi được sát nhập vào Phật giáo, vị trời này đã trở thành một vị ủng hộ Phật pháp có nhiều uy lực.
(175) Thiên đại tướng quân: Đây là chỉ cho các vị đại tướng quân ở cõi trời Tứ-vương, thống lãnh các bộ chúng, tuần du khắp các quốc độ thế gian để cứu hộ.
(176) Trời Tứ-vương: (Xem lại chú thích số 69 ở trước.)
(177) Vua cõi người: Vua của loài người gồm có 5 bậc:
1. Kim Luân vương, tức Chuyển-luân thánh vương, có đầy đủ 32 tướng tốt (nhưng không sáng rỡ, mĩ diệu bằng thân Phật), phước báo chỉ dưới chư thiên, thống lãnh cả bốn châu thiên hạ (Bắc Câu-lư, Đông Thắng-thân, Nam Thiệm-bộ, Tây Ngưu-hóa), dùng mười điều lành để hóa trị loài người. Khi vị này lên ngôi vua, tự nhiên có bánh xe báu bằng vàng (kim luân bảo) từ trên không trung bay xuống trước mặt. Ông cỡi bánh xe vàng này và trở thành bậc lãnh đạo tối cao của loài người. Chuyển-luân thánh vương gồm có bốn bậc (Kim Luân vương, Ngân Luân vương, Đồng Luân vương và Thiết Luân vương), mà Kim Luân vương này là vị Luân vương tối cao.
2. Ngân Luân vương, phước báo kém hơn Kim Luân vương, có bánh xe báu bằng bạc (ngân luân bảo), thống lãnh ba châu thiên hạ (Đông, Nam và Tây).
3. Đồng Luân vương, phước báo kém hơn Ngân Luân vương, có bánh xe báu bằng đồng (đồng luân bảo), thống lãnh hai châu thiên hạ (Đông và Nam).
4. Thiết Luân vương, phước báo kém hơn Đồng Luân vương, có bánh xe báu bằng sắt (thiết luân bảo), thống lãnh chỉ một châu thiên hạ, là châu Nam Thiệm-bộ.
5. Túc Tán vương, tức các vị quốc vương cai trị các nước (hoặc lớn, hoặc nhỏ) trong mỗi châu (như châu Nam Thiệm-bộ chẳng hạn), phước báo kém xa bốn vị Luân vương trên. Chữ “túc tán” có nghĩa là rất nhiều, có khắp các nơi, như lúa rải trên mặt đất.
(178) Trưởng giả: Ở Trung-quốc, người tuổi cao đức trọng thì được người tôn kính xưng là trưởng giả. Ở Việt-nam, từ này có hai ý nghĩa: -chỉ cho người tuổi cao đáng kính trong một vùng dân cư; -chỉ cho người giàu có mà kém hiểu biết, sống xa xỉ kiêu mạn, thích khỏe thân, không chịu khó.
Danh xưng “trưởng giả” trong kinh điển, như ở đây chẳng hạn, dùng để chỉ cho hạng trưởng giả ở Ấn-độ thời cổ. Theo đó, muốn được xưng là trưởng giả, hạng người này phải có đầy đủ mười đức: -quí tộc đại gia; -có địa vị cao trong xã hội; -giàu có hơn người; -có uy lực lớn làm cho mọi người đều nể sợ; -có trí tuệ hơn người; -lớn tuổi; -hành vi trong sạch, tư cách mô phạm; -lễ nghĩa nghiêm túc; -trên thì được vua khen phục; -dưới thì được dân chúng qui ngưỡng. Vì có đầy đủ mười đức như vậy, cho nên các vị trưởng giả nhiều khi còn được kính trọng hơn cả các quan chức triều đình.
(179) Cư sĩ: là người sống theo đạo lí; tuy mang thân thế tục nhưng biết nương theo giáo pháp để tu hành; tuy làm việc đời nhưng luôn lấy giáo pháp làm kim chỉ nam, để không bao giờ làm những việc phi pháp. Dù có hay không có địa vị, những người cư sĩ bao giờ cũng là những người có đức độ đáng tôn kính trong xã hội.
(180) Tể quan: là các cấp quan chức chính quyền từ trung ương đến các địa phương nhỏ bé, như thủ tướng, bộ trưởng, tỉnh trưởng, thôn trưởng v.v..., và các quan lại trực thuộc.
(181) Bà la môn: là một trong bốn chủng tộc (cũng là bốn giai cấp dân chúng) trong xã hội Ấn-độ thời cổ, chuyên phụng thờ Đại Phạm Thiên, tu hạnh trong sạch. Các giáo sĩ Bà-la-môn tự cho rằng, khi Phạm Thiên sinh ra loài người thì chủng tộc của họ đã được sinh ra từ miệng ngài. Chỉ có họ mới có thể tiếp xúc trực tiếp với thần linh, cho nên, chỉ có họ mới thông hiểu được các kinh Phệ Đà; và cũng chỉ có họ mới có quyền cúng tế, xướng tụng và giảng dạy các kinh điển ấy. Họ tự cho mình là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp. Để củng cố địa vị và áp chế các giai cấp khác, họ đã tạo ra bộ luật Mã Nỗ (Manu), tự cho mình là giai cấp trên hết và tôn quí nhất trong xã hội, phải nắm độc quyền về tôn giáo, tư tưởng, học thuật và giáo dục, bắt buộc ba giai cấp dưới phải tuân phục. Một cách cụ thể, họ tự ban cho mình 6 đặc quyền sau đây: -học tập kinh điển Phệ Đà; -giảng dạy kinh điển Phệ Đà; -tự cúng tế cho mình; -cúng tế cho người khác; -thọ nhận của cúng dường; và -bố thí cho người khác. Cuộc đời một người Bà-la-môn được chia làm bốn thời kì, thời kì đầu tiên gọi là “thời kì phạm hạnh”: cậu bé Bà-la-môn lên 8 tuổi thì rời nhà, theo thầy học tập, ròng rã 12 năm, giữ giới bất dâm, học các kinh Phệ Đà và thực tập các lễ nghi tế tự. Thời kì thứ hai gọi là “thời kì gia trú”: cậu bé bây giờ đã 20 tuổi, trưởng thành, được thầy cho trở về nhà, sống đời bình thường, cưới vợ sinh con, làm ăn xây dựng sự nghiệp, thờ phượng tổ tiên. Kế tiếp là “thời kì lâm thê”: người Bà-la-môn này, khi đến tuổi già thì nhường hết gia sản cho các con, vào ở rừng tu khổ hạnh, chuyên tâm tư duy, tham dự các sinh hoạt tôn giáo. Sau hết là “thời kì lánh đời”: bỏ hết những gì dính mắc đến thế tục, mặc áo thô, xách bình nước, đi du hành đây đó.
(182) Lập thân nội chính: Người phụ nữ giữ đúng vai trò của mình trong gia đình (như quán xuyến việc nhà, dạy dỗ con cái, hầu hạ cha mẹ, v.v...), gọi là “nội chính”; nếp sống cao sang nhưng vẫn chuyên cần, tuy giàu có mà vẫn cần kiệm, luôn luôn tu dưỡng các đức tính tốt của một người đàn bà (như kính nhường, điềm đạm, nhã nhặn, từ ái, v.v...), gọi là “lập thân”. Người phụ nữ làm được như vậy tức là “tự tu sửa thân tâm”; và đó cũng là nguồn gốc phát sinh bao an vui, hạnh phúc cho gia đình, gọi là “làm cho gia đình yên ổn”; và điều đó cũng liên quan mật thiết đến sự hưng thịnh, bình trị của quốc gia, gọi là “làm cho thiên hạ thái bình”!
(183) Hoàng hậu, phu nhân, mệnh phụ, đại cô: Theo người Trung-hoa xưa, vợ của vua thiên tử gọi là“hoàng hậu”; vợ của vua các nước chư hầu, phiên thuộc, gọi là “phu nhân”. “Mệnh phụ” là tiếng dùng để chỉ cho các bà vợ của các quan, hoặc các bà trinh thục hiền đức trong dân chúng, được triều đình phong tước, ban thưởng. “Đại cô”: nguyên chữ Hán viết là “đại gia”, nhưng chữ “gia” ở đây phải đọc là “cô”. “Đại cô” là tiếng gọi dành cho người đàn bà tài đức kiêm toàn, được triệu vào cung làm thầy của hoàng hậu.
(184) Không muốn nhiễm dục trần: Nguyên văn chữ Hán trong kinh văn viết là “bất hoại nam căn”, nghĩa là không hư hoại nam căn. Điều này muốn nói rằng, người đàn ông muốn tu phạm hạnh, chí quyết trọn đời không để cho nam căn bị ô nhiễm bởi hành động dâm dục; thuật ngữ gọi là “giữ gìn thiên chân” (bảo thủ thiên chân), hay “đồng chân”, tức là chẳng những không lập gia đình, mà còn không phạm bất cứ một hành động dâm dục nào! Do đây mà có thuật ngữ liên hệ là “đồng chân xuất gia”.
(185) Đồng nam: Liên quan với ý nghĩa từ “đồng chân” trong chú thích số 184 trên, từ “đồng nam” ở đây có nghĩa là người đàn ông suốt đời trong sạch, không nhiễm ái dục, không phạm bất cứ hành động dâm dục nào. Từ “đồng tử” cũng có ý nghĩa như vậy.
(186) Xử nữ: người nữ suốt đời không lập gia đình.
(187) Đồng nữ: Cũng như đồng nam, đồng nữ là người phụ nữ suốt đời trinh thục, không lập gia đình, không phạm bất cứ một hành động dâm dục nào.
(188) Ra khỏi loài trời: Ở đây ý nói rằng: thiên chúng không muốn ỏ cõi trời nữa, mà muốn sinh xuống cõi người. Tại sao vậy? Vì rằng, tuy loài trời hưởng phước báo hơn loài người, nhưng bởi đời sống quá sung sướng nên không chịu tu hành, đến khi hết phước báo thì lại phải tùy nghiệp cũ mà đọa lạc. Chỉ ở cõi người là có nhiều duyên thuận tiện để tu hành. Chư Phật đều xuất hiện ở cõi người để thành Phật và hóa độ khắp các loài chúng sinh; chư Bồ-tát, chư Thánh nhân trong ba thừa đều do thân người tu hành mà chứng quả. Vì vậy, chư thiên không muốn hưởng lạc, chỉ muốn tu hành để được giác ngộ giải thoát, thì không muốn ở cõi trời mà tự nguyện sinh vào cõi người.
(189) Dược xoa: hay dạ xoa, là một loại quỉ có sức mạnh, tính bạo ác, đi rất nhanh; có loại đi trên mặt đất, có loại đi trên hư không, có loại bay trên không. Tuy tính bạo ác, nhưng khi có duyên lành được nghe pháp Phật thì tin tưởng sâu xa, phát tâm hộ trì Phật pháp, chí thành mong cầu giải thoát.
(190) Càn thát bà: là những vị thần âm nhạc của trời Đế Thích. Họ không ăn thịt uống rượu, mà chỉ sống bằng các mùi thơm.
(191) A tu la: là loại thần có cung điện trên núi Tu-di, có phước của trời mà không có đức của trời, nên gọi là loài “phi thiên”. A tu la tính hay sân hận, nóng nảy, hay gây sự đánh nhau với trời Đế Thích. Đàn ông a tu la thân hình xấu xí, nhưng đàn bà rất xinh đẹp. Đó là loại a tu la hóa sinh, thuộc về Thiên đạo. Lại có a tu la thai sinh thuộc về Nhân đạo; a tu la noãn sinh thuộc về quỉ đạo; và a tu la thấp sinh thuộc về súc sinh đạo.
(192) Khẩn na la: là những vị thần xướng ca của trời Đế Thích, có cung điện bằng bảy báu ở núi Tu-di, thân hình giống như loài người, đầu có một chiếc sừng, hình dung xấu xí nhưng tiếng xướng ca tuyệt diệu.
(193) Ma hô la già: cũng gọi là ma hầu la già, là thần rắn lớn, hoặc gọi là rồng đất, thuộc loài bò sát.
(194) Phi nhân: chỉ chung cho tất cả các loài địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
(195) La sát: là loài ác ma trong thần thoại Ấn-độ, xuất hiện rất sớm trong kinh Lê Câu Phệ Đà. Tương truyền, La sát nguyên là tên gọi chỉ cho dân bản xứ Ấn-độ từ thời cổ đại. Sau khi giống dân Aryan từ miền Trung-Á tràn xuống chiếm lãnh thổ Ấn-độ (khoảng 1.500 năm trước tây lịch kỉ nguyên) thì “la sát” biến thành một đại danh từ chỉ chung cho những người ác; rồi dần dần lại chuyển biến thành tên của loài ác quỉ. Quỉ la sát cũng là thân người, đàn ông thì da đen, tóc đỏ, mắt xanh, trông dễ sợ; đàn bà thì nhan sắc tuyệt đẹp. Nói chung, quỉ la sát có sức mê hoặc người rất mạnh, chuyên bắt người để ăn thịt uống máu. La sát có sức thần thông, có thể đi rất nhanh trên mặt đất, hoặc bay rất nhanh trên hư không. La sát cũng có loại làm cai ngục ở các địa ngục để hành hạ tội nhân, có nhiều hình dạng khác nhau: hoặc đầu trâu tay người, hoặc đầu nai, đầu dê, đầu thỏ v.v... Đó là loài la sát có tánh hung ác của ma quỉ; nhưng trong kinh điển Phật giáo, la sát cũng biến chuyển thành những vị thiện thần thủ hộ Phật pháp.
Pháp sư Viên Anh nói (trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa), dược xoa là quỉ nam, còn la sát là quỉ nữ; cả hai đều là quỉ ăn thịt người.
(196) Cưu bàn trà: là loài quỉ chuyên hút tinh khí người, đi nhanh như gió, biến hóa nhiều hình thù.
(197) Tì xá già: cũng là loài quỉ ăn thịt, uống máu, hút tinh khí của người.
(198) Phú đơn na: là một loài ngạ quỉ, có thân hình giống như heo, rất hôi tanh.
(199) Năm thứ tịnh nhục: Thịt các con vật mình không thấy chúng bị giết; không nghe tiếng kêu khi chúng bị giết; không nghi ngờ vì mình mà chúng bị giết; chúng tự chết; chúng bị chim thú ăn còn sót lại.
(200) Mạng căn: Chúng sinh, do nghiệp đời trước dắt dẫn mà thọ nhận báo thân đời này. Báo thân ấy gồm hai phần sắc và tâm, nhờ có thức, hơi ấm và hơi thở giữ gìn liên tục mà có được một đời sống trong khoảng thời gian từ lúc thọ sinh cho đến lúc chết, gọi là “mạng căn”.
(201) Đức Phật ăn cám ngựa: Năm thứ 12 sau ngày thành đạo, một vị thí chủ Bà-la-môn giàu có, vốn là thôn trưởng của thôn Tì-lan, tên A Kì Đạt, đã thỉnh đức Phật cùng 500 vị tì kheo, về an cư tại thôn Tì-lan (thuộc nước Kiều-tát-la) để ông được cúng dường. Nhưng chỉ được sáu ngày thì ông bị ma vương mê hoặc, làm cho tâm bị mê muội, chỉ biết ở yên trong tư thất để hưởng dục lạc, không còn biết gì đến việc bên ngoài nữa; cả việc cúng dường an cư cũng hoàn toàn quên mất! Vừa lúc ấy thì khắp vùng gặp nạn đói trầm trọng, dân chúng thiếu ăn, quí vị tì kheo đi khất thực thường là không được gì, hoặc chỉ được rất ít, không đủ dùng. Lúc ấy có một người lái buôn ngựa, từ xứ khác đến dừng chân tạm trú tại ấp Tì-lan, mang theo một bầy ngựa 500 con. Ông ta biết tình trạng đói khát của Phật và tăng đoàn, bèn phát tâm, hằng ngày chia bớt phần cám của ngựa để cúng dường. Nhờ đó mà Phật và chư tăng chịu qua được nạn đói ấy. Cuối mùa an cư, vị thôn trưởng Bà-la-môn kia, tâm trí sực tỉnh, biết được Phật và tăng đoàn đã bị đói khát trong ba tháng qua, ông hối hận vô cùng. Ông đến trước Phật và Chư Tăng thành khẩn sám hối, và tha thiết xin cúng dường một bữa trai tăng thật long trọng cuối cùng, trước khi Phật và Chư Tăng rời thôn ấp để lên đường du hóa.
(202) Ma ái kiến: Vì tham cầu lợi dưỡng, tự cho mình là tôn quí để được cúng dường, gọi là “ma ái”; vọng khởi tà kiến, tự cho mình là thánh nhân để được kính trọng, gọi là “ma kiến”. Hai loại ma này lúc nào cũng sóng đôi nhau có mặt để phá hoại người tu hành, nên gộp chung gọi là “ma ái kiến”.
(203) Cây đa-la: tức cây lá bối ở Ấn-độ, lá rộng, dài, dùng để chép kinh sách (trong thời kì chưa có giấy). Cây này, nếu dùng dao chặt đứt thì chết hẳn, không bao giờ sống trở lại.
(204) Ma ha tát đát đa bát đát ra: là tên của thần chú Lăng Nghiêm, dịch ra Hán ngữ là “Đại bạch tán cái”, có nghĩa là cây lọng lớn tinh khiết che khắp thế gian.
(205) 108 biến chú Lăng Nghiêm: Ở đây không phải nói toàn bộ 5 hội chú Lăng Nghiêm, mà là chú Lăng Nghiêm chính thức, tức câu chú cuối cùng “Án a na lệ ...... hổ hồng đô lô ung phấn ta bà ha.” (gồm 34 chữ).
(206) Trọng tội ngũ nghịch: là 5 tội nghịch, rất nặng nề, chỉ cần phạm một trong 5 tội này cũng đủ để đọa vào địa ngục vô-gián; đó là: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hoại sự hòa hợp của tăng chúng, và làm thân Phật chảy máu.
(207) Trọng tội tứ-khí: Chư vị tì kheo nếu phạm bốn giới căn bản là sát, đạo, dâm, vọng (thuật ngữ Phật học gọi là “bốn tội ba-la-di”) sẽ vĩnh viễn bị trục xuất khỏi tăng đoàn. Chữ Phạn “ba-la-di”, dịch ra Hán ngữ là “khí”, tức là bị loại bỏ.
(208) Trọng tội bát-khí: Đây là tám tội trọng của tì kheo ni: sát, đạo, dâm, vọng, xúc (chạm xúc với đàn ông với tâm bất chính), bát sự thành trọng (có 8 hành vi với đàn ông với tâm bất chính: cầm tay, kéo áo, cùng nhau vào chỗ kín đáo, nói cười chớt nhả, cùng đi, cùng đứng chuyện trò, cùng đứng tựa nhau, hẹn hò gặp mặt), phú (che dấu trọng tội của vị tì kheo ni khác), tùy (tùy thuận cung cấp vật thực và chuyện trò với vị tì kheo đang bị tăng chúng nêu tội lỗi). Tám trọng tội này cũng thuộc về tội “ba-la-di”, nếu phạm sẽ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi ni chúng.
(209) 44 tâm: tức 10 Tín, 10 Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi-hướng, và 4 Gia-hạnh.
(210) Chuyển-y: Đây là một thuật ngữ Phật học, chỉ cho quả vị tu chứng rốt ráo của chư Phật: Chuyển đổiphiền não thành Vô Thượng Bồ Đề; chuyển đổi sinh tử thành Đại Niết Bàn. Cho nên, Bồ-đề và Niết-bàn là hai quả “chuyển-y” của chư Phật. Nghĩa của chữ “chuyển y” là thay đổi (chuyển) tận gốc rễ (y).
(211) Mười thân: chỉ cho 10 thân của Phật và Bồ-tát; có nhiều loại, ở đây xin nêu hai loại:
1. Mười thân dung nhiếp các pháp ở thế gian, gồm có: Thanh-văn thân, Duyên-giác thân, Bồ-tát thân, Như-lai thân, Pháp thân, Trí thân, Hư-không thân, Nghiệp-báo thân, Chúng-sinh thân, Quốc-độ thân.
2. Các đức Như Lai có đầy đủ mười thân: Bồ-đề thân, Nguyện thân, Hóa thân, Lực thân, Trang-nghiêm thân, Uy-thế thân, Ý-sinh thân, Phước thân, Pháp thân, Trí thân.
(212) 12 tầng bậc vừa đơn vừa kép: Quá trình tu tập của một vị Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, trải qua 12 địa vị, trong đó, những địa vị chỉ một tên một bậc, gọi là địa vị đơn (đơn vị), – như 7 địa vị: Càn-tuệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế-đệ-nhất, Đẳng-giác, Diệu-giác; những địa vị một tên mà gồm nhiều bậc, gọi là địa vị kép (phức vị), – như 5 địa vị: Tín (10 bậc), Trụ (10 bậc), Hạnh (10 bậc), Hồi-hướng (10 bậc), Địa (10 bậc).
(213) Mười thí dụ: tức 10 đề mục quán tưởng:
1. Quán tất cả nghiệp là như huyễn
2. Quán tất cả pháp như bóng hơi nóng
3. Quán tất cả thân như bóng trăng trong nước
4. Quán diệu sắc như hoa đốm giữa hư không
5. Quán diệu âm như tiếng vang trong hang động
6. Quán quốc độ của chư Phật như thành càn-thát-bà
7. Quán Phật sự như mộng ảo
8. Quán thân Phật như bóng ảnh
9. Quán báo thân như hình tượng
10. Quán pháp thân như huyễn hóa
tất cả đều không thể nắm giữ, không thể bỏ đi, tại vì tất cả đều không vậy.
(214) 55 địa vị: Đây là con đường tu tập của một vị Bồ-tát từ lúc khởi đầu phát tâm cho đến khi thành Phật –gọi là “Bồ đề lộ”, gồm có: 10 bậc Tín (Thập Tín), 10 bậc Trụ (Thập Trụ), 10 bậc Hạnh (Thập Hạnh), 10 bậc Hồi-hướng (Thập Hồi-hướng), 4 bậc Gia-hạnh (Tứ Gia-hạnh), 10 bậc Địa (Thập Địa), và bậc Đẳng-giác. Sở dĩ không kể bậc Càn-tuệ và bậc Diệu-giác vào đây, là vì, theo pháp sư Viên Anh trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, thì hành giả ở bậc Càn-tuệ mới phát khởi sơ tâm, chưa phát lòng tin chân thật, chưa thật sự bước vào lộ trình, nên không kể; còn bậc Diệu-giác thì tuệ giác đã đến mức cứu cánh, đã về hẳn nhà, không còn đang đi trên đường nữa, nên cũng không kể.
Mặt khác, theo cư sĩ Tăng Phụng Nghi (đời Minh, Trung-quốc) trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông, thì bậc Càn-tuệ được kể vào 55 địa vị này, mà không kể bậc Đẳng-giác, lí do là vì, bậc Đẳng-giác, cũng giống như bậc Diệu-giác, cả hai bậc này đều đã là Giác, là Chân Bồ Đề, chứ không còn là “con đường” nữa.
Mặt khác nữa, một cách phổ thông, quá trình tu tập Bồ-tát hạnh được kể giản lược hơn, có 52 giai vị, gồm: 10 bậc Tín, 10 bậc Trụ, 10 bậc Hạnh, 10 bậc Hồi-hướng, 10 bậc Địa, bậc Đẳng-giác, và bậc Diệu-giác.
(215) Tư hoặc ba cõi: Những thứ phiền não tham, sân, si, mạn được gọi là “tư-hoặc”. Ba cõi (Dục, Sắc và Vô-sắc) phân nhỏ ra thì có 9 địa (Dục-giới Ngũ-thú-tạp-cư địa, Sơ-thiền Li-sinh-hỉ-lạc địa, Nhị-thiền Định-sinh-hỉ-lạc địa, Tam-thiền Li-hỉ-diệu-lạc địa, Tứ-thiền Xả-niệm-thanh-tịnh địa, Không-vô-biên-xứ địa, Thức-vô-biên-xứ địa, Vô-sở-hữu-xứ địa, và Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa); mỗi địa đều có 9 phẩm tư-hoặc, vậy cả ba cõi có tất cả là 81 phẩm tư-hoặc. Hành giả Thanh-văn thừa, khi đoạn trừ hết kiến-hoặc (gồm các thứ phiền não nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, và giới cấm thủ kiến) trong ba cõi thì chứng Sơ-quả Tu-đà-hoàn; tiếp đó, tu tập đoạn trừ 6 phẩm tư-hoặc đầu của cõi Dục, thì chứng được Nhị-quả Tư-đà-hàm; tiếp đến tu tập đoạn trừ 3 phẩm tư hoặc sau của cõi Dục, thì chứng Tam-quả A-na-hàm. Từ đây, vị thánh này sẽ không còn sinh trở lại cõi Dục nữa, mà sẽ ở luôn cõi Sắc-giới để tiếp tục tu tập đoạn trừ sạch hết 72 phẩm tư hoặc của 8 địa còn lại (gồm trong hai cõi Sắc và Vô-sắc), thì chứng Tứ-quả A-la-hán.
(216) Vua Lưu Li: tức vua Tì Lưu Li, là vua nước Kiều-tát-la vào thời đức Phật còn tại thế. Ông là con của vua Ba Tư Nặc, và là em khác mẹ của thái tử Kì Đà. Năm 79 tuổi, sau mùa an cư, đức Thế Tôn du hành về đến vương quốc Sakya, tạm trú nơi một quận lị nhỏ để hành đạo. Lúc bấy giờ, vua Ba Tư Nặc (vua cùng tuổi với đức Thế Tôn) cũng đang du ngoạn ở một thị trấn gần đó, biết tin, liền đến hầu Phật. Trong đoàn tùy tùng của nhà vua có cả hoàng tử Tì Lưu Li và viên tướng tổng tư lệnh quân đội hoàng gia. Trước khi tiến vào căn nhà nhỏ, trong đó Phật đang ngự, nhà vua cởi thanh bảo kiếm cùng vương miện trao cho vị tướng lãnh, để tất cả đoàn tùy tùng ở ngoài, một mình nhà vua vào hầu Phật. Lợi dụng lúc nhà vua và đức Phật đàm đạo trong căn nhà, hoàng tử Tì Lưu Li đã cùng vị tướng lãnh dẫn cả đoàn tùy tùng trở về kinh đô Xá-vệ, giết thái tử Kì Đà và tự lên ngôi vua, trở thành quốc vương của nước Kiều-tát-la. Lúc vua Ba Tư Nặc bái biệt đức Phật để trở lại chỗ cũ thì chỉ thấy còn có một người cung nữ già. Nhà vua biết việc chẳng lành, bèn đi thẳng về thành Vương-xá (nước Ma-kiệt-đà), và đã chết tại đây.
Sau khi lên ngôi vua, Tì Lưu Li nhớ lại mối hận cũ với dòng họ Thích-ca, bèn cất quân sang đánh thành Ca-tì-la-vệ, muốn tiêu diệt cho hết những người thuộc dòng họ Thích-ca. Mối hận cũ đó là gì? Hai bộ luật Ngũ Phần vàTứ Phần đều thuật như sau: Trước kia vua Ba Tư Nặc có xin cưới một người con gái dòng họ Thích-ca làm phu nhân. Nhưng luật lệ của dòng họ này không cho trai gái lập hôn nhân với người khác họ. Vua Ma Ha Nam bèn đem con gái của một tì nữ trong cung, giả xưng là con gái dòng họ Thích-ca, gả cho vua Ba Tư Nặc, về sau đã sinh ra hoàng tử Tì Lưu Li. Tì Lưu Li vừa lớn lên (Kinh Tăng Nhất A Hàm nói là 8 tuổi), nhà vua cho sang thành Ca-tì-la-vệ để theo học nghề bắn cung. Lúc bấy giờ, những người dòng họ Thích-ca vừa xây một tòa nhà lớn, nguyện rằng, trước hết phải cúng dường Phật và chúng tăng, sau đó họ mới sử dụng. Tì Lưu Li không biết điều đó, ngang nhiên dẫn đoàn tùy tùng vào tòa nhà ấy vui chơi. Những người dòng họ Thích bèn mắng: “Đứa con của tiện tì sao dám vô lễ! Đức Thế Tôn và chúng tăng chưa vào ngồi mà sao ngươi dám vào trước vui chơi!” Họ đuổi Tì Lưu Li đi, rồi phá bỏ tòa nhà đó để xây tòa nhà khác, sau đó mới thỉnh Phật và chúng tăng vào ngự. Tì Lưu Li giận lắm, bảo người tùy tùng: “Ngươi nhớ kĩ việc này. Sau khi ta làm vua, hãy nhắc lại cho ta!”. Rồi bỏ về nước. Bây giờ ông đã làm vua, liền cử binh sang tiêu diệt dòng họ Thích-ca để rửa hận. Tôn giả Mục Kiền Liên xin phép Phật hóa làm một cái lồng bằng sắt, trùm lên cả hoàng thành để bảo vệ họ Thích, nhưng đức Phật ngăn lại bảo: “Dù thầy có thần lực lớn, nhưng đâu có thể cải được định nghiệp này!”
Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm, trong trận này, quân của vua Tì Lưu Li đã tàn sát đến chín ngàn chín trăm chín mươi vạn người dòng họ Thích, máu chảy thành sông. Sau trận tàn sát này, đức Phật đã báo cho chư vị tì kheo biết trước, sau 7 ngày, vua Tì Lưu Li và tất cả đoàn quân đều sẽ bị tận diệt. Quả nhiên, 7 ngày sau đó, vua Tì Lưu Li đã dẫn cả binh lính cùng các thể nữ đến sông A-chỉ-la để vui chơi, tới nửa đêm, thình lình nổi cơn gió dữ, nước sông dâng cao, cuốn trôi vua Tì Lưu Li cùng tất cả binh lính, thể nữ, không một ai sống sót!
Có thuyết nói rằng, sau khi giết sạch dân chúng dòng họ Thích trong thành Ca-tì-la-vệ, vua Tì Lưu Li lại muốn giết luôn đức Phật. Nhưng khi vừa thấy Phật thì tự nhiên ông kinh sợ vô cùng. Đức Phật bèn bảo cho ông biết, 7 ngày sau ông sẽ đọa địa ngục. Ông nghe thế lại càng kinh sợ, bèn suất lãnh quân đội lên thuyền ra biển để trốn nạn. Ông ở trên thuyền suốt 7 ngày; đến cuối ngày thứ 7, đang đêm tự nhiên lửa dữ phát cháy, đốt chìm thuyền, ông và mọi người đều chết hết.
(217) Tì kheo Thiện Tinh: Theo kinh Đại Bát Niết Bàn thì tì kheo Thiện Tinh là con của thái tử Tất Đạt Đa. Pháp sư Viên Anh (trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa) thì dẫn kinh A Hàm, nói rằng, Thiện Tinh là con của hoàng tử đường đệ của Phật; hoặc có chỗ nói, là con của vương tử Đề Bà Đạt Đa. Sau khi xuất gia, tì kheo Thiện Tinh đoạn trừ hết phiền não cõi Dục, chứng được Tứ-thiền. Nhưng rồi, vì thân cận với bạn ác mà sinh tà kiến, tiêu mất cảnh giới Tứ-thiền, trở thành si ám, bác bỏ nhân quả nghiệp báo, cho rằng không có Phật, không có niết bàn. Ông theo hầu Phật nhưng thường nói xấu Phật, và làm nhiều hành động chống lại Phật. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật có kể một số tội lỗi điển hình của ông như thế, và gọi ông là hạng nhất-xiển-đề. Vì những tội lỗi nặng nề đó, ông đã bị đọa địa ngục ngay khi còn sinh tiền. Sự kiện ông bị đọa địa ngục này đã xảy ra tại sông Ni-liên, trước sự chứng kiến của đức Phật và Bồ Tát Ca Diếp.
(218) A-tì: Tiếng Phạn là “a-tì”, dịch ra Hán ngữ là “vô-gián”, có nghĩa là không xen hở, không có kẽ hở. Đó là tên của loại địa ngục đau khổ cùng cực, nơi đọa lạc của những người tạo các tội cực ác, cực nặng. Chữ “vô-gián” có 5 ý nghĩa như sau: 1) Đọa lạc tức thì (thú quả vô gián): Sau khi xả bỏ thân người thì đọa ngay xuống địa ngục này, không phải qua thân trung ấm. 2) Chịu khổ không ngưng nghỉ (thọ khổ vô gián): Suốt trong thời gian ở địa ngục này, tội nhân chịu khổ liên tục, không giây phút nào có được niềm vui. 3) Thời gian không gián đoạn (kinh thời vô gián): Chịu khổ liên tục suốt trong một kiếp, không ngưng nghỉ một khoảnh khắc nào.4) Mạng sống vô gián (mạng vô gián): Mạng sống kéo dài suốt một kiếp để liên tục chịu khổ, không giây phút nào gián đoạn. 5) Thân hình không bị xen kẽ (hình vô gián): Địa ngục này rộng dọc ngang tám vạn do tuần, thân hình một hay nhiều tội nhân cũng đều đầy khắp, không trống hở chỗ nào. Kinh Pháp Hoa nói: Người tạo tội vô gián, sau khi mạng chung, đọa ngay xuống địa ngục A-tì, chịu khổ đủ một kiếp; mãn kiếp đó rồi, lại sinh sang địa ngục A-tì khác trong khắp mười phương thế giới, dần dà như thế cho đến vô số kiếp.
(219) Tập nhân: Tập khí, tức những thói quen, chính là nguyên nhân tạo nghiệp.
(220) Giao báo: Khi một căn (con mắt chẳng hạn) tạo nghiệp, năm căn kia (tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cũng góp phần tạo nghiệp, cho nên khi căn ấy chịu quả báo thì năm căn kia cũng giao hòa nhau cùng chịu quả báo.
(221) Trời Đao-lợi (Đao-lợi thiên): “Đao-lợi” là tiếng Phạn, dịch ra Hán ngữ là “tam-thập-tam”, nghĩa là “ba-mươi-ba”. Cõi trời này ở trên đỉnh núi Tu-di, cách xa cõi người 8 muôn 4 ngàn do tuần. Ở 4 hướng của cõi này, mỗi hướng đều có 8 cung trời, và 1 cung ở trung ương, cộng tất cả là 33 cung, cho nên cõi trời này có tên là“Đao-lợi”. Vị thiên chủ của cõi này là trời Đế Thích (tức Thích Đề Hoàn Nhân), ngự ở cung trung ương. Một ngày đêm ở cõi trời này dài bằng 100 năm ở cõi người; thiên chúng sống lâu 1.000 tuổi (tính ra hơn 36 triệu năm ở cõi người). Thiên chúng nam nữ ở cõi này cũng sống đời vợ chồng giống như cõi người, nhưng nhẹ nhàng, tinh khiết hơn nhiều. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé sáu tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
(222) Trời Tu-diệm-ma (Tu-diệm-ma thiên): Cũng gọi là Dạ-ma thiên, dịch ra Hán ngữ là Thiện-thời-phân, ở trên hư không, cách cõi người 16 vạn do tuần. Đất đai cõi này như mây, thiên cung và thiên chúng tự có ánh sáng rực rỡ, ánh sáng trời trăng không chiếu tới, nên không có ngày đêm phân cách, chỉ căn cứ vào lúc hoa sen nở ra hay úp lại mà phân định ngày đêm. Một ngày đêm ở đây dài bằng 200 năm ở cõi người, thiên chúng sống lâu 2.000 tuổi. Mỗi giây mỗi phút đều thọ hưởng sự hoan lạc ngoài sức tưởng tượng của loài người. Ý niệm dâm dục chỉ khởi lên khi biết đúng lúc, và vợ chồng chỉ ôm nhau là âm dương thành tựu. Đến lúc sinh, người thiên nữ khởi niệm, liền có em bé hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng em bé ba, bốn tuổi ở nhân gian.
(223) Trời Đâu-suất-đà (Đâu-suất-đà thiên): thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ là Tri-túc thiên, ở cách xa cõi người 32 vạn do tuần, đất đai như mây. Cõi trời này chia thành hai viện: Nội viện và Ngoại viện. Ngoại-viện do thiên vương San Đâu Suất Đà làm chủ, là nơi thiên chúng phàm phu cư trú, phần nhiều chỉ hưởng khoái lạc, ít tu tập. Nội-viện là nơi cư trú tu tập của các vị Bồ-tát, do đức Bồ Tát Di Lặc làm chủ, thuyết pháp hóa độ. Đức Di Lặc và chư vị Bồ-tát thường ra khu Ngoại viện để giáo hóa thiên chúng phàm phu, ai căn cơ thuần thục, nghe pháp khai ngộ, thì được tiếp dẫn vào khu Nội-viện. Khu Nội-viện cực kì tinh vi, đến nỗi thiên chúng ở Ngoại-viện cũng không thể biết được. Vì vậy, khi đến kiếp Hoại, đại tam tai phá hủy thế giới đến tận cõi trời Tam-thiền (ở Sắc-giới), mà khu Nội-viện của cõi trời Đâu-suất này vẫn không bị hủy hoại. Thọ mạng ở Đâu-suất Ngoại-viện là bốn ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng bốn trăm năm ở nhân gian). Chúng sinh ở đây, niệm dâm dục nhẹ nhàng, biết đủ, và nam nữ chỉ cầm tay nhau là âm dương thành tựu. Em bé mới sinh đã lớn bằng em bé tám tuổi ở nhân gian.
(224) Trời Lạc-biến-hóa (Lạc-biến-hóa thiên): cũng gọi là Hóa-tự-tại thiên, hay Hóa-lạc thiên, ở cách xa cõi người 64 vạn do tuần, đất đai như mây. Chúa của cõi này là thiên vương Thiện Hóa, thiên chúng tự hóa ra các trần cảnh để tự thọ lạc, thân tướng thường có ánh sáng. Niệm dâm dục ở đây càng nhẹ nhàng, và nam nữ chỉ mỉm cười với nhau là âm dương thành tựu; con cái hóa sinh từ đầu gối của cha hoặc mẹ, mới sinh ra đã lớn bằng đứa trẻ mười hai tuổi ở nhân gian. Họ sống lâu tám ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng tám trăm năm ở nhân gian).
(225) Trời Tha-hóa-tự-tại (Tha-hóa-tự-tại thiên): là tầng trời cao nhất trong 6 tầng trời cõi Dục (Lục Dục thiên), và cũng là cõi cao nhất của cõi Dục (Dục giới); ở cách xa cõi người 128 vạn do tuần, đất đai như mây. Thiên chúng ở tầng trời phía dưới là Hóa-lạc thiên, tự mình biến hóa ra năm trần cảnh để hưởng thụ; rồi thiên chúng ở tầng trời này lại lấy các trần cảnh kia để hưởng thụ một cách tự tại, như Luận Đại Trí Độ nói: Cõi này chiếm lấy sự biến hóa của người khác để làm vui cho mình, cho nên gọi là “Tha-hóa-tự-tại”. Cõi trời này làm chủ của cả 6 cõi trời Dục giới. Đối với 5 cõi ở dưới thì thiên chúng ở cõi trời này sống lâu hơn, đoan chính hơn và sung sướng hơn rất nhiều. Dục niệm ở đây chỉ còn rất ít, thiên nam và thiên nữ chỉ nhìn nhau là âm dương thành tựu. Muốn có con thì khởi niệm, liền có thiên tử hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng đứa trẻ mười tuổi ở nhân gian. Họ sống đến 16.000 tuổi, mà một ngày đêm ở đó dài ước chừng bằng 1.600 năm ở cõi người. Cõi trời này cũng có duyên với Phật pháp, chính đức Thế Tôn đã từng nói một hội Kinh Hoa Nghiêm và một hội Kinh Bát Nhã ở cung trời này. Nhưng ở cõi trời này cũng có một cung điện vô cùng rộng lớn, đẹp đẽ, là chỗ ở của ma vương, chuyên tâm phá hoại Phật pháp, mà Luận Đại Trí Độ gọi đó là “Tha-hóa-tự-tại thiên tử ma” (là một trong 4 loại ma).
Sáu cõi trời Tứ-vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại, được gọi chung là sáu cõi trời Dục-giới (Lục Dục thiên). Hai cõi trời Tứ-vương và Đao-lợi đều tọa lạc trên núi Tu-di, còn thuộc cõi đại địa, nên gọi là “địa cư thiên”; bốn cõi trời còn lại đều tọa lạc trên hư không, cho nên được gọi là “không cư thiên”.
(226) Trời Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), vì đã lìa bỏ những pháp bất thiện của cõi Dục, nên có được cái cảm thọ hỉ và lạc của người vừa được thoát li khỏi cõi Dục (li sinh hỉ lạc); tuy nhiên, họ vẫn còn có hai tâm sở “tầm” (suy tưởng phân biệt ở mức độ thô thiển) và “từ” (suy tưởng phân biệt ở mức độ vi tế) hoạt động, cho nên còn cần phải đoạn diệt. Chúng sinh ở cõi này, vì không còn ăn uống giống như ở nhân gian, cho nên trong sáu thức, chỉ có bốn thức nhãn, nhĩ, thân và ý hoạt động, không có tị thức và thiệt thức. Tầng trời này chia làm 3 cõi, từ thấp lên cao có: 1) Cõi trời Phạm-chúng (Phạm-chúng thiên), tức là dân chúng của Phạm thiên, sống thọ 20 tiểu kiếp; 2) Cõi trời Phạm-phụ (Phạm-phụ thiên), tức là quan lại phụ tá cho Phạm thiên, sống thọ 40 tiều kiếp; 3) Cõi trời Đại-phạm (Đại-phạm thiên), tức là các vị Phạm thiên, sống thọ 60 tiểu kiếp.
(227) Trời Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), ở cao hơn tầng trời Sơ-thiền. Tại đây, hai tâm sở “tầm” và “từ” đã đoạn diệt, tâm thanh tịnh, cảm thọ hỉ lạc có được là do từ công phu thiền định của tự thân mà sinh ra (định sinh hỉ lạc). Chúng sinh ở cõi này, năm thức trước đều không hoạt động, chỉ còn có ý thức hiện khởi mà thôi. Tầng trời này chia làm 3 cõi, từ thấp lên cao có: 1) Cõi trời Thiểu-quang (Thiểu-quang thiên), tức là ánh sáng hãy còn yếu ớt, thọ 2 đại kiếp; 2) Cõi trời Vô-lượng-quang (Vô-lượng-quang thiên), tức là do định lực thâm sau hơn mà ánh sáng thân tâm chiếu soi rộng rãi, suốt khắp mười phương của một tiểu thiên thế giới, thọ 4 đại kiếp; 3) Cõi trời Quang-âm (Quang-âm thiên), tức dùng ánh sáng thanh tịnh vi diệu của mình làm âm thanh (chứ không dùng ngôn ngữ) để giáo hóa thiên chúng, thọ 8 đại kiếp.
(228) Trời Tam-thiền (Tam-thiền thiên), xả bỏ hết các cảm thọ hỉ lạc của cõi Nhị-thiền, thường trú trong cảnh giới không khổ không vui (hành xả), dùng chánh niệm và chánh kiến tiếp tục tu tập mà có được niềm vui vi diệu(li hỉ diệu lạc). Chúng sinh ở cõi này cũng chỉ có ý thức hoạt động. Tầng trời này chia làm 3 cõi, từ thấp lên cao có: 1) Cõi trời Thiểu-tịnh (Thiểu-tịnh thiên), tức là mới điều phục được ý thức, bước đầu nhập vào cảnh vui tịch tịnh, thọ 16 đại kiếp; 2) Cõi trời Vô-lượng-tịnh (Vô-lượng-tịnh thiên), tức cảnh giới tịnh lạc rộng như hư không, không có hạn lượng, thọ 32 đại kiếp;
3) Cõi trời Biến-tịnh (Biến-tịnh thiên), tức niềm tịnh lạc hữu lậu tới đây là cùng cực, tất cả mọi nơi tiếp xúc đến đều trở thành tịnh lạc, thọ 64 đại kiếp.
(229) Trời Tứ-thiền (Tứ-thiền thiên) xả bỏ niềm vui vi diệu (diệu lạc) của Tam-thiền, gọi là “xả diệu lạc”; chỉ nghĩ nhớ đến công đức tu dưỡng, gọi là “niệm thanh tịnh” (gồm chung lại gọi là “xả niệm thanh tịnh”). Chúng sinh ở cõi này chỉ có ý thức hoạt động, thường trú trong cảnh giới không khổ không vui (xả thọ). Tầng trời này chia làm 4 cõi, từ thấp lên cao có: 1) Cõi trời Phúc-sinh (Phúc-sinh thiên), tức niệm khổ vui đều xả bỏ, tịnh phúc phát sinh, thọ 125 đại kiếp; 2) Cõi trời Phúc-ái (Phúc-ái thiên), tức phước báo vô biên, rất đáng được ưa thích trong vòng thế gian, thọ 250 đại kiếp; 3) Trời Quảng-quả (Quảng-quả thiên), tức là quả báo của phước đức vô cùng rộng lớn, thọ 500 đại kiếp; 4) Cõi trời Vô-tưởng (Vô-tưởng thiên), tức hoàn toàn sống trong định buông xả, không còn tư tưởng, thọ 500 đại kiếp. Ngoài ra, cũng thuộc tầng trời Tứ-thiền này, cao hơn hai cõi trời Quảng-quả và Vô-tưởng, còn có 5 cõi trời Tịnh-cư, là trú xứ của các vị A-na-hàm (xem chú thích số 230 tiếp theo sau).
(230) Trời Bất-hoàn (Bất-hoàn thiên): cũng gọi là trời Tịnh-cư, tức là trú xứ của các vị A-na-hàm (quả thứ ba trong bốn quả Thanh-văn), cũng thuộc tầng trời Tứ-thiền, cao hơn hai cõi trời Quảng-quả và Vô-tưởng. Các vị A-na-hàm đã đoạn trừ hết mọi lậu hoặc của cõi Dục, nên không còn sinh lại cõi Dục nữa, mà an lập ở cõi Tịnh-cư này để tu hành tiếp tục cho đến khi chứng quả A-la-hán. Ở đây có 5 cõi trời (gọi là Ngũ Bất-hoàn thiên, hay Ngũ Tịnh-cư thiên), từ thấp lên cao có: 1) Cõi trời Vô-phiền (Vô-phiền thiên), thọ 1.000 đại kiếp; 2) Cõi trời Vô-nhiệt (Vô-nhiệt thiên), thọ 2.000 đại kiếp; 3) Cõi trời Thiện-kiến (Thiện-kiến thiên), thọ 4.000 đại kiếp; 4) Cõi trờiThiện-hiện (Thiện-hiện thiên), thọ 8.000 đại kiếp; 5) Cõi trời Sắc-cứu-cánh (Sắc-cứu-cánh thiên), cực đỉnh của cõi Sắc, thọ 16.000 đại kiếp.
(231) Ba hoặc (tam hoặc): “Hoặc” nghĩa là mê lầm, là một tên gọi khác của phiền não, cũng gọi là cấu, kết, haylậu. Hoặc có 3 loại:
1) Kiến tư hoặc: Thấy biết sai lầm gọi là “kiến hoặc”, như thân kiến, biên kiến, tà kiến v.v... Đối trước mọi sự vật ở thế gian, do tâm tham, sân, si v.v... mà khởi lên các vọng tình, gọi là “tư hoặc”. Trừ hết kiến tư hoặc này thì giải thoát ba cõi, hàng Thanh-văn, Duyên-giác coi đó là niết-bàn. Hàng Bồ-tát cũng đoạn trừ hết nhưng không coi đó là niết-bàn, mà còn tiến xa hơn nữa. Vì cả ba thừa cùng tu tập đoạn trừ, nên kiến tư hoặc được gọi là“thông hoặc”.
2) Trần sa hoặc: là các chướng ngại của hàng Bồ-tát trong việc giáo hóa độ sinh, nên cũng được gọi là “hóa đạo chướng”. Bồ-tát giáo hóa độ sinh tất phải tinh thông vô lượng pháp môn, nhiều như cát bụi. Nhưng Bồ-tát trí tuệ còn yếu kém, phải trải qua kiếp số lâu dài mới học tập thông đạt vô lượng pháp môn, công việc hóa độ mới được tự tại vô ngại; đó là “trần sa hoặc”. Loại hoặc này chỉ riêng có ở hàng Bồ-tát, nên được gọi là “biệt hoặc”.
3) Vô minh hoặc: là loại hoặc ngăn che lí thực tướng của trung đạo, cho nên cũng gọi là “chướng trung đạo hoặc”. Loại hoặc này là căn bản vô minh, vô cùng thâm sâu vi tế, chỉ có Bồ-tát ở bậc Đẳng-giác mới đoạn trừ, đoạn xong thì tiến lên bậc Diệu-giác, thành Phật. Đây cũng là loại “biệt hoặc”.
Trong các kinh luận, khi nói đến “ba hoặc” là chỉ cho 3 loại hoặc trên đây, tức kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Riêng ở đoạn kinh này, vì đức Phật chỉ dạy, nhấn mạnh về 3 nghiệp sát, đạo, dâm, nên từ “ba hoặc”ở đây có thể hiểu là ba ác nghiệp sát, đạo, dâm; vì mê lầm không biết rõ sát đạo dâm chính là gốc rễ của luân hồi, nên gọi là “hoặc”.
(232) Ý-sinh-thân: cũng gọi là “ý thành thân”, là thân không sinh ra từ tinh huyết của cha mẹ, mà hóa sinh do năng lực của ý, chuyển động nhanh chóng như chuyển động của ý; ý muốn tới đâu thì thân liền tới đó, tới lui khắp các Phật độ không có gì ngăn ngại. Đây là thân của các vị Bồ-tát từ bậc Sơ-địa trở lên, vì cứu độ chúng sinh mà hóa sinh như ý. Có ba loại ý sinh thân:
1) Nhập tam muội, lạc ý sinh thân: Các vị Bồ-tát nhập vào chánh định, tâm ý tịch tĩnh bất động, được niềm vui chân không tịch diệt (khác với cái vui cảm thọ), tùy ý tới lui khắp các Phật độ không bị chướng ngại.
2) Giác pháp tự tánh, tánh ý sinh thân: Các vị Bồ-tát liễu ngộ tất cả vạn pháp tự tánh như huyễn, hoàn toàn không có “sở hữu”, cho nên có thể dùng vô lượng thần lực tới lui khắp tất cả Phật độ, nhanh chóng như ý muốn, tự tại vô ngại.
3) Chủng loại câu sinh, vô tác ý sinh thân: Các vị Bồ-tát liễu ngộ tất cả pháp đều là Phật pháp, được một thân thì vô lượng thân cùng thời đồng hiện, như hình bóng của mọi chủng loại cùng lúc hiện ra trong tấm gương lớn, tự nhiên như thế, không do ai tạo tác cả.
(233) Đời sống phần đoạn: tức “phần đoạn sinh tử”, nghĩa là sự sinh tử của chúng sinh phàm phu trong vòng ba cõi. Chúng sinh ở đây có thân căn, có thọ mạng dài ngắn, có thể chất lớn nhỏ, mạnh yếu, cho nên gọi là “phần đoạn”.
(234) Đời sống biến dịch: tức “biến dịch sinh tử”, nghĩa là sự sinh tử của thánh nhân ba thừa ở ngoài ba cõi. Các bậc thánh nhân đã dứt hết kiến tư hoặc trong ba cõi, giải thoát ra ngoài ba cõi mà thọ sinh trong cõi pháp tánh, không còn “phần đoạn sinh tử”. Sự sinh tử ở đây chỉ là sự biến chuyển dời đổi (biến dịch) của tâm niệm từ quả vị này lên quả vị khác mà thôi.
(235) U ẩn: Hành ấm lưu chuyển vi tế, động mà như là chẳng động, gọi là “u ẩn”. Đó là một trong năm thứ vọng tưởng được đức Phật dạy rõ trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Theo Kinh này, gốc rễ của năm ấm (năm uẩn) đều là vọng tưởng –hay nói chính xác hơn, năm ấm tức là năm thứ vọng tưởng, gồm có:
1. Vọng tưởng kiên cố: tức là sắc ấm. Sắc ấm là thân thể con người, do bốn đại hòa hợp làm thành. Khi thức vừa khởi động thì liền phát sinh ý tưởng; tưởng sinh thì mạng căn được thành lập; mạng lập thì liền đầy đủ bốn đại. Cho nên, ba thứ thức, tưởng và mạng đã kết hợp mà hình thành con người. Ý tưởng mong cầu có được điều này điều nọ, gọi là “vọng tưởng”; các pháp có tướng trạng, có ngăn ngại, gọi là “kiên cố”. Do vọng tưởng muốn có mạng sống cho nên mới có sắc thân; sắc thân đã có thì muốn cho bền chắc lâu dài. Sắc thân đã có cho nên có ngăn ngại, có chấp ngã và ngã sở, có ngã ái, ngã mạn v.v...; đó gọi là “vọng tưởng kiên cố”.
2. Vọng tưởng hư minh: Chữ “hư” nghĩa là trống, tức không đầy; chữ “minh” nghĩa là biết. Vì “hư” cho nên lãnh nạp được; vì “minh” cho nên biết có cảm giác; bởi đó, “hư minh” là chỉ cho thọ ấm. Chúng sinh do ý tưởng tham cầu mong muốn mà sinh tâm yêu thích cái gì tốt đẹp, thuận ý, có lợi, đó gọi là “cảm thọ vui” (lạc thọ); và chán ghét cái gì xấu xa, nghịch ý, bất lợi, đó gọi là “cảm thọ khổ” (khổ thọ). Như vậy, thọ ấm vốn là hư vọng, không có thật thể, cho nên gọi là “vọng tưởng hư minh”, là tác dụng của năm thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân).
3. Vọng tưởng dung thông: tức là tưởng ấm. “Dung thông” nghĩa là dung hợp nhau, thông suốt nhau, không chướng ngại. Niệm tưởng thì vô hình, nhưng có thể sai sử sắc thân hữu hình. Tâm nghĩ gì thì thân thể liền lay động đáp ứng theo, cả lúc thức lẫn trong lúc ngủ; đó là do cái tưởng dung thông, cho nên tưởng ấm được gọi là“vọng tưởng dung thông”, là tác dụng của ý thức.
4. Vọng tưởng u ẩn: tức là hành ấm. Thân thể chúng sinh niệm niệm biến chuyển, không giờ khắc nào ngừng nghỉ; và sự biến chuyển ấy vô cùng vi tế, thâm u, ẩn mật, ta không biết được. Cho nên hành ấm được gọi là“vọng tưởng u ẩn”, thuộc phạm vi của thức mạt-na.
5. Vọng tưởng điên đảo: tức là thức ấm. Thức ấm ở đây chính là thức a-lại-da, bản thể của vạn pháp. Thức thể này vi tế, tinh thuần, trong lặng, giống như chân tánh bản giác, nhưng thật ra không phải là chân tánh bản giác; vì chân tánh bản giác thì rời khỏi mọi sự thấy nghe hay biết, còn thức này thì luôn luôn nhận sự huân tập của thấy nghe hay biết, niệm niệm không dừng. Bản chất của thức vốn hư vọng, nhưng chúng sinh phàm phu thì cho đó là mạng căn, hàng Nhị-thửa thí lấy đó làm niết bàn. Lấy không làm có, cho cái hư vọng là chân thật, không thấy được sự trôi chảy bất tận mà cứ cho là trong lặng không lay động, cho nên gọi thức ấm là “vọng tưởng điên đảo”.
(236) Tám trăm công đức của nhãn căn: Ý nói sức thấy cùng cực của nhãn căn. (Xin xem lại đoạn kinh nói về công năng của sáu căn, ở nửa sau quyển 4.)
(237) Điên đảo: Mê muội đối với chánh tri kiến, mọi sự phát ngôn đều do tà tri kiến sai sử. Đoạn kinh này đề cập đến bốn loại tri kiến điên đảo: 1. Kiểu loạn: Cố chấp không thuận với lí lẽ; nói năng rối loạn lung tung, không chủ đích; không biết rõ mà cứ nói bừa. 2. Bất tử: Ngoại đạo cho rằng cõi trời Vô-tưởng là trời bất tử; nếu suốt đời không trả lời rối loạn lung tung (kiểu loạn) những câu hỏi của người khác, thì sau khi chết sẽ được sinh lên cõi trời ấy. Nếu quả thật không biết mà cứ đáp bừa, thì sợ sẽ trở thành kiểu loạn; cho nên, nếu lúc nào có người hỏi, thì cứ trả lời bằng những ngôn từ bí mật, hoặc những câu phủ định bâng quơ. Nhưng đức Phật quở rằng: chủ trương như thế mới đúng thật là “kiểu loạn”. 3. Hư luận: Luận thuyết hư ngụy, không phù hợp với nghĩa lí chân thật. 4. Biến kế: Tánh phân biệt, so đo, suy lường, làm mất đi cái tính chất chân thật của sự vật.
(238) Theo chú thích của pháp sư Viên Anh (trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa), trong quyển Đạt Ma Hiển Tông Luận có nói: Tôn giả Vô Diệt (tức A Na Luật), trong một kiếp xa xưa, dùng bảy đồng tiền sắm sửa trai phạn cúng dường Phật. Nhờ phước báo đó mà sau khi xả báo thân người, được sinh lên cõi trời Đao-lợi đến bảy lần; sau đó lại sinh vào làm người cũng bảy lần, đều làm bậc Chuyển Luân Vương; kiếp sau cùng sinh vào làm vương tử trong dòng họ Thích-ca ở thành Ca-tì-la-vệ, tên A Na Luật, theo Phật Thích Ca xuất gia tu học, chứng quả A-la-hán, thoát li sinh tử, an trú niết bàn.
(239) Bốn tội căn bản cực nặng: Danh từ Phật học Hán-Việt gọi là “tứ trọng tội”, hay “tứ căn bản trọng tội”,gồm có bốn tội: giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối.
(240) Mười tội cực ác: Danh từ Phật học Hán-Việt gọi là “thập ba-la-di tội”. Đây là giới luật đại thừa, tức 10 giới trọng trong 58 giới Bồ-tát được ghi trong kinh Phạm Võng, gồm có: 1) Giết hại 2) Trộm cắp 3) Dâm dục 4) Nói dối 5) Mua bán rượu 6) Nói lỗi của bốn chúng 7) Khen mình chê người 8) Keo kiệt ích kỉ, không muốn bố thí tài vật và giáo pháp 9) Tâm sân hận không nhận sự sám hối của người khác 10) Hủy báng Tam Bảo.
No comments:
Post a Comment